MỤC LỤC
1. Giải pháp trực tiếp........................................................................................................................................................18
1
Lời mở đầu
Một thời gian khá dài trước đây, Việt Nam đã từng duy trì một nền kinh tế tập
trung bao cấp với sự điều tiết trực tiếp những hoạt động kinh tế thông qua quá trình
đưa ra những quyết định mang tính pháp lệnh từ trung ương. Các hoạt động kinh tế
của các cấp địa phương đều tiến hành những chỉ tiêu cụ thể do nhà nước giao. Trong
thời kỳ này có thể nói rằng KHH nền kinh tế quốc dân là đặc trưng và là tính ưu việt
riêng của cơ chế tập trung, nó đã giúp nước ta huy động được các nguồn lực phục vụ
cho công cuộc kháng chiến thành công.
Tuy nhiên, việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung đã thủ tiêu tính năng động và
hiệu quả của các hoạt động kinh tế. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay thì
một nền kinh tế mang tính cấp phát với hệ thống chỉ tiêu chằng chịt không còn phù
hợp nữa. Ngày nay, trước xu thế hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ và sự biến động
khôn lường của cơ chế thị trường thì Nhà nước chỉ nên giữ vai trò điều tiết vĩ mô và
định hướng phát triển cho nền kinh tế, tạo một môi trường vĩ mô thuận lợi cho các
hoạt động kinh tế. Vì vậy, KHH với vai trò là một trong những công cụ quản lý vĩ mô
của Nhà nước cũng cần phải có sự đổi mới phù hợp với yêu cầu thực tế, đi chung với
điều đó là một hệ thống chỉ tiêu hợp lý là rất quan trọng.
Tại Đại hội IX, Đảng ta cũng đã khẳng định “ cần tiếp tục tạo lập đồng bộ các
yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước”, đồng
thời “ Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch hoá, trong đó có hệ thống chỉ tiêu, nâng cao chất
lượng xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội”.
Chính vì những lý do trên, mà em quyết định chọn đề tài “Đổi mới hệ thống
chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở VIỆT NAM”. Bài nghiên cứu này
không có mục đích gì khác là nhằm giúp người đọc hiểu rõ hơn vì sao cần phải đổi
mới chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, thấy được những bước
tiến trong công tác đổi mới chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta,
kinh nghiệm về đổi mới chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở một số nước,
2
và từ đó đưa ra những ý kiến về phương hướng đổi mới hệ thống chỉ tiêu kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Bài viết kết cấu gồm ba phần:
Phần I: Lời mở đầu
Phần II: Đổi mới hệ thống chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
Phần II gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề đổi mới chỉ tiêu KHH ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng hệ thống chỉ tiêu KHPTKTXH ở VIỆT NAM
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu KHPTKTXH ở Việt Nam
Phần III: Kết luận
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy giáo đã giúp đỡ em trong quá
trình viết bài. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song không tránh khỏi những thiếu sót, em
rất mong có được sự đóng góp ý kiến từ phía bạn đọc. Em xin chân thành cảm ơn.
Chương 1:
3
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI CHỈ TIÊU
KẾ HOẠCH HÓA Ở VIỆT NAM
1. Một số khái niệm và bản chất của đổi mới chỉ tiêu kế hoạch hóa.
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm kế hoạch hóa:
- Kế hoạch là khâu xác định mục tiêu, là quá trình, là sự thể hiện ý đồ phát
triển của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý và các giải pháp thực thi.
- Kế hoạch hoá (tức là thực hiện các hoạt động kinh tế xã hội có kế hoạch) là
quá trình làm kế hoạch và sử dụng kế hoạch với tư cách là công cụ để điều tiết các
hoạt động hành vi.
- Kế hoạch hoá vĩ mô nền kinh tế quốc dân là phương thức quản lý nền kinh
tế của Nhà nước theo mục tiêu. Nó thể hiện bằng những mục tiêu định hướng phát
triển KTXH phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định của một quốc gia
và những giải pháp chính sách, những cân đối vĩ mô cần thiết nhằm đạt được các
mục tiêu đề ra một cách có hiệu quả cao nhất.
Như vậy, KHH không chỉ là lập KH mà còn là quá trình tổ chức, thực hiện và
theo dõi, đánh giá kết quả.
1.1.2. Khái niệm hệ thống chỉ tiêu kế hoạch hóa:
Chỉ tiêu kế hoạch là những nhiệm vụ cụ thể được xây dựng thành con số cần đạt
được trong kỳ kế hoạch. Đó là các mục tiêu được biểu hiện bằng con số, có xác định
thời gian và không gian cụ thể. Các chỉ tiêu phản ánh phần định lượng của bản kế
hoạch và là đích phấn đấu của mỗi giai đoạn trong quá trình phát triển.
