Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ GIẢI QUYẾT VIỆC làm CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.14 KB, 95 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Giáo dục – đào tạo
Giải quyết việc làm
Kinh tế - xã hội
Xã hội chủ nghĩa

CNXH
CNH, HĐH
GD-ĐT
GQVL
KT-XH
XHCN

MỤC LỤC
Trang
1


MỞ ĐẦU

3

Chương CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM 10
1:



CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở HUYỆN PHÚC
THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Quan niệm việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động 10
ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng và sự cần thiết giải quyết việc làm

24

cho người lao động ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
Chương THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO 34
2:

NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN QUA
2.1. Thành tựu và hạn chế trong giải quyết việc làm cho người 34
lao động ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội thời gian qua.
2.2. Nguyên nhân thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra về 49
giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện Phúc Thọ,

thành phố Hà Nội.
Chương QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 57
3:

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
Ở HUYỆN PHÚC THỌ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Quan điểm cơ bản giải quyết việc làm cho người lao động ở 57
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
3.2. Giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao 63
động ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.


KẾT LUẬN

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

85

PHỤ LỤC

89
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Giải quyết việc làm cho người lao động không chỉ là vấn đề mang ý
nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội, tác động sâu sắc đến mọi mặt hoạt
động của đời sống xã hội, là phương hướng cơ bản để xóa đói, giảm nghèo có
2


hiệu quả, cải thiện nâng cao đời sống cho nhân dân, góp phần quan trọng giữ
vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo động lực mạnh mẽ thực
hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Quan tâm GQVL cho người lao động luôn là một trong những giải
pháp phát triển KT-XH mà Đảng ta đã đề ra; đặc biệt, trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH dưới tác động của xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: "Tập
trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện

tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải
thiện điều kiện chăm sóc sức khỏe cho nhân dân" [11, tr.321].
Phúc Thọ là một Huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội, có vị trí địa
kinh tế tương đối thuận lợi, cách trung tâm Thủ đô 35 km về phía Tây, hệ
thống giao thông có cả đường bộ và đường thủy; đất đai phì nhiêu, dân số
đông, nguồn lao động bổ sung vào lực lượng lao động hàng năm lớn... đây là
những thuận lợi trong việc giao lưu mở rộng phát triển KT-XH và là điều kiện
tốt để GQVL cho người lao động của Huyện. Tuy nhiên, những thế mạnh của
Huyện chưa được khai thác hợp lý; mức độ GQVL cho người lao động ở
huyện Phúc Thọ còn thấp so với nhu cầu, người lao động còn thiếu việc làm,
thu nhập không ổn định, đời sống gặp nhiều khó khăn... ảnh hưởng trực tiếp
đến các vấn đề an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới
trên địa bàn Huyện hiện nay. Để phát huy các lợi thế so sánh, giải phóng được
mọi nguồn lực cho phát triển KT-XH, huyện Phúc Thọ cần đẩy nhanh GQVL
cho người lao động. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề GQVL cho người lao
động ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay là hết sức cần thiết, có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ những lý do đó, tác giả lựa chọn
đề tài “Giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện Phúc Thọ, thành
phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị.
3


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Giải quyết việc làm là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
nước ta. Do vậy, đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về lao động và
việc làm, tiêu biểu như: Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung Chính sách
giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Với
cách tiếp cận từ chính sách việc làm đến đánh giá thực trạng lao động, việc
làm ở Việt Nam, nhóm tác giả đã đưa ra nhận xét đúng đắn: lao động, việc
làm, thất nghiệp là những vấn đề xã hội có tính toàn cầu. Từ đó, nhóm tác giả

nêu ra các quan điểm và kiến nghị hoàn thiện một số chính sách cụ thể về tạo
việc làm cho người lao động trong quá trình CNH, HĐH.
Nguyễn Thị Lan Hương Thị trường lao động ở Việt Nam, định hướng
và phát triển, Nxb Lao động và Xã hội, Hà Nội, 2002. Tác giả chỉ ra vấn đề
việc làm cho người lao động và thất nghiệp là một trong những vấn đề toàn
cầu, đề ra phương pháp tiếp cận tổng quát về chính sách việc làm, hệ thống
khái niệm về lao động, việc làm, đánh giá thực trạng vấn đề việc làm ở Việt
Nam. Qua đó, tác giả đề xuất hệ thống các quan điểm, phương hướng GQVL;
đồng thời, tác giả khuyến nghị, định hướng một số chính sách cụ thể về việc
làm trong công cuộc CNH, HĐH ở Việt Nam.
Trần Văn Chử Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với
giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Nxb Lao động và Xã hội, Hà Nội, 2001. Tác giả đề tài đã phân tích làm rõ
mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với GQVL trong quá trình
CNH, HĐH đất nước và khẳng định việc nâng cao chất lượng lao động không
chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu của phát triển, mà còn góp phần GQVL, giảm
thiểu thất nghiệp. Từ đó, nhóm đề tài đề xuất các giải pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ lao động và GQVL ở nước ta.
Đồng Văn Tuấn (2011), Giải pháp giải quyết việc làm và tăng thu
nhập cho người lao động ở khu vực nông thôn tỉnh Thái Nguyên, đề tài cấp
4


