THẮNG LỢI VÀ KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN
TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ TỪ 1965 ĐẾN 1973
2.1. THẮNG LỢI, HẠN CHẾ, NGUYÊN NHÂN
2.1.1. Thắng lợi và nguyên nhân
* Thắng lợi
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến 1973, Đảng đã
lãnh đạo kết hợp SMDT với SMTĐ tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
Việt Nam. Do vậy, chúng ta đã phát huy được sức mạnh to lớn của cả nước đánh
giặc, kết hợp được cuộc đấu tranh của nhân dân ta với ba dòng thác cách mạng của
thời đại, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ to lớn về tinh thần và vật chất của các nước
XHCN anh em, của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên toàn thế giới, kể cả
nhân dân Mỹ, tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng “chiến tranh cục bộ” và một
bước “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải ngồi vào
đàm phán với ta tại Hội nghị Pari “Thắng lợi của Hội nghị Pa ri là thành quả trực
tiếp của sự kết hợp ba mặt trận đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao” [2, tr.236].
Hiệp định Pa ri được ký kết, đã phản ánh xu thế thắng lợi tất yếu trong cuộc
đấu tranh chống quân xâm lược của dân tộc ta. Đồng chí cố Tổng bí thư Lê Duẩn
đánh giá: “Đối với ta, điều quan trọng của Hiệp định Pa ri không phải là ở chỗ thừa
nhận hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, tiến tới thành lập chính
phủ ba thành phần mà mấu chốt là ở chỗ quân Mỹ phải ra còn quân ta thì ở lại”
[17, tr.370].
Kết hợp SMDT với SMTĐ đã tạo sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi quyết
định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, nhân dân ta đã
thực hiện được mục tiêu “đánh cho Mỹ cút”, mở ra một thời kỳ mới, tạo ra thế và
lực mới có lợi nhất để ta thực hiện tiếp tục mục tiêu “đánh cho ngụy nhào”, hoàn
thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Mỗi một thắng lợi to lớn của nhân dân ta lại là những thất bại cay đắng
của đế quốc Mỹ. Đối với đế quốc Mỹ, thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam là “thất bại nghiêm trọng nhất trong toàn bộ lịch sử 200 năm của Hoa
Kỳ”. Kể từ ngày 4-7-1776 ngày công bố tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, đến
tháng 3-1965 đế quốc Mỹ mở đầu việc trực tiếp đưa quân ồ ạt vào xâm lược
Việt Nam, đế quốc Mỹ đã tiến hành hàng chục cuộc chiến tranh lớn; và khi kết
thúc cuộc chiến tranh nước Mỹ và quân đội Mỹ đều là kẻ chiến thắng. Trong
cuộc chiến tranh Việt Nam, đế quốc Mỹ đã huy động một lực lượng, phương
tiện chiến tranh khổng lồ nhất. Vào thời điểm phát triển cao của cuộc chiến
tranh (giữa 1969) trong gần 1,7 triệu quân Mỹ và tay sai, có gần 55 vạn quân
Mỹ và gần 7 vạn quân chư hầu. Ngoài lực lượng trực tiếp tham chiến, nếu tính
cả lực lượng Mỹ ở ngoài khơi và các căn cứ quân sự – hậu cần Mỹ ở vùng Đông
Nam Á, thì riêng quân Mỹ chiến đấu và chi viện bảo đảm chiến đấu lên tới 80
vạn tên “Quân số được huy động, lúc cao nhất, bằng binh lực của cả 5 nước
Anh, Bỉ, úc, Ca-na-đa và Tây Ban Nha cộng lại. Tính chung cả 21 năm, Nhà
Trắng và Lầu Năm Góc đã đưa sang Đông Dương 6 triệu lượt binh sĩ Mỹ, trong
đó có 4,6 triệu lượt người dưới tuổi 30” [53, tr.339]. Để bảo đảm cho lực lượng
quân Mỹ, quân chư hầu và quân ngụy chiến đấu suốt hơn 20 năm, Mỹ đã đưa
vào chiến trường: vũ khí, đạn dược... “nhiều vô kể”, nhưng đó chỉ là lực lượng
trên bộ. Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ sử dụng không quân là một
chủ bài để giành thắng lợi. Mỹ đã huy động: ba tập đoàn không quân chiến thuật
và một tập đoàn không quân chiến lược được huy động tham chiến ở Việt Nam.