Chỉ tiêu kế hoạch là một hình thức biểu hiện cụ thể nhiệm vụ kế hoạch. Mỗi chỉ
tiêu kế hoạch bao gồm hai bộ phận là tên chỉ tiêu và trị số chỉ tiêu. Chỉ tiêu kế hoạch
được phân thành chỉ tiêu bắt buộc, chỉ tiêu định hướng và chỉ tiêu khống chế. Chỉ
tiêu có thể được phản ánh bằng 2 cách: cách thứ nhất là thể hiện sự thay đổi so với kỳ
gốc hoặc kỳ báo cáo (ví dụ, tăng gấp đôi so với năm X) hoặc giá trị tuyệt đối cần đạt
được tại một thời điểm nào đó trong kỳ kế hoạch. Con số định lượng có thể được
4
biểu đạt bằng số tuyệt đối hoặc tỷ lệ. Như vậy, chỉ tiêu luôn gắn liền với một con số
nhất định và một khung thời gian nhất định. Con số này được nhà kế hoạch xác định
ngay từ khi lập kế hoạch, dựa trên kết quả phân tích thực trạng, dự báo tương lai và
cân nhắc hợp lý các yếu tố tác động đến việc thực hiện kế hoạch. để có thể quản lý
theo kết quả thì số lượng chỉ tiêu không nên quá nhiều, và cần chú trọng hơn đến các
chỉ tiêu ở cấp mục tiêu trung gian/mục tiêu cụ thể (nhất là đối với các kế hoạch ở cấp
cao). Việc xác định quá nhiều chỉ tiêu, mà chủ yếu là các chỉ tiêu hiện vật ở cấp đầu
ra và hoạt động, như hiện nay là không phù hợp với nguyên lý lập kế hoạch theo kết
quả.
Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch là một tập hợp các chỉ tiêu kế hoạch biểu hiện những
mục tiêu cụ thể trong kế hoạch phát triển của các ngành, các cấp. là một tập hợp các
chỉ tiêu kế hoạch biểu hiện những mục tiêu cụ thể trong kế hoạch phát triển của các
ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế - xã hội và của toàn nền kinh tế quốc dân. Được
chia thành: chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu hướng dẫn; chỉ tiêu số lượng và chỉ tiêu chất
lượng; chỉ tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị. Mỗi loại chỉ tiêu thể hiện yêu cầu có tính
chỉ đạo về từng mặt trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội. Các loại chỉ tiêu có quan hệ với nhau trong hệ thống, trên cơ sở đó bảo đảm cho
nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định, đúng hướng theo một cơ cấu hợp lí, cân
đối và một tốc độ tối ưu. Cùng với quá trình đổi mới công tác kế hoạch hoá, kế hoạch
chủ yếu là dài hạn và mang tính hướng dẫn, cho nên HTCTKH cũng thu hẹp lại, còn
rất ít chỉ tiêu pháp lệnh để bảo đảm các cân đối cơ bản của nền kinh tế quốc dân,
nhằm tạo điều kiện cho xí nghiệp phát huy mạnh tinh thần chủ động, linh hoạt thực
hiện quyền tự chủ kinh doanh kết hợp kế hoạch hoá với cơ chế thị trường.
Hệ thống chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển được hiểu là thước đo cụ thể nhiệm
vụ cần đạt được của thời kỳ kế hoạch. Các thước đo này thể hiện cả về số lượng và
chất lượng. Nó cho phép xác định nội dung cơ bản của quá trình phát triển kinh tế -
xã hội, các bộ phận cấu thành cụ thể của nó và được nhà nước sử dụng để thực hiện
quá trình điều tiết nền kinh tế
1.2.Bản chất của đổi mới chỉ tiêu kế hoạch
5
Là quá trình đặt ra và thực hiện vấn đề tăng, giảm định lượng, định tính hệ
thống chỉ tiêu hiện có nhằm mục đích nâng cao chất lượng của hệ thống chỉ tiêu
trong kế hoạch hóa phát triển.
Việc xây dựng hệ thống các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn
diện , có độ tin cậy cao, mang tính khả thi và được cập nhật thường xuyên có ý nghĩa
rất quan trọng trong tất cả các kế hoạch của nền Kinh tế quốc dân.
