Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG LÃNH đạo CÔNG tác bảo đảm hậu cần TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG mỹ GIAI đoạn 1969 1973

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.57 MB, 107 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Bảo đảm hậu cần
Chủ nghĩa xã hội
Nhà xuất bản
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
BĐHC
CNXH
Nxb
XHCN

MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ
CÔNG TÁC BẢO ĐẢM HẬU CẦN QUÂN ĐỘI
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ,
CỨU NƯỚC TỪ NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1973
1.1. Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo công tác bảo đảm

10

hậu cần quân đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,


cứu nước (1969 – 1973)
1.2. Chủ trương của Đảng về công tác bảo đảm hậu cần

10

quân đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1969 – 1973)
1.3. Chỉ đạo của Đảng về công tác bảo đảm hậu cần quân đội

18

trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1969 – 1973)
Chương 2 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
2.1. Nhận xét quá trình Đảng lãnh đạo công tác bảo đảm

32
52

hậu cần quân đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1969 – 1973)
2.2. Một số kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng lãnh đạo

52

công tác bảo đảm hậu cần quân đội trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


67
82
84
91

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác BĐHC quân đội là một mặt của công tác quân sự, là một trong
những yếu tố tạo nên sức mạnh chiến đấu, bảo đảm thắng lợi cho quân đội
ngoài chiến trường. V.I. Lênin đã khẳng định: “một quân đội giỏi nhất, những
người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều sẽ bị quân thù tiêu
diệt nếu không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện một cách đầy
đủ” [35, tr.497]. Kế thừa lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về chiến tranh và
quân đội, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “công việc cung cấp cũng quan
trọng như việc trực tiếp đánh giặc ngoài mặt trận: Cung cấp đủ súng đạn, đủ
cơm áo cho bộ đội, thì bộ đội mới đánh thắng trận, điều đó rất rõ ràng dễ
hiểu” [42, tr.179].
Công tác BĐHC quân đội là công tác có tầm quan trọng chiến lược. Vì
vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ đối với mặt công tác này. Thực tiễn lịch
sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc, tiêu biểu là cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước đã chứng minh điều đó. Đặc biệt, giai đoạn từ năm 1969 đến
năm 1973, nhờ có đường lối lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng, công
tác BĐHC quân đội đã giành được những thắng lợi to lớn, bảo đảm đầy đủ,
kịp thời mọi mặt cho bộ đội kiên trì, bám trụ trên các chiến trường, góp phần
đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, buộc đế quốc Mỹ phải ký
Hiệp định Pari, rút quân Mỹ và quân chư hầu về nước.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, tình hình thế
giới thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường; hòa bình, hợp tác và phát triển
tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành tài nguyên
và lãnh thổ... ngày càng gay gắt. Trước tình hình đó, để hoàn thành trọng
trách của một lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc,
Quân đội nhân dân Việt Nam cần phải được xây dựng vững mạnh, toàn diện,

3


có chất lượng tổng hợp, sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu ngày càng
cao; trong đó, phải tập trung xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Những yêu cầu đó đã đặt ra cho công tác
BĐHC quân đội những nhiệm vụ rất nặng nề và hết sức khẩn trương, như:
kiện toàn tổ chức, tăng cường lực lượng, củng cố và hoàn thiện thế trận hậu
cần, xây dựng và mở rộng các nguồn bảo đảm, điều chỉnh, phân bổ dự trữ vật
chất, cải tiến phương thức bảo đảm... Muốn thực hiện được những nhiệm vụ
trên, yêu cầu tất yếu khách quan là phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác BĐHC quân đội.
Vì vậy, nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BĐHC quân
đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1969 đến năm 1973
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần làm rõ tính đúng đắn, sáng
tạo về nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh vũ trang của Đảng trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và tìm ra quy luật vận động, phát triển của
hậu cần quân đội để vận dụng vào BĐHC trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài : “Đảng lãnh đạo công tác bảo đảm
hậu cần quân đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm
1969 đến năm 1973", làm luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử

Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong suốt chiều dài cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung
và giai đoạn 1969 – 1973 nói riêng, Đảng ta luôn xác định công tác BĐHC là
công tác có tầm quan trọng chiến lược, có ý nghĩa quyết định thắng lợi trên
chiến trường. Do đó, vấn đề này đã thu hút nhiều cơ quan, các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau. Trong đó, có nhiều công
trình đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BĐHC quân đội trong

4


cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1969 đến năm 1973. Tiêu biểu
là các công trình khoa học:
Nhóm các sách chuyên luận, chuyên khảo:
Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi và bài học,
của Ban Chỉ đạo trực thuộc Bộ Chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995; Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 2 (1954 - 1975), của
Tổng cục hậu cần, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992; Lịch sử vận tải
Quân đội nhân dân Việt Nam (1945 - 1975), của Tổng cục Hậu cần, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992; Tổng kết hậu cần trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), của Tổng cục Hậu cần, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 2001; Biên niên sự kiện lịch sử hậu cần Quân đội nhân
dân Việt Nam (1954 – 1975), của Tổng cục Hậu cần, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1992; Tuyển tập bài nói, bài viết tiêu biểu của các đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước và quân đội về công tác hậu cần (1950 – 2010), của Tổng
cục Hậu cần, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010...
Các công trình khoa học trên tiếp cận ở nhiều chiều cạnh khác nhau,
nhưng có điểm chung nhất là đều tập trung chủ yếu vào tổng kết sự chỉ đạo và
tổ chức thực hiện công tác hậu cần ở cấp chiến lược trong suốt quá trình cuộc

chiến tranh. Các công trình này chỉ dừng lại ở những vấn đề lớn của công tác
BĐHC, phạm vi rộng là trong kháng chiến chống Mỹ, chưa đề cập trực diện,
đầy đủ, chuyên sâu đến chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong công tác
BĐHC quân đội từ năm 1969 đến năm 1973. Song, đây là cơ sở, nguồn tư
liệu trực tiếp để tác giả kế thừa, định hướng nội dung, sử dụng số liệu để
thuyết minh cho các luận điểm trong đề tài và phục vụ quá trình nghiên cứu.
Nhóm các bài báo khoa học đăng trên các tạp chí:
“Từ công tác hậu cần chiến lược trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước,
suy nghĩ về xây dựng hậu cần tại chỗ và hậu cần cơ động trong bảo vệ Tổ quốc
ngày nay”, Nguyễn Văn Đà, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 4 (2000); “Tinh