Lúc cao nhất (1969), Mỹ đã sử dụng tới 6.431 máy bay chiến thuật và máy bay
lên thẳng; 197 máy bay B52 bằng 46% tổng số máy bay B52 của cả nước Mỹ...
Sự thảm hại của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam
không phải chỉ ở chỗ: chôn vùi hàng loạt chiến lược, chiến thuật chiến tranh mà đế
quốc Mỹ gây ra ở Việt Nam, làm tiêu tan đi 700 tỷ đô la, 50.000 sinh mạng binh
lính Mỹ... mà còn ở chỗ: chia rẽ sâu sắc nước Mỹ, làm cho nội bộ bọn thống trị
ngày càng lục đục; lòng tin của nhân dân Mỹ vào chính phủ ngày càng giảm sút;
cuộc đời chính trị của hàng loạt nhân vật “kiệt xuất” của nước Mỹ phải kết thúc
một cách bi thảm; và vị trí sen đầm quốc tế của Mỹ bị lung lay. “Đây là một bước
thụt lùi hết sức nghiêm trọng đối với chính sách Mỹ”, “một sự thất bại có tầm lịch
sử và bi đát” [53, tr.300].
Kết hợp SMDT với SMTĐ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ
1965 đến 1973 đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, trực tiếp góp phần to lớn vào công
cuộc giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước Lào và Cămpuchia anh em, đồng
thời góp phần động viên, cổ vũ các dân tộc dũng cảm kiên cường giương cao ngọn
cờ ĐLDT và CNXH. Đó là biểu tượng mới về sức mạnh của cách mạng thế giới,
sức mạnh kết hợp ngọn cờ ĐLDT và CNXH; kết hợp SMDT với SMTĐ ở Việt
Nam ta, chính sức mạnh đó đã làm tiêu tan huyền thoại về “sức mạnh không thể
tưởng tượng nổi của Mỹ”, khẳng định sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam
là sức mạnh của hai ngọn cờ ĐLDT và CNXH trong tương lai. Miền Nam đang
đấu tranh để giải phóng, nhưng mục tiêu giành độc lập gắn với mục tiêu thống nhất
đất nước để cùng miền Bắc tiến lên CNXH.
Đối với cả nước hai ngọn cờ không chỉ có sức mạnh cổ vũ về mặt tinh thần
và lý tưởng mà thực sự là ngọn cờ tập hợp lực lượng của nhân dân cả nước về vật
chất lẫn tinh thần, nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, bảo vệ miền Bắc
để giải phóng miền Nam, giải phóng miền Nam để thống nhất với miềm Bắc trong
một nước Việt Nam độc lập và XHCN.
Sức mạnh của cách mạng Việt Nam nói chung và của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến 1973 nói riêng còn nằm trong mối quan hệ
giữa cách mạng Việt Nam, cách mạng Lào và cách mạng Căm-pu-chia. Bởi lẽ, cả
ba nước đều có chung một kẻ thù, một mục tiêu cách mạng là: đánh bại đế quốc
Mỹ xâm lược, giải phóng đất nước khỏi ách thống trị thực dân mới của Mỹ, ba
nước Đông Dương là một chiến trường chi viện cho nhau, ủng hộ, giúp đỡ lẫn
nhau về mọi mặt. Thắng lợi của mỗi nước là thắng lợi chung của cả ba nước. Đánh
giá một trong những nhân tố thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng nêu rõ:
Thắng lợi của chúng ta là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu không gì lay
chuyển nổi của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Cămpuchia. Đại hội nhiệt
liệt chào mừng thắng lợi lịch sử vĩ đại của nhân dân Lào và nhân dân
Cămpuchia anh em, coi đó như thắng lợi của chính mình, và xin gửi đến các
bạn chiến đấu cùng chiến hào lòng biết ơn vô hạn và tình đoàn kết trước sau
như một của nhân dân Việt Nam ta [21, tr.10, 11].