bộ, Đại học Thái Nguyên. Nhóm tác giả đã phân tích đánh giá đúng thực
trạng tình hình lao động, việc làm và thu nhập của lao động nông thôn tỉnh
Thái Nguyên, từ đó đưa ra những giải pháp KT-XH nhằm GQVL và nâng cao
thu nhập cho lao động nông thôn trong Tỉnh.
Có rất nhiều đề tài luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề GQVL ở nước
ta như: Dương Xuân Hoàn Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp tỉnh
Nam Định trong quá trình đô thị hóa hiện nay, Luận văn thạc sỹ kinh tế chính

trị, Học viện Chính trị, Hà Nội, 2012. Tác giả phân tích làm rõ một số vấn đề
lý luận, thực tiễn về GQVL cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị
hóa; trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số quan điểm cơ bản và những giải
pháp chủ yếu nhằm GQVL cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định trong
quá trình đô thị hóa hiện nay.
Dương Văn Thi Giải quyết việc làm cho người lao động và tác dụng
của nó đến củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay, Luận
văn thạc sỹ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội, 2001. Tác
giả làm rõ cơ sở lý luận và phân tích thực trạng GQVL cho người lao động ở
tỉnh Bắc Giang, nêu lên những tác động của nó đến đến củng cố quốc phòng
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra quan điểm và một
số giải pháp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa GQVL cho người lao động
với củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
Hà Văn Tâm Giải quyết việc làm cho nông dân có đất nông nghiệp chuyển
đổi phục vụ phát triển khu công nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay, Luận văn
thạc sỹ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị, Hà Nội, 2010. Tác giả tập trung
nghiên cứu việc làm, GQVL cho nông dân có đất nông nghiệp chuyển đổi phục
vụ phát triển khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Tác giả luận giải
thực trạng GQVL, nêu các quan điểm và đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm giải quyết tốt vấn đề việc làm cho nông dân có đất nông nghiệp chuyển
đổi phục vụ phát triển khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
5


Đặng Tú Lan Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh - thực trạng và giải pháp,
Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
Tác giả tập trung phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề GQVL ở
tỉnh Bắc Ninh; đồng thời, phân tích thực trạng GQVL ở Bắc Ninh từ năm
1997 đến năm 2000. Trên cơ sở phân tích thực trạng tác giả đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm GQVL cho người lao động ở tỉnh Bắc Ninh.

Nguyễn Văn Luyện Giải quyết việc làm cho người lao động ở các làng
nghề tỉnh Bắc Ninh hiện nay, Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị, Học viện
Chính trị, Hà Nội, 2014. Tác giả đã luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn GQVL
cho người lao động ở các làng nghề tỉnh Bắc Ninh hiện nay; trên cơ sở đó, đề
xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm GQVL cho người lao động ở các làng
nghề tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.
Đinh Thị Như Trang Giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất
tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị,
Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Hà Nội, 2012. Tác
giả đi sâu nghiên cứu làm rõ lý luận về việc làm, GQVL cho nông dân bị thu
hồi đất tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội để phát triển đô thị. Tác giả
luận giải thực trạng GQVL cho nông dân sau khi bị thu hồi đất, nêu ra các
quan điểm và đề xuất một số giải pháp GQVL cho nông dân bị thu hồi đất tại
quận Long Biên, thành phố Hà Nội hiện nay.
Nguyễn Thị Kim Hồng Nghiên cứu giải pháp giải quyết việc làm cho
người lao động nông thôn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc
sỹ kinh tế, Đại học Nông nghiệp, Hà Nội, 2013. Tác giả phân tích làm rõ một
số vấn đề lý luận, thực tiễn về việc làm và GQVL cho người lao động nông
thôn huyện Gia Lâm; khảo sát đánh giá đúng thực trạng việc làm ở địa
phương; từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp GQVL cho người lao động
nông thôn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

6


Khuất Văn Thành Giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động
nông thôn vùng thu hồi đất huyện Hoài Đức, thành Phố Hà Nội đến năm
2020, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Nông nghiệp, Hà Nội, 2009. Tác giả
đưa ra các quan niệm về việc làm, về GQVL cho người lao động ở nông thôn;
phân tích thực trạng việc làm hiện nay của lao động nông thôn huyện Hoài