5


thần tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng của hậu phương lớn miền Bắc
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Phạm Trọng Đẩu, Tạp chí Giáo
dục lý luận chính trị quân sự, số 2 (2005); “Vai trò hậu phương lớn miền Bắc
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Trần Phước, Tạp chí Quốc phòng
toàn dân, số 8 (2005); “Công tác vận chuyển và bảo đảm xăng dầu trên tuyến
vận tải chiến lược Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ”, Dương Hồng
Anh, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học hậu cần quân sự, số 4 (2010); “Kinh nghiệm
hậu cần nhân dân trên chiến trường Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước – Hướng kế thừa, phát triển”, Phạm Minh Thư, Tạp chí Nghiên cứu Khoa
học hậu cần quân sự, số 6 (2010)... Các bài viết đã tập trung luận giải, làm rõ vai
trò của hậu phương miền Bắc, hậu cần nhân dân, đưa ra những số liệu, thống kê
chính xác và phong phú làm nổi bật vai trò của công tác hậu cần trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Vì vậy, đây là những tư liệu quý, có giá trị
khoa học, tác giả có thể sử dụng làm nguồn tài liệu nghiên cứu của đề tài.
Nhóm các luận văn, luận án và đề tài khoa học:
Những nghiên cứu của các nhà khoa học gồm các luận án, luận văn

viết về công tác BĐHC trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có
các công trình:
Chuẩn bị hậu cần chiến dịch phản công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, Luận án Tiến sĩ ngành Hậu cần, của Nguyễn Đình Sắc, Học viện Hậu
cần, Hà Nội, 1989; Công tác vận tải chiến dịch ở chiến trường Tây Nguyên
trong kháng chiến chống Mỹ, Luận án Tiến sĩ ngành Hậu cần, của Đồng Minh
Tại, Học viện Hậu cần, Hà Nội, 1995; Chuẩn bị hậu cần của sư đoàn bộ binh
tiến công địch phòng ngự trong công sự ở địa hình rừng núi trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ, Luận án Tiến sĩ ngành Hậu cần, của Hà Văn Phong, Học viện
Hậu cần, Hà Nội, 2002. Những công trình khoa học trên đã tập trung nghiên cứu
cơ sở lý luận, thực tiễn và những chủ trương, biện pháp của công tác BĐHC nói
chung trong chiến tranh, nhưng chỉ dưới góc độ của chuyên ngành Hậu cần.

6


Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác bảo đảm hậu cần quân đội
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1973 đến 1975, Luận văn
Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, của Nguyễn Huy
Động, Học viện Chính trị, Hà Nội, 2006. Đề tài tập trung trình bày chủ trương
và sự chỉ đạo của Đảng đối với công tác BĐHC quân đội trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1973 đến năm 1975; từ đó, tác giả đưa ra
những thành công, hạn chế, nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm.
Đảng lãnh đạo bảo đảm hậu cần quân đội trong chống chiến tranh phá
hoại lần thứ nhất từ năm 1964 đến năm 1968, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, của Trần Văn Hiển, Học viện Chính trị, Hà
Nội, 2011. Đề tài đã khẳng định tính tất yếu khách quan Đảng lãnh đạo BĐHC
quân đội trong chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất từ năm 1964 đến năm
1968, làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng và đã đưa ra được những kinh
nghiệm quý báu.

Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với công tác hậu cần quân đội từ
1945 đến 1969, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, của Đoàn Quyết Thắng, Học viện Chính trị, Hà Nội, 2009. Đề tài đã đi
sâu phân tích làm sáng tỏ những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hậu
cần quân đội trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Đặc biệt, làm rõ vai trò của
Người trong chỉ đạo công tác hậu cần và những cống hiến của Người đối với
công tác hậu cần quân đội.
Đảng lãnh đạo xây dựng tuyến đường Trường Sơn trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1959 – 1975), Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, của Nguyễn Huy Động, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 2011. Đề tài đã trình bày tính tất yếu khách quan của việc
xây dựng tuyến đường Trường Sơn; phân tích, làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của
Đảng trong xây dựng, củng cố, phát huy vai trò của tuyến đường Trường Sơn

7


trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; rút ra những kinh nghiệm có giá trị vận
dụng vào xây dựng tuyến đường Trường Sơn trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Nhìn chung, các công trình khoa học trên đều có đề cập đến công tác hậu
cần trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Dưới góc độ Lịch sử Đảng, chưa
có một công trình khoa học nào trình bày một cách có hệ thống về chủ trương
và sự chỉ đạo của Đảng đối với công tác BĐHC quân đội trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước từ năm 1969 đến năm 1973. Tuy nhiên, tác giả có thể kế
thừa những thành tựu nghiên cứu của những công trình trên trong việc thực
hiện đề tài của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quá trình Đảng lãnh đạo công tác BĐHC quân đội trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1969 đến năm 1973. Trên cơ

sở đó, rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm để vận dụng trong công tác
BĐHC quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích, làm rõ yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo công tác BĐHC
quân đội từ năm 1969 đến năm 1973.
Làm sáng tỏ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về công tác BĐHC quân
đội từ năm 1969 đến năm 1973.
Nhận xét và rút ra những kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác BĐHC quân đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm
1969 đến năm 1973.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động lãnh đạo của Đảng về công tác BĐHC quân đội trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
* Phạm vi nghiên cứu

8


Về nội dung: nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về công tác
BĐHC quân đội.
Về thời gian: từ 01/1969 đến 01/1973, bên cạnh đó còn đề cập đến trước
và sau khoảng thời gian trên để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
Về không gian: Trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, đề tài có đề cập đến
sự phối hợp BĐHC giúp đỡ hai nước bạn Lào và Campuchia.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phương pháp luận sử học.
* Phương pháp nghiên cứu

Vận dụng phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành lịch sử
Đảng như: phương pháp lịch sử, phương pháp lô gích. Ngoài ra, còn sử dụng
nhiều phương pháp khác như đồng đại, lịch đại, so sánh, thống kê...
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần tổng kết quá trình lãnh đạo của Đảng về công tác
BĐHC quân đội trong chiến tranh, làm phong phú thêm tri thức lịch sử về sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đề tài khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng lãnh đạo công tác
BĐHC quân đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1969
đến năm 1973, qua đó nêu lên những kinh nghiệm có thể vận dụng trong việc
lãnh đạo công tác BĐHC hiện nay.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy, học tập bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở
các học viện, trường đại học trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu, 2 chương (5 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.