* Nguyên nhân thắng lợi
Kết hợp SMDT với SMTĐ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ
1965 đến 1973 giành thắng lợi do nhiều nguyên nhân: đó là sự lãnh đạo của Đảng
với đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, có miền Bắc XHCN, có nhân
dân và quân đội anh hùng; có tình đoàn kết và liên minh chiến đấu vững bền của
nhân dân ba nước Đông Dương; có sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của các lực
lượng vì hòa bình trên thế giới. Trong đó, nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam “là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến 1973, Đảng đã đề
ra đường lối kháng chiến đúng đắn sáng tạo, độc lập tự chủ, lãnh đạo quân và dân
ta đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Kẻ thù xâm lược nước ta là đế quốc Mỹ, một tên đế quốc đầu sỏ, có tiềm lực
kinh tế to lớn và bộ máy quân sự đồ sộ, là tên đế quốc vừa tàn bạo vừa xảo quyệt
về thủ đoạn, biện pháp. Trong khi đó, tình hình thế giới lúc bấy giờ, có một số
người, kể cả những người ủng hộ và giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân ta, lúc
đầu cũng chưa thật tin rằng nhân dân ta sẽ thắng được Mỹ. Thậm chí, có những
người còn lo cho Việt Nam bị sức mạnh của Mỹ đè bẹp. Song Đảng ta không hề lo
sợ trước sức mạnh và sự đe dọa của tên đế quốc đầu sỏ, mà luôn tin vào sức mạnh
vô địch của nhân dân “Nhân dân ta rất yêu nước và có ý thức làm chủ vận mệnh
đất nước rất cao; nếu Đảng biết tổ chức và hướng dẫn nhân dân đấu tranh theo một
phương hướng đúng thì nhất định sẽ thắng lợi” [1, tr.98]. Nhận thức được vai trò to
lớn của quần chúng nhân dân, Đảng xác định quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ vì
sự sống còn của dân tộc, vì lợi ích cơ bản lâu dài của nhân dân ta là độc lập thống
nhất, tiến lên CNXH. Quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của Đảng ta, thể hiện rõ lập
trường cách mạng triệt để của giai cấp công nhân Việt Nam, ý chí quật cường của
dân tộc “đánh Mỹ và thắng Mỹ” để bảo vệ độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đưa
cả nước tiến lên CNXH. Quyết tâm đó là sự thể hiện những nguyên tắc cách mạng
của học thuyết cách mạng Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Quyết tâm ấy còn bắt
nguồn từ truyền thống yêu nước, bất khuất, quật cường chống ngoại xâm của dân
tộc Việt Nam qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Tiêu biểu cho tinh thần
yêu nước, ý chí kiên cường, quyết chiến, quyết thắng đế quốc Mỹ, quyết tâm giải
phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc của cả dân tộc ta là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
đại. Người đã dạy: “Dù hy sinh tới đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn
cũng quyết phải giành cho được độc lập”. Khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân vào xâm
lược miền Nam và dùng không quân đánh phá miền Bắc, Người khẳng định:
“chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa...”, “Không có
gì quý hơn độc lập tự do”...