Đức; đề xuất một số giải pháp GQVL cho người lao động nông thôn vùng thu
hồi đất huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội hiện nay.
Ngoài những công trình nghiên cứu, những đề tài nêu trên còn có rất
nhiều bài báo, bài viết đăng trên các tạp chí đề cập đến vấn đề GQVL ở nước
ta như: Bùi Văn Quán (2001),"Thực trạng lao động, việc làm ở nông thôn và
một số giải pháp cho giai đoạn 2001 - 2005", Tạp chí Lao động và Xã hội, Số
3; Đỗ Thế Tùng (2002), “Ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải
quyết việc làm ở Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, Số 6; Vũ Đình
Thắng (2002), “Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn”, Tạp chí Kinh tế và
phát triển, Số 3; Nguyễn Sinh Cúc (2003), “Giải quyết việc làm ở nông thôn
và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí con số và sự kiện, Số 8; Lê Văn Bảnh
(2003), “Kinh nghiệm đào tạo nghề cho lao động nông thôn”, Tạp chí Lao
động và Xã hội, Số 218; Nguyễn Hữu Dũng (2004), "Giải quyết vấn đề lao
động và việc làm trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp và
nông thôn", Tạp chí Lao động và Xã hội, Số 247, và "Nhiệm vụ phát triển
việc làm giai đoạn 2006 - 2010", Tạp chí Lao động và Xã hội, Số 250;
Trương Văn Phúc (2004), "Thực trạng lao động, việc làm qua kết quả điều tra
01/7/2004", Tạp chí Lao động và Xã hội, Số 251; Đặng Đình Hải, Nguyễn
Ngọc Thụy (2005), “Làm thế nào để đẩy mạnh công tác dạy nghề cho lao
động nông thôn”, Tạp chí Lao động và Xã hội, Số 259; Vũ Văn Phúc (2005),
“Giải quyết việc làm sử dụng hợp lý nguồn nhân lực ở nông thôn hiện nay”,
Tạp chí Châu Á - Thái Bình Dương, Số 42; Đặng Như Lợi (2009), "Giải quyết
việc làm góp phần bảo đảm ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững”,
7


Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Số 159; Cao Duy Hạ (2011), "Giải quyết việc
làm - vấn đề cấp thiết và cơ bản", Báo Đại đoàn kết, (Số ra ngày
15/6/2011); Đỗ Minh Cương (2003), “Dạy nghề cho lao động nông thôn hiện
nay”, Báo Nông thôn mới, Số 91...

Các bài viết của các tác giả trên đề cập đến vấn đề lao động, việc làm
và GQVL với nhiều góc độ tiếp cận, nghiên cứu khác nhau, trong đó đưa ra
một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc làm, GQVL ở nước ta nói chung,
cũng như ở một số tỉnh nói riêng. Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị chủ yếu
nhằm GQVL trong thời gian tới.
Mặc dù các công trình nghiên cứu khoa học, các đề tài luận văn và các
bài viết đã đăng trên các tạp chí với những cách tiếp cận khác nhau về lao
động, việc làm và GQVL nhưng chưa có đề tài, công trình khoa học nào phân
tích, đánh giá vấn đề "Giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện Phúc
Thọ, thành phố Hà Nội" dưới dạng luận văn khoa học kinh tế chính trị. Vì vậy,
đề tài không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích:
Làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn GQVL cho người lao động ở huyện
Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay; trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và
một số giải pháp GQVL cho người lao động ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà
Nội thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về GQVL cho người lao động ở huyện
Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
- Phân tích làm rõ thực trạng GQVL cho người lao động ở huyện Phúc
Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm GQVL cho
người lao động ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội thời gian tới.

8


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Là GQVL cho người lao động.

* Phạm vi nghiên cứu:
Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu GQVL cho người lao động đang
sống ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
Thời gian nghiên cứu: Các số liệu nghiên cứu nội dung GQVL cho
người lao động ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các nghị quyết của
Đảng Cộng sản Việt Nam; các nghị quyết của Huyện ủy, các báo cáo của Ủy
ban nhân dân huyện Phúc Thọ. Đồng thời, luận văn sử dụng số liệu khảo sát
thực tế, tham khảo các tài liệu và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công
trình khoa học có liên quan đã công bố.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử; Phương pháp trìu tượng hóa khoa học; phương pháp so sách, phân tích,
thống kê, tổng hợp và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả của luận văn góp phần luận giải cơ sở khoa học của quá trình
GQVL cho người lao động ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay, và
có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu vấn đề này.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
Ở HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

9



1.1. Quan niệm việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động
ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
1.1.1. Quan niệm về việc làm
Việc làm có vai trò rất quan trọng đối với người lao động. Cuộc sống
của người lao động và gia đình họ phụ thuộc rất lớn vào việc làm của họ; sự
tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia cũng gắn liền với việc làm của người lao
động. Với nước ta, đang ở giai đoạn “dân số vàng”, nguồn lao động dồi dào,
nhưng tỷ lệ thất nghiệp lại khá cao, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa
thực sự ổn định, bền vững thì việc tận dụng và khai thác nguồn lực lao động
xã hội là vô cùng cần thiết. Với tầm quan trọng như vậy, việc làm được nghiên
cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như kinh tế, xã hội, lịch sử... Khi nghiên cứu
dưới góc độ kinh tế, quá trình làm việc của người lao động được coi là quá
trình tiêu dùng sức lao động - yếu tố quan trọng của đầu vào sản xuất. Dưới
góc độ xã hội, việc làm được xem xét gắn với vấn đề thu nhập và đời sống của
người lao động; giá trị việc làm càng cao thì thu nhập và đời sống của người
lao động càng cao và ngược lại. Dưới góc độ lịch sử, việc làm được xem xét
gắn với phương thức lao động kiếm sống của con người và xã hội loài người.
Ở nước ta, trước những năm đổi mới, trong cơ chế kế hoạch hoá tập
trung quan liêu bao cấp dựa trên hai thành phần kinh tế cơ bản là kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể, người lao động được coi là có việc làm và được xã
hội thừa nhận, trân trọng là những người làm việc ở trong các cơ quan của
Nhà nước hay trong các thành phần kinh tế do Nhà nước quản lý. Trong cơ
chế đó, Nhà nước đứng ra GQVL, trực tiếp quản lý nguồn lao động kể từ
khâu đào tạo, phân bổ đến việc sử dụng, đãi ngộ đối với người lao động theo
chỉ tiêu pháp lệnh. Giai đoạn này, xã hội không thừa nhận việc làm ở các
thành phần kinh tế khác và cũng không thừa nhận thiếu việc làm, thất nghiệp.
Từ khi đất nước chuyển sang mô hình kinh tế thị trường định hướng
XHCN, thực hiện CNH, HĐH thì quan niệm về việc làm đã được hiểu rộng