9


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC
BẢO ĐẢM HẬU CẦN QUÂN ĐỘI TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC TỪ NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1973

1.1. Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo công tác bảo
đảm hậu cần quân đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1969 - 1973)
1.1.1. Vị trí, vai trò công tác bảo đảm hậu cần quân

đội trong chiến tranh
Hậu cần quân đội là một thành phần lực lượng thuộc hệ thống tổ chức
của quân đội bao gồm toàn bộ cơ quan, đơn vị hậu cần cùng các hoạt động,
các loại công việc phải dùng nhân lực, vật lực, tài lực, phương tiện và trình độ
chuyên môn nghiệp vụ để tiến hành các biện pháp tổ chức, quản lý, chỉ huy,
bảo đảm nhằm đáp ứng những nhu cầu về vật chất, sinh hoạt, quân y, vận tải
cho quân đội xây dựng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu.
Công tác BĐHC quân đội là một mặt công tác quân sự bao gồm tổng thể
những hoạt động để tổ chức thực hiện bảo đảm vật chất, sinh hoạt, quân y, vận
tải… cho quân đội thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Công tác BĐHC
quân đội là khâu nối liền hậu phương đất nước với lực lượng vũ trang ở tiền
tuyến, nối liền nền kinh tế của quốc gia với hoạt động và tác chiến của quân đội,
là một mặt công tác góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của quân đội, là một
trong những nhân tố quan trọng góp phần quyết định thắng lợi của chiến tranh.
Học thuyết Mác – Lênin về chiến tranh và quân đội đã khẳng định: chiến
tranh là cuộc đọ sức toàn diện giữa hai lực lượng, hai bên tham chiến trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, nền kinh tế cùng các điều kiện
bảo đảm vật chất hậu cần cho quân đội giữ vai trò quyết định thắng lợi trên

10


chiến trường. Vì vậy, Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: “Không có gì lại phụ thuộc
vào những điều kiện kinh tế hơn là chính ngay quân đội và hạm đội. Vũ trang,
biên chế, tổ chức, chiến thuật, chiến lược phụ thuộc trước hết vào trình độ sản
xuất đạt được trong một thời điểm nhất định và vào phương tiện giao thông”
[37, tr.235]; “toàn bộ việc tổ chức và phương thức chiến đấu của quân đội, và
do đó thắng lợi hay thất bại đều rõ ràng phụ thuộc vào các điều kiện vật chất,
nghĩa là điều kiện kinh tế, vào chất liệu của con người và của vũ khí, nghĩa là
vào chất lượng, số lượng của dân cư và của kỹ thuật” [37, tr.241].

Như vậy, trong mỗi cuộc chiến tranh, vấn đề cung cấp, bổ sung vật chất
cho quân đội ngoài mặt trận là một trong những yếu tố không thể thiếu. Thắng
lợi hay thất bại trên chiến trường đều phụ thuộc vào việc có bảo đảm đầy đủ,
kịp thời những điều kiện vật chất hay không?
Kế thừa, phát triển luận điểm của Ph.Ăngghen về vai trò của công tác
BĐHC quân đội, V.I.Lênin nhấn mạnh: “Muốn phòng thủ, phải có một quân
đội kiên cường vững mạnh, một hậu phương vững chắc và muốn có một quân
đội kiên cường và vững mạnh thì trước hết phải tổ chức thật vững chắc công
tác lương thực” [36, tr.423]. Công tác lương thực mà V.I.Lênin nói ở đây, có
thể hiểu là công tác bảo đảm đời sống cho bộ đội. Theo V.I.Lênin, muốn xây
dựng lực lượng vũ trang vững mạnh và bảo đảm cho lực lượng vũ trang chiến
đấu thắng lợi thì trước hết phải làm tốt “công tác lương thực” - công tác
BĐHC quân đội.
Trên nền tảng Học thuyết Mác – Lênin về chiến tranh và quân đội, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã bổ sung, phát triển trên nhiều vấn đề về công tác BĐHC
quân đội. Khẳng định vai trò to lớn của công tác BĐHC đối với quân đội,
Người viết: “quân đội không có vận tải thì chết. Không có lương thực thì chết.
Không có tích lũy thì chết” [39, tr.527]. Bên cạnh đó, Người chỉ rõ: “Về quân
sự, quân nhu và lương thực rất quan trọng. Có binh hùng, tướng giỏi, nhưng
thiếu quân nhu, lương thực, không thể thắng trận được” [40, tr.261]. Như vậy,

11


trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của công tác BĐHC quân
đội, coi đó là mặt công tác có ý nghĩa quan trọng hàng đầu quyết định thắng
lợi của bộ đội trên chiến trường.
Thực tiễn các cuộc chiến tranh trên thế giới cũng đã khẳng định vị trí, vai
trò của công tác BĐHC quân đội. Trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của

nhân dân Liên Xô (1941 – 1945), nhờ làm tốt công tác BĐHC quân đội, hậu
cần của các lực lượng vũ trang Xô viết đã cung cấp cho chiến trường hàng triệu
đơn vị vũ khí và binh khí kỹ thuật các loại, trên 10 triệu tấn đạn dược các loại,
gần 16,4 triệu tấn nhiên liệu... góp phần đánh tan phát xít Đức và quân phiệt
Nhật. Nhận xét về thắng lợi này, Đại tướng S.Cu-rơ-cốt-kin đã từng viết: “Hậu
cần của các lực lượng vũ trang Xô viết đã giữ một vai trò to lớn trong việc bảo
đảm thắng lợi” [12, tr.7].
Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn
các cuộc chiến tranh trên thế giới đều khẳng định công tác BĐHC quân đội có
vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh
chiến đấu của quân đội, là yếu tố quyết định thắng lợi của quân đội trên chiến
trường. Vì vậy, đòi hỏi Đảng phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
đối với mặt công tác này trong mọi thời kỳ lịch sử, nhằm nâng cao sức mạnh
tổng hợp, sức chiến đấu của lực lượng vũ trang.
1.1.2. Nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1969 - 1973
Thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết
Mậu Thân 1968 đã “làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ”, tạo nên bước
ngoặt quan trọng của cuộc chiến tranh, làm phá sản hoàn toàn chiến lược “chiến
tranh cục bộ”, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh với việc thực hiện
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” hòng tìm lối thoát “trong danh dự”.
Đầu năm 1969, vừa trúng cử Tổng thống và chính thức bước vào Nhà
Trắng, Níchxơn cho ra đời “Học thuyết Níchxơn”, đề ra chiến lược toàn cầu