Cấu trúc và yêu cầu đối với chỉ tiêu kế hoạch tốt:
- Về cấu trúc: nhìn chung một chỉ tiêu phải bao gồm it nhất 5 nội dung cơ bản:
tên chỉ tiêu, con số định lượng, không gian phản ánh, đối tượng phản ánh,
thời gian đo lường. Trong một bối cảnh cụ thể, ba nội dung sau trong cấu
trúc chỉ tiêu có thể đều được mọi người hiểu thống nhất thì không nhất thiết
phải nêu ra, nhưng hai nội dung đầu nhất định phải có.
- Trong quá trình xây dựng các chỉ tiêu phát triển, một yêu cầu mang tính
nguyên tắc là các chỉ tiêu phải đảm bảo yêu cầu SMART:
S – specific: cụ thể: liệu chỉ tiêu đó có đo được cái cần phải đạt hay không?
M – measurable: đo đếm được: chỉ tiêu có xác định chính xác và đo được về
lượng và chất.
A – achievable: có thể đạt được: chỉ tiêu có phù hợp với nhu cầu, năng kực và
trình đọ của địa phương?
R – realistic: thực tiễn: chỉ tiêu xây dựng có phù hợp với khả năng và nguồn lực
sẵn có của địa phương hay không?
T – timebound: có thời hạn cụ thể: chỉ tiêu có liên quan đến một giai đoạn cụ thể
hay không?
6
2. Sự cần thiết phải đổi mới hệ thống chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
2.1. Bản chất của kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là sản phẩm của sự phát triển loài người, nó là hình thức phát
triển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế thị trường thực hiện phân bổ các nguồn lực
của xã hội thông qua cơ chế thị trường được chi phối bởi các quy luật cơ bản là quy
luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. Các quan hệ mang tính áp đặt,
cưỡng đoạt của kinh tế tự nhiên đã được thay bằng quan hệ thị trường ngang giá, trao
đổi hàng hoá- tiền tệ. Lực lượng sản xuất phát triển được hỗ trợ bởi một hệ thống các
thể chế thị trường nhằm đảm bảo cho nền kinh tế vận hành một cách có hiệu quả
nhất.
Kinh tế thị trường là một sự phát triển mang tính tất yếu. Từ những mầm
mống phát sinh trong nền kinh tế phong kiến, sự phát triển của lực lượng sản
xuất đã phá vỡ những kết cấu phong kiến, thúc đẩy tự do hoá kinh tế và thiết
lập vững chắc mối quan hệ hàng hoá tiền tệ. Tích luỹ tư bản, quá trình công
nghiệp hoá đã biến mọi yếu tố của sản xuất thành hàng hoá. Kinh tế thị
trường luôn tồn tại và phát triển ngay cả khi một quốc gia nào đó không thừa
nhận nó (Kolotco, 2004). Những động lực phát triển mang tính nội sinh đã
giúp cho nền kinh tế thị trường trở thành tất yếu.
Kinh tế thị trường có khả năng thích ứng với các hình thái xã hội khác nhau.
Quá trình phát triển kinh tế thị trường đã cho thấy cơ chế kinh tế thị trường
có thể phát huy tác dụng tích cực của nó với những chủ thể kinh tế khác
nhau: cá thể, tiểu chủ, tư bản hay nhà nước. Điều quan trọng là các chủ thể
kinh tế này cần có khả năng độc lập và cạnh tranh một cách bình đẳng, các
quy luật của thị trường phải được tôn trọng. Nói cách khác, kinh tế thị
trường gắn liền với sự phát triển của sản xuất hàng hoá và hoàn toàn có thể
được xây dựng tại những quốc gia có chế độ chính trị xã hội khác nhau, vì
bản chất của kinh tế thị trường là sử dụng nguồn lực khan hiếm có hiệu quả
của quá trình sản xuất và dịch vụ.
7
Sự đa dạng trong mô hình của kinh tế thị trường, các nền kinh tế đang phát
triển hiện nay hoàn toàn có khả năng rút ngắn thời gian phát triển. Các quốc
gia với điều kiện và hoàn cảnh đi lên khác nhau có phương thức và tiến trình
xây dựng kinh tế thị trường hoàn toàn khác nhau. Với lợi thế của những
nước đi sau, áp dụng những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ, các
quốc gia này có thể tiến hành xây dựng một nền kinh tế thị trường phát triển
trong vòng 20-25 năm so với hàng trăm năm của nước Anh, hay 50 năm của
Nhật Bản.
Kinh tế thị trường thực hiện tất cả các chức năng thông qua thị trường. Các
vấn đề kinh tế cơ bản như: sản xuất cái gì, cho ai, và như thế nào? Hay việc
phân bổ nguồn lực xã hội đều được điều tiết bởi cơ chế thị trường.