Để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Đảng đã đánh
giá đúng tình hình địch, ta để hạ quyết tâm chiến lược chính xác, kịp thời. Đảng có
quan điểm khoa học, toàn diện và thực tiễn, không chỉ đánh giá lực lượng quân sự
mà đánh giá các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, trong nước và
trên thế giới. Đảng thấy Mỹ có những chỗ mạnh nhất là nhiều tiền của, đông
quân, vũ khí nhiều và hiện đại, thủ đoạn tàn bạo và nham hiểm. Nhưng ta không
cho đó là sức mạnh vô hạn, mà là chỗ mạnh có hạn, ta có thể hạn chế được những
chỗ mạnh đó. Đặc biệt, Đảng còn thấy Mỹ có nhiều chỗ yếu mà yếu nhất là về
chính trị, tinh thần trong một cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa mà ta có thể
khai thác, khoét sâu, tận dụng để đánh thắng chúng. Đồng thời, Đảng còn thấy
được cả chỗ yếu của nó về quân sự, đó là một quân đội xâm lược, luôn dựa vào
uy lực của vũ khí, dựa vào sức mạnh sắt thép và máy móc... Do đó, Đảng khẳng
định: “Mỹ giàu nhưng sức Mỹ không phải là vô hạn, Mỹ hung hăng nhưng có chỗ
yếu, ta biết đánh, biết thắng thì nhất định kháng chiến thành công” [2, tr.173].
Với quyết tâm đánh Mỹ, thắng Mỹ và trên cơ sở đánh giá đúng so sánh
lực lượng giữa ta và địch là cơ sở quan trọng để Đảng xác định đường lối kháng
chiến chống đế quốc Mỹ, giành thắng lợi. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ
ĐLDT và CNXH, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền
nhằm mục tiêu chung và bao trùm là chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc. Đây là ngọn cờ đúng đắn duy nhất
tập hợp được lực lượng lớn nhất trên cả hai miền Nam, Bắc tiến hành kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước và đây cũng là ngọn cờ chính nghĩa phù hợp với mục
tiêu cách mạng và xu thế thời đại, được cả loài người đồng tình ủng hộ. Bên
cạnh đó, Đảng đề ra đường lối quốc tế đúng đắn, luôn luôn nêu cao tinh thần
quốc tế vô sản, luôn luôn coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, liên minh chiến đấu chặt chẽ với nhân dân Lào và nhân dân
Cămpuchia anh em, gắn chặt với ba dòng thác cách mạng; luôn luôn coi cuộc
chiến đấu chống Mỹ là nhiệm vụ dân tộc thiêng liêng, vừa là nghĩa vụ quốc tế
cao cả; mọi hoạt động chống Mỹ, cứu nước đều nhằm phục vụ lợi ích cả cách
mạng nước ta và cách mạng thế giới, nên ta đã tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng
hộ to lớn của nhân dân thế giới, của cả loài người tiến bộ.
Đi đôi với đường lối đúng đắn, sáng tạo, Đảng đã lựa chọn phương pháp
cách mạng, phương pháp tiến hành chiến tranh chống Mỹ, cứu nước sáng tạo, đánh
địch bằng sự kết hợp chính trị, quân sự, ngoại giao, bằng sức mạnh ở cả tiền tuyến
và hậu phương, kết hợp SMDT với SMTĐ, kiên quyết thực hành chiến lược tiến
công nhưng biết thắng từng bước để đánh thắng chúng; động viên, tổ chức cả nước
kháng chiến, nhưng khôn khéo kiềm chế và kiên quyết thắng địch ở miền Nam.
Nguyên nhân thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân
tộc ta còn là sự đoàn kết, thống nhất cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Chúng ta đã thực hiện được khối đại đoàn kết trên dưới một lòng, triệu người như
một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Đoàn kết, thống nhất vốn là một
truyền thống tốt đẹp của Đảng ta, nhân dân ta; trong những lúc khó khăn, cả nước
càng đoàn kết, thống nhất để vượt qua thử thách lớn nhất. Trong kháng chiến
chống Mỹ, điểm nổi bật về sự đoàn kết, thống nhất là tình đoàn kết Bắc - Nam.