12


"Ngăn đe thực tế" thay cho chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” của
Kennơđi đã bị phá sản. Mỹ thực hiện thí điểm ở các nước Đông Dương
chiến lược toàn cầu mới, đề ra chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, “Lào
hoá chiến tranh”, “Khơme hoá chiến tranh”, và “Đông Dương hoá chiến

tranh”. “Việt Nam hoá chiến tranh” là loại hình chiến tranh xâm lược thực
dân mới của đế quốc Mỹ được tiến hành bằng quân đội tay sai là chủ yếu,
có sự phối hợp của một bộ phận đáng kể lực lượng chiến đấu Mỹ và vẫn do
Mỹ chỉ huy bằng hệ thống cố vấn quân sự, cung cấp đô la, vũ khí kỹ thuật,
phương tiện chiến tranh, nhằm chống lại các lực lượng cách mạng và nhân
dân ta [Phụ lục 06].
Thực chất đó là sự tiếp tục của âm mưu thâm độc “thay đổi màu da trên
xác chết” bằng cách “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam” với mục
tiêu khống chế kìm kẹp nhân dân miền Nam, làm cho cách mạng mất chỗ
dựa, ngăn chặn đường vận chuyển chiến lược, đẩy bộ đội chủ lực ta ra xa, tiến
tới bao vây, bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam. Ngoài ra,
thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đế quốc Mỹ còn nhằm khai
thác triệt để nhân tài, vật lực của miền Nam Việt Nam phục vụ cho chiến
tranh xâm lược. Đánh giá về âm mưu của địch, Nghị quyết Hội nghị trung
ương 18 (3/1970) Đảng nhận định:
Việt Nam hóa chiến tranh là một ý đồ chiến lược hết sức thâm độc của đế
quốc Mỹ nhằm kéo dài chiến tranh xâm lược, từng bước rút bớt quân Mỹ ra
và ngụy quân, ngụy quyền vẫn mạnh lên, cố giành thế mạnh trong thế thua,
Việt Nam hóa chiến tranh cũng là Mỹ tìm lối thoát "trong danh dự". Nó là
một kế hoạch toàn diện về quân sự, chính trị, kinh tế... [19, tr.107 – 108].
Để thực hiện được âm mưu thâm độc trên, đế quốc Mỹ đã sử dụng một
loạt các biện pháp, phát huy tối đa sức mạnh quân sự, kết hợp với thủ đoạn
chính trị, ngoại giao xảo quyệt, hòng giành thế chủ động, cô lập cuộc kháng
chiến của nhân dân ta.

13


Trước hết, đế quốc Mỹ tiếp tục thực hiện chiến lược "quét và giữ", lấy
bình định làm biện pháp chiến lược chủ yếu để thực hiện kế hoạch Việt Nam

hóa chiến tranh. Trọng điểm bình định của chúng là các vùng ven thành thị và
ven các căn cứ quân sự, các vùng nông thôn nhằm đánh phá lực lượng mọi
mặt của ta ở cơ sở, giành giật vùng nông thôn là nơi đứng chân vững chắc của
ta, thu hẹp vùng giải phóng, mở rộng vùng kiểm soát của chúng, vơ vét sức
người, sức của để củng cố và tăng cường ngụy quân, ngụy quyền gây khó
khăn cho ta về quân sự, chính trị, kinh tế. Chúng còn tăng cường đánh phá các
vùng giải phóng, các căn cứ của ta, đánh phá các tuyến hậu cần tiếp tế, ra sức
tiêu hao lực lượng, ngăn chặn các cuộc tiến công lớn của ta.
Bên cạnh đó, đế quốc Mỹ còn mở rộng chiến tranh sang Lào và
Campuchia. Ở Lào, chúng tấn công Cánh Đồng Chum (9/1969) và mở cuộc
hành quân lớn ra đường 9 – Nam Lào (2/1971) với âm mưu đánh phá, cắt đứt
tuyến vận tải chiến lược của ta. Ở Campuchia, để ngăn chặn việc tiếp tế của ta
cho miền Nam qua Campuchia, chúng tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Xi Ha
Núc (3/1970). Lon Non được Mỹ hỗ trợ, lên nắm quyền điều hành đất nước,
tuyên bố hủy bỏ Hiệp định Thương mại đối với Việt Nam, đóng cảng
Xihanúc Vin. Ngày 13 tháng 3 năm 1970, chúng đã gửi tối hậu thư buộc toàn
bộ lực lượng, kho trạm, trang bị vũ khí của ta phải rời khỏi Campuchia trong
vòng 48 giờ.
Ngoài ra, chúng còn đánh vào hậu phương quốc tế của ta. Đế quốc Mỹ
thực hiện chủ trương thâm độc “bắc nửa nhịp cầu”, “hòa hoãn Đông – Tây”,
“kết bạn” với từng nước nhằm cô lập cách mạng Việt Nam. Mặt khác, chúng
lợi dụng mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc, tìm cách chia rẽ, lôi kéo các
nước XHCN, tranh thủ các nước lớn hạn chế viện trợ quốc tế cho ta.
Như vậy, âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ vô cùng tinh vi, xảo quyệt,
chống phá ta trên tất cả các mặt, trong đó, chúng tập trung triệt hạ kinh tế, phá
các cơ sở hậu cần, đánh phá các tuyến vận tải chiến lược, ngăn chặn sự chi