10



hơn, đúng đắn và khoa học hơn. Đó là các hoạt động của con người nhằm tạo
ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm. Tại điều 13, chương II Bộ Luật lao
động Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Mọi hoạt động
lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là
việc làm” [26, tr.132].
Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội,
phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất. Người lao động được
coi là có việc làm khi chiếm giữ một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất
của xã hội. Nhờ có việc làm mà người lao động mới thực hiện được quá trình
lao động, tạo ra sản phẩm cho xã hội, cho bản thân.
Một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai điều kiện cơ bản:
Một là, việc làm là những hoạt động lao động có ích, tạo ra thu nhập cho
người lao động, gia đình và cộng đồng. Hai là, người lao động được tự do
hành nghề, hoạt động đó không bị pháp luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý
của việc làm.
Hai điều kiện trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ
của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Điều đó đã góp phần mở rộng
quan niệm về việc làm; đồng thời, đã tạo ra bước ngoặt mới, là cơ sở pháp lý
cho việc tạo việc làm và GQVL phù hợp. Tạo việc làm chính là quá trình tạo
ra những điều kiện và môi trường bảo đảm cho mọi người có khả năng lao
động đều có cơ hội được lao động, tạo ra của cải vật chất cho xã hội và đem
lại thu nhập cho bản thân, nghĩa là có việc làm. Từ chỗ tạo việc làm, GQVL
cho người lao động thuộc trách nhiệm của Nhà nước, thì hiện nay không chỉ
có riêng Nhà nước mà còn có cả các thành phần kinh tế, các tổ chức đoàn thể
xã hội và cá nhân người lao động. Trong đó, người lao động phải chủ động
tìm kiếm việc làm, tự tạo ra việc làm cho mình.
Quan niệm việc làm hiện nay đã được mở rộng, phù hợp với nền sản
xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, tạo điều kiện cho mọi người dân tham

11


gia vào nhiều hoạt động mang lại thu nhập và tạo việc làm. Điều đó được thể
hiện: Thứ nhất, thị trường việc làm đã được mở rộng, bao gồm tất cả các thành
phần kinh tế, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh và không bị giới hạn
về không gian. Người lao động được coi là có việc làm khi lao động trong các
đơn vị kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cũng như kinh tế tư nhân, kinh tế hộ
gia đình hoặc có thể hành nghề kinh doanh độc lập… Ngay trong nông thôn,
người nông dân cũng mở mang kinh doanh các ngành nghề hết sức phong phú.
Với quan điểm như trên, Đảng và Nhà nước ta đã tạo ra một cuộc cách mạng
thực sự trong việc giải phóng lực lượng lao động xã hội, tính năng động của
người lao động được nâng cao hơn nhiều so với những năm trước đây. Thứ hai,
người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh liên kết, tự do thuê
mướn lao động theo luật pháp để tạo việc làm cho mình và xã hội. Trong chiến
lược phát triển kinh tế, Đảng ta luôn khẳng định duy trì nền kinh tế nhiều
thành phần nhằm phát huy tối đa các nguồn lực của xã hội cho phát triển kinh
tế. Do vậy, mọi tổ chức, cá nhân cũng như hộ gia đình đều có thể phát huy mọi
khả năng, nguồn lực, thực hiện liên doanh liên kết, hợp tác kinh doanh với các
đối tác kinh tế khác cả trong và ngoài nước nhằm phát triển sản xuất kinh
doanh, nâng cao thu nhập cho bản thân và xã hội theo quy định của pháp luật.
Quan niệm việc làm hiện nay đã xóa đi sự phân biệt đối xử lao động
giữa các thành phần kinh tế, động viên mọi tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho
người lao động. Đồng thời, còn làm sâu sắc thêm đặc trưng của Nhà nước
pháp quyền XHCN, thể hiện ở chỗ cho phép công dân Việt Nam được làm
những việc mà pháp luật không cấm.
Từ quan niệm việc làm giúp ta hiểu rõ quan niệm thiếu việc làm; việc
làm thường xuyên và việc làm không thường xuyên.
Thiếu việc làm hay bán thất nghiệp. Người thiếu việc làm là những
người có việc làm nhưng do những nguyên nhân khách quan, mà họ phải làm