Bắc - Nam luôn luôn là một nhà, là anh em ruột thịt. Cả miền Bắc ngày đêm hướng
về miền Nam, chi viện sức người, sức của cho miền Nam đánh Mỹ. Cả miền Nam
ngày đêm hướng về miền Bắc như hướng về đầu nguồn của cách mạng và kháng
chiến. “Nhờ đoàn kết, thống nhất, dân tộc ta mới vượt qua được mọi thử thách
trước hiểm họa ngoại xâm và đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược” [1, tr.102].
Kết hợp SMDT với SMTĐ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ
1965 đến 1973 giành thắng lợi còn có nguyên nhân do quá trình lãnh đạo kháng
chiến, Đảng ta đã có nhiều quyết định xuất sắc về chỉ đạo chiến lược. Trong đó, nổi
bật là việc xử lý các mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH ở
miền Bắc và giải phóng miền Nam; giữa cuộc kháng chiến của nhân dân ta với phong
trào cách mạng thế giới; giữa mục tiêu cơ bản với mục tiêu trước mắt... Đó chính là
một trong những nhân tố trực tiếp quyết định giành thắng lợi từng bước, đánh thắng
từng chiến lược chiến tranh, tiến đến toàn thắng trong cuộc kháng chiến của ta. Chính
nhờ đường lối đúng đắn và sự nhạy bén, sắc sảo của Đảng, Đảng ta đã điều khiển
cuộc chiến tranh tạo nên những bước ngoặt chiến lược làm thay đổi cục diện có lợi
cho ta, từ đánh cho “Mỹ cút” đến đánh cho “ngụy nhào”, đi đến giành thắng lợi
toàn bộ cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Như vậy, với chủ trương đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với quyết
tâm sắt đá của toàn dân tộc, trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa
Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh nghiệm truyền thống đánh giặc giữ nước
của dân tộc, với tranh thủ sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân thế giới.
Nhân dân ta đã giành thắng lợi trọn vẹn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Đó là sự thắng lợi của sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam là sự
thắng lợi của kết hợp SMDT với SMTĐ.
2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân.
* Hạn chế
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thời kỳ từ 1965 đến 1973
bên cạnh những thắng lợi to lớn có tính chất lịch sử, chúng ta còn có những hạn
chế như sau:
Một là, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến, Đảng ta chưa nêu
rõ sự kết hợp SMDT với SMTĐ mà phần lớn là các Hội nghị Trung ương, Bộ Chính
trị trước đó mới chỉ nêu kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao.
Hai là, sau thắng lợi có tầm chiến lược quyết định của cuộc tổng tiến công
và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), ta đã phạm sai lầm về chỉ đạo chiến lược là tiếp
theo đó không kịp thời chuyển hướng tiến công, vẫn tiếp tục đẩy cuộc chiến tranh
cách mạng vào thành thị. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21, Đảng ta đã
đánh giá:
Chúng ta cũng đã mắc một số khuyết điểm: chủ quan trong việc đánh giá
tình hình, cho nên ta đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc
đó; nhất là sau cuộc tiến công Tết Mậu Thân, ta đã không kịp thời kiểm
điểm và rút kinh nghiệm ngay nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương
chuyển hướng kịp thời; ta chậm thấy những cố gắng mới của địch, những
khó khăn lúc đó của ta, không đánh giá hết âm mưu địch trong kế hoạch
bình định nông thôn nhằm thực hiện chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”
của Ních xơn, cho nên ta gặp khó khăn trong một thời gian [1, tr.111].
Ba là, đối với cách mạng Cămpuchia, ta có nhiều ưu điểm trong việc tranh
thủ được đường lối trung lập tích cực của chính phủ Xihanúc, có lợi cho cách
mạng miền Nam, trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế về quân sự, còn đối với tập đoàn
Pônpốt, một mặt ta cố gắng hạn chế mặt tiêu cực của họ, tập trung cao cho mục
tiêu đánh thắng đế quốc Mỹ là đúng, nhưng mặt khác lại đánh giá không đúng bản
chất phản động của chúng nên mất cảnh giác để chúng gây nhiều hậu quả xấu.