14



viện của miền Bắc cho miền Nam, gây không ít khó khăn cho quá trình bảo
đảm, cung cấp cho bộ đội, ảnh hưởng đến hiệu suất chiến đấu của bộ đội trên
các chiến trường miền Nam. Vì vậy, hơn lúc nào hết, Đảng cần phải tăng
cường lãnh đạo công tác BĐHC quân đội trong mọi tình huống chiến tranh.
Trước âm mưu, thủ đoạn của địch, ta phải kiên quyết đẩy mạnh tiến
công toàn diện đập tan âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh” của địch, đánh
cho Mỹ phải cút, ngụy phải nhào, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành
thắng lợi hoàn toàn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 18 Ban chấp hành Trung
ương số 196-NQ/TW, ngày 10 tháng 3 năm 1970 đã khẳng định:
Nhiệm vụ trước mắt của ta trong suốt giai đoạn mới của cuộc kháng chiến
là: động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên
cả hai miền, phát huy thắng lợi đã đạt được, kiên trì và đẩy mạnh cuộc
kháng chiến, tiếp tục phát triển chiến lược tiến công một cách toàn diện,
liên tục và mạnh mẽ, đẩy mạnh tiến công quân sự và tiến công chính trị,
kết hợp với tiến công ngoại giao, vừa tiến công địch vừa ra sức xây dựng
lực lượng quân sự và chính trị của ta ngày càng lớn mạnh; đánh bại âm
mưu Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ, đánh bại âm mưu của
chúng xuống thang từng bước, kéo dài chiến tranh để tạo thế mạnh hòng
duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới của chúng ở miền Nam nước ta; làm
thất bại chiến lược phòng ngự của địch, tạo nên chuyển biến mới trong
cục diện chiến tranh, giành thắng lợi từng bước đi đến giành thắng lợi
quyết định, đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho ngụy phải suy sụp,
tạo điều kiện cơ bản để thực hiện một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa
bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà [19, tr.117].
Có thể thấy, nhiệm vụ trên vô cùng khó khăn, phức tạp và bao quát trên
tất cả các lĩnh vực (chính trị, quân sự, ngoại giao...). Trong đó, mục tiêu cao
nhất là đánh bại âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh” của địch nhằm tạo nên
chuyển biến mới trong cục diện chiến tranh, giành thắng lợi từng bước đi đến

15



giành thắng lợi hoàn toàn. Để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ đó trong giai
đoạn mới, đòi hỏi Đảng ta phải phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, nâng cao chất lượng về mọi mặt và trình độ sẵn sàng chiến đấu của
lực lượng vũ trang, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt, ra
sức làm tốt công tác BĐHC quân đội. Muốn vậy, Đảng phải tăng cường sự
lãnh đạo của mình trên tất cả các mặt trận, trong đó, có công tác BĐHC quân đội
– yếu tố quan trọng góp phần quyết định thắng lợi của bộ đội trên chiến trường.
1.1.3. Yêu cầu của công tác bảo đảm hậu cần quân
đội sau Mậu Thân 1968
Giai đoạn 1965 - 1968, thực hiện đường lối của Đảng, dưới sự lãnh
đạo, chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc Phòng, hậu cần
quân đội đã làm tốt công tác BĐHC cho lực lượng vũ trang góp phần đánh
thắng chiến tranh phá hoại lần thứ nhất trên miền Bắc và đập tan âm mưu, thủ
đoạn thâm độc của đế quốc Mỹ trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”.
Qua thử thách chiến tranh, công tác BĐHC quân đội đã có bước trưởng
thành nhanh chóng, mạnh mẽ và toàn diện: đã kịp thời đáp ứng các yêu cầu,
cung cấp đầy đủ vũ khí, trang bị, phương tiện... cho bộ đội tác chiến trên các
chiến trường; bảo đảm tốt giao thông vận tải, xây dựng, giữ vững được tuyến
giao thông vận tải chiến lược Bắc – Nam, chuyển mạnh sang vận chuyển cơ
giới, ngày càng phát triển vươn sâu từ hậu phương miền Bắc đến tiền tuyến
miền Nam, tạo điều kiện chi viện vật chất kỹ thuật, lực lượng cho các chiến
trường miền Nam đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc chiến tranh; xây
dựng, phát triển tổ chức lực lượng hậu cần trên các chiến trường miền Nam,
xây dựng có hệ thống các căn cứ hậu cần của từng chiến trường, tổ chức bố trí
lực lượng hậu cần bảo đảm theo khu vực kết hợp với đẩy mạnh khai thác, thu
mua, tạo nguồn BĐHC tại chỗ, xây dựng được thế trận hậu cần tại chỗ trên
từng địa bàn, từng khu vực tác chiến...


16


Tuy nhiên, sau Mậu Thân 1968, do địch tăng cường càn quét, đánh phá
các vùng ven đô, phát triển mạnh ra các vùng giáp ranh, tiến công dữ dội các
vùng giải phóng, trọng điểm là đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng ven
biển Khu 5, làm cho công tác BĐHC quân đội đứng trước khó khăn, thử thách
nghiêm trọng: vùng giải phóng bị thu hẹp, nhiều căn cứ hậu cần bị đánh phá
phải thu hẹp phạm vi hoạt động, dự trữ hậu cần giảm sút, nguồn cung cấp
ngày càng hạn chế, nhiều hành lang vận chuyển trên các chiến trường bị ngăn
chặn. Vì vậy, quân số, vũ khí, trang bị của nhiều đơn vị lực lượng vũ trang
thiếu thốn, nguồn bổ sung hầu như không có. Tình trạng thiếu đói về lượng
thực, thuốc men diễn ra trong nhiều ngày, ảnh hưởng đến tinh thần và sức
chiến đấu của bộ đội. Ở mặt trận Tây Nguyên, số gạo còn lại của năm 1968
chuyển qua năm 1969 chưa bằng một phần ba lượng tồn kho năm 1967
chuyển qua năm 1968. Thực phẩm cũng ít hơn tám lần so với năm trước, quân
trang cũng trong tình trạng thiếu hụt lớn, tính chung toàn chiến trường cứ 2
người chiến đấu ở phía trước, hoặc 8 người phục vụ ở phía sau mới được một
bộ quân phục [65, tr.324]. Trong khi đó, ở Quân khu 5, tiêu chuẩn ăn của bộ
đội từ 2 lon ngày (1 lon = 0,25kg) rút xuống còn 1 lon, rồi nửa lon, cơ quan
Quân khu bình quân 8 người mới được 1 lon gạo một ngày, có khi phải ăn sắn
hàng tuần lễ [65, tr.342]. Hậu cần các chiến trường đã tìm mọi biện pháp tháo
gỡ khó khăn, nhưng do mất đồng bằng, mất căn cứ đứng chân, lại bị địch
ngăn chặn quyết liệt, thiếu nguồn cung cấp nên ở nhiều địa bàn bộ đội ta
không bám trụ được, phải rút lên các căn cứ rừng núi. Trên chiến trường Tây
Nguyên, số lương thực, thực phẩm mua được trong năm 1969 chưa bằng một
nửa năm 1968 và ít hơn nhiều lần so với các năm trước [65, tr.325]. Có thể
nói, chưa có thời gian nào công tác BĐHC quân đội lại gặp khó khăn gay gắt
như sau Mậu Thân 1968.
Trước tình hình đó, yêu cầu bức thiết đặt ra đối với công tác BĐHC quân