2.1.1.Bản chất chung
Xét về bản chàt, KHH là sự tác động có ý thức của Chính phủ vào nền kinh tế,
nhằm định hướng và điều khiển sự biến đổi của những biến số kinh tế chính (tiêu
dùng, đầu tư, tiết kiệm, xuất, nhập khẩu…) của một nước hay một khu vực nào đó để
đạt được mục tiêu đã định trước.
Như vậy, bản chất của kế hoạch hoá: trước hết, được mô tả như là một loạt các
mục tiêu kinh tế - xã hội cần đạt được trong khoảng thời gian đã định sẵn. Một kế
hoạch toàn diện đặt ra những mục tiêu bao hàm tất cả mọi mặt trong kinh tế quốc
dân. Một kế hoạch từng phần sẽ đề cập đến một phần của nền kinh tế. Kế tiếp, bản
chất của kế hoạch hoá được thể hiện ở cách thức thực hiện sự can thiệp của chính
phủ vào nền kinh tế để thực hiện những mục tiêu đặt ra. Bản chất là giống nhau
nhưng sự biểu hiện của bản chất này được thể hiện không giống nhau trong các
phương thức kế hoạch hoá khác nhau.
2.1.2.Bản chất của kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường
Kể cả các nước có nền kinh tế thị trường mạnh như Mỹ, Nhật, Anh…, KHH vẫn
đóng một vai trò sống còn , mặc dù tương đối gián tiếp trong nền kinh tế. Đặc trưng
cơ bản của các nước có nền kinh tế thị trường là tính chất đa thành phần kinh tế, sở
hữu tư nhân dưới nhiều hình thức khác nhau thống trị toàn bộ hệ thống kinh tế. Ở
8
đây, thị trường tồn tại như một sức mạnh thần bí chi phối các mặt hoạt động của đời
sống kinh tế - xã hội. Kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường là thể hiện nỗ lực có
ý thức của chính phủ trong việc chủ động thiết lập các mối quan hệ giữa nhu cầu tiêu
dùng của xã hội với khả năng nguồn lực hạn chế, nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng
cao nhất của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội trên cơ sở sử dụng nguồn lực một
cách có hiệu quả cao nhất.
KHH trong nền kinh tế thị trường là KHH định hướng phát triển, trong đó các
mục tiêu và chỉ tiêu được xác định mang tính định hướng, dự báo, nó chỉ thể hiện
trong một số lĩnh vực chủ yếu, được ưu tiên trong từng giai đoạn phát triển nhất định.
Để thực hiện được các mục tiêu đặt ra, cơ chế tác động của Chính phủ thường mang
tính gián tiếp thông qua các chính sách định hướng và điều tiết vĩ mô. Những công cụ
chính sách được sử dụng chủ yếu là những công cụ trong lĩnh vực tiền tệ, tài chính và
các quan hệ ngoại thương. Các chính sách tăng chi tiêu tài chính và điều chỉnh chi
tiêu của chính phủ và tỷ lệ thuế được tăng cường đã tạo việc làm nhiều hơn và thu
nhập cao hơn cho dân cư. Lạm phát và giảm phát được kiểm soát bằng các chính sách
tài chính, các cuộc điều chỉnh lãi suất hay các nguyên tắc chỉ đạo về giá lương.
Những biến động trong cán cân thanh toán được xử lý bằng những điều chỉnh về thuế
nhập khẩu, kiểm soát tỷ giá, hạn ngạch và thuế. Trong tất cả các phương pháp nói
trên thì những công cụ của chính sách là năng động và gián tiếp.
Có thể nói rằng: Kế hoạch hóa đứng về mặt bản chất là giống nhau với mọi nền
kinh tế. Nhưng nội dung và hình thức biểu hiện là khác nhau trong các phương thức
kế hoạch hóa khác nhau. Kế hoạch hóa tập trung mang tính cưỡng chế trực tiếp, nó
thể hiện ở tính chất pháp lệnh. Tính chất hiện vật và tính chất cấp phát – giao nộp
trong hệ thống chỉ tiêu và chỉ đạo thực hiện. Kế hoạch hóa phát triển manh tính
thuyết phục gián tiếp và được xem là công nghệ của sự lựa chọn các hoạt động hợp
lý và tối ưu, ngăn chặn để cho nền kinh tế khỏi đi lạc với mục tiêu tăng trưởng ổn
định bằng những công cụ năng động và gián tiếp. Một kế hoạch như trên phải là kế
hoạch ở tầm vĩ mô, một kế hoạch hướng dẫn và kế
2.2. Chức năng của kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường.
9