Đồng thời, Đảng ta chỉ rõ:
Trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ta
không phát hiện sớm sự thỏa hiệp giữa Oasinhtơn- Bắc Kinh và Mát
xcơva về cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Sau ngày chống Mỹ toàn thắng
mùa xuân 1975, ta chưa đánh giá hết bản chất phản động của tập đoàn
Pônpốt, chậm thấy sự chuyển hướng chính sách của Trung Quốc [2,
tr.233].
* Nguyên nhân hạn chế
Nguyên nhân của những hạn chế trên, do sự chỉ đạo của Đảng còn biểu
hiện chủ quan trong đánh giá tình hình địch, ta. Sai lầm chính của ta là ở chủ
trương tiếp tục tiến công trên hướng các thành thị trong lúc yếu tố bất ngờ
không còn nữa, sức ta đã đuối, trong khi đó, địch đã thay đổi biện pháp chiến
lược, từ “tìm diệt và bình định”, sang “quét và giữ”. Ngoài hành động điều động
quân Mỹ từ vòng ngoài cùng quân ngụy phía trong tập trung phòng giữ dày đặc
và phản kích điên cường để chiếm lại vào bảo vệ các thành thị, địch còn đẩy
mạnh các chương trình bình định nông thôn lúc này đang bị ta bỏ lỏng. Các cơ
sở chính trị của ta hầu hết đã bộc lộ trong cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân, nên bị địch đàn áp khủng bố. Lực lượng cách mạng vì thế mà bị thiệt hại
lớn. Mặt khác, sau đợt Tết, sức ta đã xuống, chưa kịp thời xốc lại lực lượng và
củng cố bổ sung, ta lại ráng sức mở các đợt tiến công tiếp theo vào những mục
tiêu quân địch đã có đề phòng chặt chẽ nên hiệu quả tiến công thấp, mức tổn
thất của quần chúng và lực lượng vũ trang càng thêm nặng. Thế và lực tiến công
của ta càng giảm sút, cách mạng mất dân, mất đất, trước những cuộc phản kích
điên cuồng của địch nhất là bằng các chương trình “bình định” kế tiếp nhau của
chúng. Chỗ đứng chân của chủ lực ta bị thu hẹp và đẩy lùi ở nhiều vùng rộng
lớn. Đó là những nguyên nhân trực tiếp và hậu quả của hai lần về chỉ đạo chiến
lược của ta. Đảng ta chỉ rõ “thế và lực cách mạng yếu đi chủ yếu không phải do
quân địch mạnh mà do sai lầm và sơ hở của ta” [1, tr.112].
Bên cạnh đó còn có nguyên nhân, Đảng ta “đánh giá chưa đúng bản chất tập
đoàn Pônpốt, đưa đến hậu quả xấu trong liên minh chống Mỹ và gây bất ngờ lớn
cho ta những năm sau này” [1, tr.115]. Đồng thời, nguyên nhân khách quan ở đây
chính là trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, gây khó khăn cho ta trong xác định chủ trương kết
hợp SMDT với SMTĐ tạo sức mạnh tổng hợp đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Tóm lại: Thắng lợi trong ký kết Hiệp định Pa ri là một thắng lợi có ý nghĩa
dân tộc và thời đại to lớn, là kết quả tất yếu đi đến thắng lợi của nhân dân ta trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó là thắng lợi của đường lối đúng đắn,
đường lối kết hợp SMDT với SMTĐ. Qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo kết hợp
SMDT với SMTĐ trong thời kỳ này đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta
những kinh nghiệm quý về kết hợp SMDT với SMTĐ trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU RÚT RA TỪ QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH
ĐẠO, KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ TỪ 1965 ĐẾN 1973
2.2.1. Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong xác định chủ
trương, phương hướng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định rõ chủ trương:
cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng thế giới. Vì
vậy, thực hiện đoàn kết quốc tế trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là một nguyên tắc của cách mạng Việt Nam. Đặc biệt trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, yếu tố quốc tế có tác động và ý nghĩa rất lớn đối
với cách mạng Việt Nam. Ngay trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 (khóa II) của