đội là phải nhanh chóng khắc phục những khó khăn trước mắt, chấn chỉnh, củng

17


cố lại tổ chức lực lượng, tích cực tạo nguồn vật chất, đẩy mạnh thu mua vật chất
dự trữ từ nhiều nguồn, trên nhiều địa bàn, dưới nhiều hình thức... bảo đảm cho
bộ đội chủ lực tiếp tục xây dựng, củng cố, chặn đánh các cuộc hành quân lấn
chiếm của địch, chủ động mở các đợt, các trận chiến đấu tiến công giành giật các
địa bàn chiến lược, bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ căn cứ kháng chiến, nhằm
từng bước làm chuyển biến tình hình, tạo nên thời cơ chiến lược.
Như vậy, yêu cầu cấp bách đó đã đặt ra cho công tác BĐHC quân đội
sau Mậu Thân 1968 những nhiệm vụ hết sức nặng nề và khẩn trương, đòi hỏi
Đảng phải tăng cường lãnh đạo hơn nữa đối với mặt công tác này nhằm giải
quyết những khó khăn trước mắt, cung cấp đầy đủ, kịp thời vật chất, trang bị,
vũ khí, phương tiện... cho bộ đội kiên trì, bám trụ trên các chiến trường, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Tóm lại, xuất phát từ vị trí, vai trò của công tác BĐHC quân đội trong
chiến tranh, thực tiễn yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, thực tiễn
yêu cầu của công tác BĐHC quân đội sau Mậu Thân 1968, có thể khẳng định
rằng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BĐHC quân đội
trong giai đoạn 1969 – 1973 là một tất yếu khách quan, là yêu cầu cấp thiết
của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cuộc kháng
chiến giai đoạn sau này.
1.2. Chủ trương của Đảng về công tác bảo đảm hậu cần quân đội
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1969 – 1973)
1.2.1. Quan điểm của Đảng về công tác bảo đảm hậu cần quân đội
(1969 – 1973)
Trên cơ sở, tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác BĐHC quân đội, đồng thời kế thừa truyền thống dựng nước

và giữ nước của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sáng suốt đề ra những
quan điểm chỉ đạo công tác BĐHC quân đội trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước nói chung và trong giai đoạn 1969 – 1973 nói riêng, cụ thể là:

18


Một là, công tác BĐHC quân đội là một mặt công tác có tầm quan trọng
chiến lược.
Quan điểm này chỉ ra tầm quan trọng của công tác BĐHC quân đội. Sức
mạnh chiến đấu của quân đội là sức mạnh tổng hợp, bao gồm: chính trị, quân
sự, hậu cần, tinh thần, tư tưởng tổ chức, năng lực hành động và cơ sở vật chất
kỹ thuật. Trong đó, công tác BĐHC là một trong những yếu tố cơ bản tạo
thành sức mạnh chiến đấu của quân đội. J.V. Xta-lin đã khẳng định: “…kết
cục của các chiến dịch phụ thuộc vào việc tiếp tế đầy đủ và kịp thời đạn dược,
trang bị và lương thực cho bộ đội” [80, tr.102].
Bên cạnh đó, thực tiễn trong đấu tranh giành chính quyền (1930 – 1945)
và trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954) cho
thấy, nhờ làm tốt công tác BĐHC quân đội, ta đã cung cấp đầy đủ mọi mặt
cho lực lượng vũ trang chiến đấu giành thắng lợi, đặc biệt, góp phần làm nên
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu”.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của mặt công tác này. Nghị quyết Ban chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 12, khóa II, tháng 3 năm 1957 đã khẳng định:
Đi đôi với việc xây dựng và củng cố hậu phương của nước nhà, cần
phải xây dựng hậu phương của quân đội, cần phải tăng cường tổ chức
hậu cần và tăng cường công tác hậu cần quân đội. Hậu cần là khâu liên
hệ giữa hậu phương của Nhà nước với quân đội tác chiến ở tiền tuyến.
Tổ chức và công tác hậu cần có một tác dụng rất trọng yếu là bảo đảm
toàn bộ nhu cầu vật chất cho sinh hoạt và chiến đấu của quân đội. Dù

hậu phương của nước nhà có đầy đủ vật chất, nhưng nếu không có một
tổ chức hậu cần, không có công tác hậu cần mạnh mẽ về vận chuyển,
phân phối và cung cấp đầy đủ cho tiền tuyến thì không bảo đảm được
thắng lợi [17, tr.225 – 226].

19


Sau đó, Nghị quyết Hội nghị Tổng quân ủy (mở rộng), tháng 3 năm 1959
về những vấn đề cơ bản về đường lối quân sự của Đảng cũng nhấn mạnh: Chiến
tranh hiện đại... tiêu hao một khối lượng vật chất rất lớn, nếu không có tổ chức
hậu cần mạnh để bảo đảm vận chuyển và cung cấp đầy đủ lương thực, vũ khí,
đạn dược và mọi nhu cầu vật chất khác cho tiền tuyến, bảo đảm sức khỏe cho
quân đội tác chiến và cứu chữa thương binh, bệnh binh... thì dù quân đội có anh
dũng, thiện chiến đến đâu cũng khó mà giành được thắng lợi.
Như vậy, công tác BĐHC quân đội là chiếc cầu nối liền hậu phương
với tiền tuyến, đảm nhiệm vận chuyển, cung cấp và phân phối cho các chiến
trường. Đây là một công tác có tầm quan trọng về chiến lược. Vì vậy, Nghị
quyết của Bộ Chính trị, ngày 19 tháng 6 năm 1970 “Về tình hình mới ở bán
đảo Đông Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta” tiếp tục khẳng định tầm
quan trọng của công tác BĐHC quân đội: Ta phải khắc phục mọi khó khăn cải
tiến và tăng cường chỉ đạo, tổ chức thật tốt công tác hậu cần. Đây là một trong
những vấn đề quyết định về thắng lợi, vì vậy, phải được chú trọng đúng tầm
quan trọng của nó.
Thực hiện tốt quan điểm này, trong giai đoạn 1969 – 1973, đòi hỏi Đảng
cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của mình đối với công tác BĐHC quân đội;
chỉ đạo hậu cần các cấp thường xuyên giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ và nhân viên
hậu cần hiểu rõ được vị trí, tầm quan trọng của công tác BĐHC quân đội; cần
chống các khuynh hướng, tư tưởng xem nhẹ hay coi thường mặt công tác này...
Tóm lại, công tác BĐHC quân đội là một mặt công tác có tầm quan

trọng chiến lược và không thể thiếu trong quá trình xây dựng, chiến đấu của
lực lượng vũ trang. Nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp của
quân đội, làm cho quân đội không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, đánh thắng
mọi kẻ thù xâm lược.
Hai là, công tác BĐHC quân đội phải kiên trì “bám đất”, “bám dân”.