việc không hết thời gian theo luật định hoặc làm những công việc có thu nhập
thấp không đủ sống, muốn tìm thêm việc làm để bổ sung. Thiếu việc làm còn
12


do lao động tăng nhanh, diện tích ruộng đất trên một lao động ngày càng
giảm, cơ cấu kinh tế lạc hậu, hiệu quả lao động thấp. Điều đó, ảnh hưởng đến
thu nhập và mức sống của người lao động.
Việc làm thường xuyên và việc làm không thường xuyên. Người lao
động có việc làm thường xuyên, là những người hoạt động kinh tế thường
xuyên trong 12 tháng qua, có số ngày làm việc thực tế lớn hơn hoặc bằng tổng
số ngày có nhu cầu làm thêm.
Người lao động không có việc làm thường xuyên, gồm những người
thuộc bộ phận dân số hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng qua, có
tổng số ngày làm việc thực tế nhỏ hơn tổng số ngày có nhu cầu làm thêm.
Như vậy, lao động ở những địa bàn thuần nông như huyện Phúc Thọ
chủ yếu thuộc bộ phận dân số không có việc làm thường xuyên hay còn gọi là
thiếu việc làm hoặc bán thất nghiệp. Do lao động trồng trọt có tính thời vụ rất
rõ rệt vì thế hiện tượng thiếu việc làm thể hiện rất rõ. Để hạn chế vấn đề này,
cần phải đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, lựa chọn công thức luân canh hợp lý
và đa dạng hoá các sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên, điều đó cũng chỉ hạn
chế tính thời vụ chứ không thể khắc phục được hoàn toàn. Cần có sự bổ sung
của ngành chăn nuôi và các ngành tiểu thủ công nghiệp. Ngành chăn nuôi sử
dụng lao động đều đặn hơn trồng trọt nhưng các hộ có quy mô chăn nuôi lớn
mang tính hàng hoá còn rất ít, lao động dành cho chăn nuôi cũng chỉ chiếm
rất ít thời gian lao động trong ngày. Ở huyện Phúc Thọ đây là hiện tượng phổ
biến, do sản xuất hàng hoá ở trình độ thấp, quy mô chăn nuôi nhỏ và chủng
loại vật nuôi nghèo nàn. Phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp sẽ tạo ra
nhu cầu cần thiết cho phát triển cơ giới hoá nông nghiệp. Khi có việc làm tiểu
thủ công nghiệp, người lao động sẽ sắm máy móc để nâng cao năng suất lao

động nông nghiệp, nhằm tiết kiệm thời gian dành cho hoạt động tiểu thủ công
nghiệp hoặc sẵn sàng thuê máy móc làm một số khâu trong nông nghiệp, nếu
thu nhập tạo ra từ hoạt động tiểu thủ công nghiệp cao hơn. Do đó, cơ giới hóa
13


nông nghiệp và các hoạt động tiểu thủ công nghiệp trong địa bàn thuần nông
như huyện Phúc Thọ có tác động hỗ trợ và thúc đẩy nhau phát triển. Vậy, để
GQVL cho người lao động thì hướng quan trọng là phải bằng nhiều biện pháp
phát triển mạnh các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp.
Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, là vấn đề cốt lõi
và xuyên suốt trong các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh
tế và xã hội, chi phối toàn bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội.
Đối với từng cá nhân, có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống
bản thân và gia đình. Vì vậy, việc làm nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn
bộ đời sống của cá nhân. Việc làm ngày nay gắn chặt với trình độ học vấn,
trình độ tay nghề của từng cá nhân. Không có việc làm trong dài hạn còn dẫn
tới mất cơ hội trau dồi, nắm bắt, nâng cao trình độ kĩ năng nghề nghiệp, làm
hao mòn và mất đi kiến thức, trình độ vốn có.
Đối với nền kinh tế, lao động là một trong những nguồn lực quan trọng,
là đầu vào không thể thay thế đối với một số ngành, là nhân tố tạo nên tăng
trưởng kinh tế và thu nhập quốc dân. Nền kinh tế luôn đảm bảo tạo cầu về
việc làm cho từng cá nhân sẽ giúp cho việc duy trì mối quan hệ hài hoà giữa
việc làm và kinh tế, tức là luôn bảo đảm cho nền kinh tế có xu hướng phát
triển bền vững, duy trì lợi ích và phát huy tiềm năng của người lao động.
Đối với xã hội, mỗi cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành; vì vậy,
việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội vừa tích cực, vừa tiêu cực. Khi
mọi cá nhân trong xã hội có việc làm thì xã hội đó được duy trì và phát triển
ổn định do không có mâu thuẫn nội sinh, không tạo ra các tiêu cực, tệ nạn
trong xã hội, con người dần được hoàn thiện về nhân cách và trí tuệ… Ngược

lại, khi nền kinh tế không đảm bảo đáp ứng về việc làm đầy đủ cho người lao
động có thể dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội và ảnh hưởng xấu
đến sự phát triển nhân cách con người. Con người có nhu cầu lao động ngoài
việc đảm bảo nhu cầu đời sống còn đảm bảo các nhu cầu về phát triển và tự
14