Ban chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ: Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam, không chỉ thực hiện thống nhất đất nước mà còn góp phần bảo vệ hòa bình ở
Đông Nam Á và thế giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam đồng thời còn là
thắng lợi của phe XHCN, là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, là thắng
lợi của phong trào đấu tranh chống chiến tranh xâm lược của nhân dân tiến bộ và
yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Do vậy, để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng, Đảng ta cho rằng: Vấn đề có ý
nghĩa quyết định đầu tiên là phải xác lập được đường lối kháng chiến, đường lối
quân sự, đường lối đối ngoại đúng đắn. Trên cơ sở đó động viên tất cả mọi nhân tố
trong cả nước, còn phải tranh thủ mọi điều kiện quốc tế thuận lợi để phục vụ cho
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Mặt khác, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta tuy diễn ra
trong điều kiện lịch sử rất thuận lợi của thời đại, nhưng không phải không có
những khó khăn phức tạp. Phức tạp lớn nhất là sự chia rẽ trong những năm 60 của
hệ thống XHCN, của phong trào cách mạng thế giới, nhất là giữa Liên xô và
Trung Quốc - chỗ dựa chiến lược của cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Vì vậy, để
giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh không cân sức giữa một tên đế quốc
khổng lồ, với một dân tộc nhỏ, nghèo nàn lạc hậu, chúng ta phải có đường lối đúng
đắn để kết hợp SMDT với SMTĐ. Trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng và
nhiều văn kiện khác của Đảng đều nêu nguyên nhân chủ yếu quyết định thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là “sự lãnh đạo của Đảng đối với đường
lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo”. Ngay trong
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa III),
tháng 10-1973, Đảng ta đã khẳng định:
Nhờ thực hiện đoàn kết quốc tế đến mức cao nhất và giữ vững độc lập, tự
chủ trong đường lối, chủ trương, chính sách của mình, khi tình hình thế
giới thuận lợi cũng như lúc khó khăn, phức tạp, chúng ta đã được các nước
XHCN anh em, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào độc
lập dân tộc và nhân dân toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ, ủng hộ và
giúp đỡ, trong đó sự giúp đỡ của các nước XHCN anh em là cực kỳ quan
trọng [46, tr.318].
Như vậy, có thể thấy rằng Đảng ta rất coi trọng và nhấn mạnh vấn đề phải
giữ vững độc lập, tự chủ trong hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của
mình, đồng thời cũng nhấn mạnh phải tăng cường đoàn kết quốc tế. Điều đó,
phản ánh một mặt chúng ta phải độc lập, tự chủ, sáng tạo trong đường lối để
phát huy sức mạnh của dân tộc, đồng thời có chủ trương, phương hướng đoàn
kết quốc tế để tranh thủ sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho
cách mạng Việt Nam.
Độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế là một nguyên tắc, một yêu cầu bắt buộc
đối với các đảng cộng sản. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng đòi hỏi Đảng
phải có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp với những nguyên
lý phổ biến của Chủ nghĩa Mác- lê nin và những điều kiện lịch sử cụ thể của nước
mình. Một đảng có độc lập, tự chủ thật sự thì đoàn kết quốc tế mới tốt, bởi vì, đảng đó
không thể bị chi phối để đi đến thiên lệch trong quan hệ với các đảng bạn. Ngược lại,
đoàn kết quốc tế tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi để củng cố độc lập, tự chủ, bởi nó đem
lại cho mỗi đảng sự cổ vũ, sự giúp đỡ và cả những kinh nghiệm quý báu của bạn bè,