20


Quan điểm này tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của
quần chúng nhân dân và kế thừa truyền thống “trọng dân” của dân tộc. Đồng
thời, đây cũng là sự cụ thể hóa đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta.
Trong bài nói với đồng bào và cán bộ tỉnh Thái Bình, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “Các hợp tác xã nông nghiệp là đội quân hậu cần của quân đội chiến
đấu ngoài mặt trận” [43, tr.193]. Như vậy, nhân dân là nguồn cung cấp nhân
tài, vật lực quan trọng nhất, vì thế chỉ có dựa chắc vào dân thì hậu cần mới có
thể hoàn thành nhiệm vụ cung cấp cho lực lượng vũ trang.
Thực tiễn công tác BĐHC quân đội trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 – 1954) cũng cho thấy vai trò quan trọng của việc “bám đất”,
“bám dân”. Dựa vào dân sẽ huy động được lực lượng tại chỗ, giảm bớt cự ly
và khối lượng vận chuyển, tiết kiệm được lực lượng và tránh được tổn thất.
Đồng thời, dựa vào dân, chúng ta mới có thể chiến đấu với một quân đội
mạnh, có khả năng khống chế sự hoạt động hậu phương của ta.
Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là giai đoạn
1969 – 1973 càng khẳng định vai trò, tầm quan trọng của việc “bám đất”,
“bám dân” đối với công tác BĐHC quân đội. Đầu năm 1969, Nichxơn triển
khai thực hiện kế hoạch “bình định và phát triển” với ba giai đoạn nhằm
giành giật vùng nông thôn, cắt nguồn tiếp tế của bộ đội, mở rộng địa bàn
chiếm đóng. Mặt khác, sau tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, do ta
bỏ lỏng vùng nông thôn nên bộ đội chủ lực, trừ một bộ phận còn đứng

được ở các “lõm căn cứ” đồng bằng, phần lớn phải chuyển ra vùng giáp
biên giới. Vì vậy, từ cuối năm 1968 đến cuối năm 1969, địch chiếm được
phần lớn vùng nông thôn giải phóng quanh Sài Gòn và hầu hết Khu 8, Khu
9. Ở Khu 5, vùng ta kiểm soát chỉ còn 840.000 dân, địch giành thêm được
460.000 dân. Việc ta bị mất đất, mất dân làm cho bộ đội chủ lực mất chỗ
đứng chân, sức chiến đấu và quân số mỗi ngày một giảm dần. Bên cạnh đó,

21


việc bổ sung quân số, vật chất của công tác BĐHC quân đội cũng trở nên
cực kỳ khó khăn.
Trước tình hình đó, để làm tốt công tác BĐHC cho bộ đội chủ lực,
trong phương hướng nhiệm vụ công tác hậu cần quân đội năm 1969, Đảng
ủy cục Hậu cần Miền đã xác định: Đảng ủy các cấp phải quán triệt
phương châm “bốn được” (mua được, vận chuyển được, bảo quản bảo vệ
được và sử dụng được) , “ba có” (có dân, có đất đứng chân, có vật chất),
bám đất, bám dân, bám cơ sở để thu mua tại chỗ. Trong đó, muốn thực
hiện được phương châm “bốn được”, “ba có”, ta phải kiên trì thực hiện
“bám đất, bám dân”. Bởi vì, đối với ta, nông thôn, đồng bằng không
những là nơi đứng chân của bộ đội mà còn là nơi cung cấp một khối lượng
lớn nhân tài vật lực cho các chiến trường. Vì vậy, trong công tác BĐHC
quân đội, hậu cần các cấp cần phải quán triệt quan điểm này tới tất cả cán
bộ, chiến sĩ làm hậu cần.
Đề cập quan điểm này, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ chín (7/1969)
đã khẳng định: “Các phân khu ở trọng điểm và các địa phương thiếu lương
thực, thực phẩm cũng như các cơ quan, đơn vị ở dọc biên giới phải kết hợp
các ngành có trách nhiệm... và nắm vững phương châm dựa vào quần chúng
để tổ chức tốt việc mua lương thực, thực phẩm và hàng công nghiệp cần thiết”
[18, tr.390]. Đến Hội nghị Trung ương Cục lần thứ mười (11/1970), Đảng ta

tiếp tục khẳng định: phải chú trọng phát huy khả năng hậu cần tại chỗ, quán
triệt quan điểm hậu cần nhân dân, đẩy mạnh phong trào sản xuất tự túc và
công tác bảo vệ sản xuất trong nhân dân và bộ đội.
Muốn dựa chắc vào nhân dân, công tác BĐHC quân đội trong giai
đoạn 1969 – 1973 cần phải: động viên và tổ chức được toàn dân tích cực
tăng gia sản xuất, tham gia làm tốt công tác BĐHC ở tiền tuyến lớn miền
Nam, kết hợp chặt chẽ hậu cần quân đội với hậu cần nhân dân, trong đó,
lấy hậu cần quân đội làm nòng cốt. Bên cạnh đó, phải làm cho cán bộ,