hoàn thiện. Vì vậy, trong nhiều trường hợp khi không có việc làm sẽ ảnh
hưởng đến lòng tự tin của con người, sự xa lánh cộng đồng và là nguyên nhân
của các tệ nạn xã hội. Ngoài ra, khi không có việc làm, trong xã hội sẽ tạo ra
hố ngăn cách giàu nghèo, là nguyên nhân nảy sinh ra các mâu thuẫn và ảnh
hưởng đến tình hình chính trị xã hội.
Vai trò của việc làm đối với từng cá nhân, kinh tế, xã hội là rất quan
trọng; để đáp ứng được nhu cầu việc làm của toàn xã hội đòi hỏi Nhà nước
phải có những chiến lược, kế hoạch cụ thể đáp ứng được nhu cầu này.
1.1.2. Quan niệm về giải quyết việc làm
Lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế, đã có một số lý thuyết của
một số trường phái đề cập đến vấn đề GQVL trong nền kinh tế thị trường
như: Lý thuyết kinh tế chính trị học tiểu tư sản; Lý thuyết tạo việc làm của
trường phái Keynes; Lý thuyết tạo việc làm bằng cách gia tăng đầu tư của các
nhà kinh tế thuộc trường phái Chính hiện đại...
Sismondi là đại diện tiêu biểu của kinh tế chính trị học tiểu tư sản. Ông
đã phân tích khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản và cho rằng trong chủ
nghĩa tư bản tất yếu có khủng hoảng kinh tế, nguyên nhân của khủng hoảng
kinh tế là do sản xuất vượt quá so với tiêu dùng.
Để khắc phục khủng hoảng, theo ông trước mắt cần tăng tiêu dùng và
có thể thông qua ngoại thương để xuất khẩu lượng hàng hoá dư thừa. Tuy
nhiên, về lâu dài cần phải phát triển mạnh sản xuất nhỏ. Ông phủ nhận sản
xuất lớn tư bản chủ nghĩa và cho rằng nếu chỉ có sản xuất nhỏ thì tất cả mọi
người đều có tư liệu sản xuất và đều có việc làm, mọi người đều công bằng và

bình đẳng, sẽ không có khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp.
Quan điểm của Sismondi mang nặng lập trường có tính hai mặt của
tầng lớp tiểu tư sản. Ông vừa muốn xoá bỏ nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
nhưng lại vẫn giữ lại sở hữu tư nhân. Xoá bỏ sản xuất lớn để quay về sản xuất
nhỏ là tư tưởng mang tính phản động, vì nó đi ngược lại với quy luật phát
15


triển mang tính tất yếu khách quan. Nhưng tư tưởng phát triển sản xuất nhỏ
làm cho mọi người đều có việc làm, đều bình đẳng cũng là gợi ý cho giải
quyết việc làm và tăng thu nhập cho lao động ở địa bàn nông thôn nước ta
hiện nay. Đó là đầu tư phát triển mạnh kinh tế hộ, tạo việc làm tại chỗ, xoá
đói giảm nghèo, tạo cơ sở cho phát triển toàn diện KT-XH.
Trường phái Keynes cho rằng, để phát triển kinh tế thì phải làm sao đẩy
được tổng cầu tiến đến sản lượng tiềm năng. Việc xác định sản lượng quốc
dân là dựa trên cơ sở mức tổng cầu về tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ mà
một nền kinh tế có khả năng sản xuất trong điều kiện cụ thể về các nguồn lực
và công nghệ. Theo quan điểm của Keynes thì vai trò của nhà nước là làm sao
cho đường tổng cầu tiến gần đến mức sản lượng tiềm năng, nghĩa là làm cho
sản lượng đạt đến sản lượng tối ưu, mức sản lượng có quan hệ tỷ lệ thuận với
mức công ăn việc làm, tổng cầu càng lớn thì mức thất nghiệp càng giảm. Tuy
nhiên, muốn tăng tổng cầu thì phải tăng đầu tư, khối lượng đầu tư quyết định
quy mô việc làm. Nhà nước cần có những chương trình đầu tư quy mô lớn;
đồng thời, cần có những chính sách kích thích đầu tư của tư nhân (chính sách
tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ, chính sách thuế...). Việc mở rộng chi
tiêu của nhà nước, tăng tiêu dùng của những người giàu, chính sách “ướp lạnh
tiền công”, “tín dụng tiêu dùng” cũng được coi là những giải pháp để tăng
tổng cầu, mở rộng quy mô việc làm. Như vây, theo Keynes, nhà nước có vai
trò hết sức quan trọng trong việc GQVL. Nhà nước là người chỉ huy nền kinh
tế bằng cách điều tiết tổng cung và tổng cầu xã hội thông qua các công cụ tài

chính, tiền tệ để kích thích đầu tư, mở rộng sản xuất. Đó là cách tốt nhất để
giải quyết tình trạng dư thừa nhân công trong những giai đoạn khủng hoảng.
Lý thuyết của trường phái Chính hiện đại cho rằng: Muốn tăng trưởng
kinh tế phải có tích lũy để có vốn tái sản xuất mở rộng; từ đó, tạo nhiều việc
làm. Đối với các nước đang phát triển do thu nhập thấp, tốc độ tăng trưởng
chậm, tỷ lệ tích lũy thấp dẫn đến thiếu vốn đầu tư. Để tạo vốn đầu tư cho tăng
16


trưởng, các nước này cần phải dựa vào lợi thế so sánh của mình là tài nguyên
và nguồn nhân lực dồi dào. Cần thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài (bao gồm
ngoại tệ, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ, tri thức quản lý kinh tế hiện đại...)
để tạo nhiều việc làm. Tốc độ và quy mô của vốn đầu tư tăng sẽ trực tiếp thúc
đẩy tăng tốc độ và quy mô việc làm. Do đó, để GQVL phải xuất phát từ các
yếu tố đầu vào của sản xuất. Đối với một nền kinh tế đang trong quá trình
phát triển như nước ta, thì việc tận dụng các yếu tố bên ngoài như vốn, công
nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý sẽ là điều kiện thuận lợi để khai thác,
phát huy nguồn nhân lực của nền kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, tạo ra nhiều cơ
hội việc làm cho xã hội.
Qua nghiên cứu lý thuyết của một số trường phái về vấn đề GQVL trong
nền kinh tế thị trường, có thể thấy GQVL là một trong những chính sách quan
trọng, nó không chỉ tác động đối với sự phát triển kinh tế, mà còn đối với đời
sống xã hội của mỗi quốc gia. Với nước ta, GQVL còn là giải pháp quan trọng
để phát huy nhân tố con người, sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động, góp
phần chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH.
Đồng thời, tạo ra các cơ hội để người lao động có được việc làm và tăng thu
nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội.
Giải quyết tốt việc làm chính là để khai thác triệt tiềm năng của một
con người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm có hiệu quả. Vì vậy,
GQVL phù hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động ở chỗ,

tạo cơ hội cho họ thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình; trong đó, có
quyền cơ bản nhất là quyền được làm việc nhằm nuôi sống bản thân và gia
đình, góp phần xây dựng quê hương đất nước.
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về GQVL nhưng có thể khái
quát theo 2 góc độ: Thứ nhất, GQVL là tổng thể các biện pháp, chính sách
KT-XH từ vi mô đến vĩ mô, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, để

17


đảm bảo cho người lao động có thể có việc làm và có thu nhập. Thứ hai,
GQVL là các biện pháp, chính sách chủ yếu hướng vào đối tượng thất nghiệp,
thiếu việc làm nhằm tạo ra chỗ làm việc cho người lao động để giảm thiểu tỷ
lệ thất nghiệp.
Từ những quan niệm trên tác giả cho rằng, giải quyết việc làm cho
người lao động là việc tạo ra các cơ hội để người lao động có hoặc có thêm
việc làm, tăng thu nhập, đáp ứng nhu cầu, lợi ích của bản thân, gia đình,
cộng đồng và xã hội.
Như vậy, GQVL cho người lao động chính là việc khai thác và sử dụng
có hiệu quả nguồn lực con người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm
có hiệu quả. Với tính cách là chủ thể, người lao động tiến hành các hoạt động
thực tiễn nhằm phát triển KT-XH mà trước hết là phát triển lực lượng sản
xuất. Với tính cách là mục tiêu, người lao động là đối tượng được hưởng thụ
những thành quả của sự phát triển đó. Bởi vì, khi người lao động có việc làm
đồng nghĩa với có thu nhập, có cơ hội cho họ thực hiện được quyền và nghĩa
vụ của mình; trong đó, có quyền cơ bản nhất là quyền được làm việc nhằm
nuôi sống bản thân và gia đình, góp phần xây dựng quê hương đất nước.
Ngược lại, nếu không có việc làm, thì người lao động không tạo ra thu nhập,
dẫn đến giảm nhu cầu hưởng thụ, ảnh hưởng đến cuộc sống của bản thân và
gia đình, có thể dẫn đến những tiêu cực trong đời sống xã hội, cản trở sự phát

triển của nền kinh tế.
Giải quyết việc làm cho người lao động, giúp họ tham gia vào quá trình
sản xuất là yêu cầu của sự phát triển KT-XH. Với bất kỳ một đất nước nào,
giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động luôn đi đôi với tăng trưởng
kinh tế, ngay cả với những quốc gia có điều kiện tự nhiên không thuận lợi, ít
tài nguyên thiên nhiên, thậm chí thường xuyên bị thiên tai đe dọa. Vì vậy,
trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, vấn đề GQVL cho