22


chiến sĩ, nhân viên hậu cần thấu suốt quan điểm này của Đảng, tích cực
tham gia xây dựng hậu cần địa phương, hậu cần nhân dân. Đồng thời, liên
hệ chặt chẽ với tổ chức Đảng, chính quyền địa phương để tổ chức, khai
thác, sử dụng mọi khả năng, tiềm lực của nhân dân tạo nên thế trận hậu cần
vững chắc trên cả nước và trong từng khu vực.
Như vậy, dựa chắc vào nhân dân, động viên và tổ chức nhân dân tham
gia vào công tác BĐHC quân đội là nguồn gốc sức mạnh, là quy luật giành
thắng lợi của công tác BĐHC quân đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước nói chung và giai đoạn 1969 – 1973 nói riêng.
Ba là, thực hiện cần kiệm, dựa vào sức mình là chính trong công tác
BĐHC quân đội.
Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta xuyên suốt trong quá trình lãnh
đạo cách mạng. Cần kiệm, dựa vào sức mình là chính là phương châm xây
dựng quân đội cách mạng, là nguyên tắc chỉ đạo tác chiến của Đảng; là một
trong những phương châm tiến hành chiến tranh; là biểu hiện tinh thần độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường trong xây dựng lực lượng vũ trang. Cần kiệm,
dựa vào sức mình là chính còn là bản chất, truyền thống của quân đội ta.
Mặt khác, Việt Nam là một nước đất không rộng, người không đông,

khoa học kỹ thuật chưa phát triển, lại phải chống lại đế quốc Mỹ - kẻ thù có
tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh [Phụ lục 02]. Khối lượng vật chất trung
bình trong một tháng mà nước Mỹ bảo đảm cho quân đội viễn chinh trên
chiến trường miền Nam lớn hơn tổng khối lượng vật chất mà hậu phương
miền Bắc đưa vào miền Nam trong suốt 8 năm (1965 - 1972).
Vì vậy, quán triệt quan điểm cần kiệm, dựa vào sức mình là chính có ý
nghĩa hết sức quan trọng nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của tiềm
lực kinh tế và quốc phòng trong nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
Các cơ quan trong quân đội phải cố sức trồng trọt, chăn nuôi để tự túc
phần nào, để giảm bớt gánh nặng của nhân dân. Tuy công việc chuyên

23


môn vẫn là chính nhưng phải cố sức tăng gia... muốn thắng lợi phải
trường kỳ gian khổ, muốn trường kỳ phải tự lực cánh sinh. Tăng gia là
một bộ phận trong chính sách tự lực cánh sinh [41, tr.512].
Đề cập quan điểm này, tại Hội nghị Bộ Chính trị (11/1968), Đảng ta
đã khẳng định: Quán triệt tốt hơn nữa phương châm dựa vào sức mình là
chính, đồng thời ra sức tranh thủ sự viện trợ của các nước anh em. Phải đề
cao tinh thần triệt để tiết kiệm trong việc động viên và sử dụng sức người,
sức của của ta. Phải nâng cao trình độ tổ chức để sử dụng hợp lý nhất,
phát huy được tác dụng cao nhất sức lao động, tinh thần, trí tuệ, tài năng
của mỗi cán bộ, chiến sỹ và mọi người dân của ta. Phải biết quý trọng
từng viên đạn, từng hạt gạo, giọt xăng, phải sử dụng sao cho hợp lý nhất,
tiết kiệm nhất. Kiên quyết chống lãng phí, tham ô, vô trách nhiệm. Tiếp
đó, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ mười (11/1970), đối với công tác
BĐHC, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: phải hết sức chú trọng giáo dục tinh
thần tiết kiệm, giữ gìn bảo quản vũ khí, đạn dược và mọi của cải vật chất
khác, kiên quyết khắc phục tình trạng lãng phí, tham ô...

Thực hiện quan điểm này, đòi hỏi hậu cần các cấp phải ra sức thi đua
lao động sáng tạo, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, tăng nguồn
BĐHC cho quân đội; quản lý chặt chẽ cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm giữ vững
và nâng cao khả năng của công tác BĐHC quân đội; phải ra sức tranh thủ sự
giúp đỡ của bạn bè quốc tế bằng việc tổ chức tốt việc tiếp nhận, bảo quản, vận
chuyển, phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn viện trợ quốc tế; đồng
thời, phải tổ chức tốt việc thu hồi, quản lý và sử dụng có hiệu quả chiến lợi
phẩm thu được.
Như vậy, cần kiệm, dựa vào sức mình là chính, một mặt, tăng cường
được nguồn cung cấp, cải tiến được trang bị, giảm nhẹ được đóng góp của
nhân dân, giảm bớt được khó khăn cho bản thân quân đội, mặt khác, thể hiện
đức tính cao quý thuộc về bản chất của một quân đội cách mạng.

24


Các quan điểm trên là một thể thống nhất, có mối quan hệ gắn bó chặt
chẽ với nhau, đòi hỏi những người làm công tác BĐHC quân đội phải quán
triệt sâu sắc các quan điểm đó trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Bởi vì,
quán triệt sâu sắc các quan điểm đó sẽ góp phần làm tốt công tác BĐHC, đáp
ứng kịp thời mọi nhu cầu của bộ đội trên chiến trường. Đặc biệt, trong giai
đoạn 1969 – 1973, khi đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh”, đẩy mạnh đánh phá các cơ sở hậu cần và các tuyến vận
tải chiến lược của ta, thì hơn bao giờ hết công tác BĐHC quân đội cần phải
quán triệt các quan điểm trên.
1.2.2. Mục tiêu, phương hướng công tác bảo đảm hậu
cần quân đội
Thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đế quốc Mỹ đẩy mạnh
xây dựng Ngụy quân, củng cố Ngụy quyền và tiến hành chương trình “bình định
nông thôn” làm cho cách mạng miền Nam lâm vào thế khó khăn mới. Trước tình

hình đó, ngày 10 tháng 5 năm 1969, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã họp bàn về tình hình và nhiệm vụ mới. Bộ Chính trị đã chỉ ra những khó
khăn và trở ngại của cuộc kháng chiến, trong đó có công tác BĐHC quân đội:
Chúng đã ra sức khôi phục quân ngụy, bổ sung quân Mỹ, duy trì được
lực lượng của chúng về số lượng, dồn lực lượng về giữ thành thị, nhất
là các thành thị lớn, củng cố những vùng trọng điểm, những địa bàn
chiến lược quan trọng, đánh phá quyết liệt các căn cứ bàn đạp và đường
hành lang của ta. Chúng ra sức "bình định" nông thôn, giành dân, bắt
lính, kiểm soát những vùng xung yếu với những thủ đoạn vô cùng tàn
bạo, đồng thời phải đánh mạnh vào các tuyến hậu cần và căn cứ hậu
phương của ta [18, tr.121 – 122].
Trước những khó khăn và trở ngại đó, Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng họp tại Hà Nội đã họp bàn về phương hướng lãnh đạo
cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới. Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội

25


×