18


người lao động nhằm sử dụng hợp lý nguồn lực con người, đang được đánh
giá là quan trọng và quyết định nhất đối với một nền kinh tế. Trong chiến
lược phát triển KT-XH 2011-2020, Đảng ta nhấn mạnh: “Thực hiện tốt các
chính sách về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập nhằm khuyến khích và
phát huy cao nhất năng lực của người lao động. Đảm bảo quan hệ lao động
hài hòa, cải thiện môi trường và điều kiện lao động. Đẩy mạnh dạy nghề và
tạo việc làm, hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các đối tượng chính sách,
người nghèo, lao động nông thôn và vùng đô thị hóa.” [11, tr.125].
Hiện nay, ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế và cách mạng khoa
học công nghệ tới tất cả các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển trong
đó có nước ta, thì việc GQVL, nâng cao chất lượng đội ngũ người lao động
càng có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển KT-XH và củng cố quốc phòng
an ninh. Xét về góc độ kinh tế, thất nghiệp gắn chặt với đói nghèo, tỷ lệ thất
nghiệp cao gây lãng phí nguồn nhân lực, thiệt hại lớn cho nền kinh tế, cuộc
sống của người lao động gặp nhiều khó khăn và tiềm ẩn sự mất ổn định xã
hội. Rõ ràng, tạo việc làm và giải quyết tốt việc làm cho người lao động là
mục tiêu của sự phát triển KT-XH, đồng thời là động lực của sự phát triển đó.
Với quan niệm mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm, thì nhận thức về GQVL đã có

sự thay đổi căn bản. Chỉ khi nào trên thị trường, người lao động và người sử
dụng lao động gặp gỡ và tiến hành trao đổi thống nhất với nhau, thì khi đó việc
làm được hình thành. GQVL cần phải được xem xét cả phía người lao động,
người sử dụng lao động và vai trò của Nhà nước. GQVL không chỉ là trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước như trước đây mà còn là trách nhiệm của các đoàn
thể, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội và của mỗi người lao động.
Nhà nước, các đoàn thể, các doanh nghiệp tạo ra môi trường, điều kiện để xúc
tiến việc làm; tạo ra nhu cầu việc làm trong chiến lược phát triển chung của
đất nước. Mỗi người lao động tích cực, chủ động tạo ra việc làm, tìm kiếm
19


việc làm với khả năng và điều kiện cho phép. Mọi công dân Việt Nam đến
tuổi trưởng thành, có sức lao động đều phải có trách nhiệm và nghĩa vụ lao
động; trước hết là chăm lo cho bản thân và gia đình mình, sau đó là đóng góp
cho xã hội vì lợi ích cộng đồng. Mọi người có khả năng lao động thì phải lao
động, không thể trông chờ dựa dẫm vào sự cưu mang, bảo trợ của Nhà nước
và xã hội, sống bằng sự lao động của người khác hoặc ăn bám xã hội.
Nếu như trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp,
quan niệm việc làm và GQVL chỉ liên quan đến vai trò của Nhà nước trong
việc bảo đảm các điều kiện để tạo việc làm, sắp xếp việc làm theo kế hoạch
phát triển KT-XH đã được kế hoạch hoá theo từng năm phấn đấu; thì trong
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, việc làm và GQVL
đã thay đổi hoàn toàn. GQVL là một chính sách KT-XH rộng lớn của Đảng,
Nhà nước mang tính định hướng và cũng là thể hiện bản chất tốt đẹp của chế
độ mà chúng ta đang phấn đấu xây dựng. Đó là một xã hội mà trong đó mọi
người đều có quyền bình đẳng như nhau về các quyền lao động, quyền đuợc
hưởng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Để thực hiện và được hưởng các
quyền đó, trước hết phải thực hiện được quyền và nghĩa vụ lao động của
mình. Giải quyết vấn đề này rõ ràng phải kết hợp chặt chẽ giữa trách nhiệm

của Nhà nước với trách nhiệm công dân, phải phân biệt rõ ràng giữa nghĩa vụ
và quyền lợi của công dân trong việc tạo việc làm và thực thi trách nhiệm lao
động với các việc làm mà mình đảm nhận. Không thể có việc GQVL đơn
phương mà cần phải có sự nỗ lực và trách nhiệm của cả hai phía Nhà nước và
nhân dân trong việc kiến tạo việc làm, để không còn sự bất cập giữa cơ cấu
lao động và cơ cấu việc làm trên thực tế.
1.1.3. Quan niệm về giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện
Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
Trên cơ sở nghiên cứu việc làm và GQVL nói chung tác giả cho rằng:
GQVL cho người lao động ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội chính là
20


tổng thể các biện pháp, chính sách KT-XH của Nhà nước, địa phương và các
cơ sở sản xuất kinh doanh hướng vào người lao động ở huyện Phúc Thọ
nhằm tạo ra các cơ hội, các điều kiện cần thiết của quá trình lao động, để
người lao động có hoặc có thêm việc làm, tăng thu nhập, đáp ứng nhu cầu,
lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội.
Từ quan niệm trên đây, có thể hiểu GQVL cho người lao động ở huyện
Phúc Thọ, thành phố Hà Nội trên một số nội dung sau đây:
Một là, chủ thể GQVL cho người lao động ở huyện Phúc Thọ là Đảng
bộ, Chính quyền, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội, các cơ sở sản xuất kinh
doanh và chính bản thân người lao động trên địa bàn. Trong đó, Đảng bộ,
chính quyền các cấp của Huyện là chủ thể quan trọng nhất, là người lãnh đạo,
chỉ đạo và ban hành các cơ chế, chính sách nhằm thực hiện đầy đủ mọi đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề việc làm và GQVL
cho người lao động. Các phòng, ban, ngành liên quan thực hiện tốt chức năng
của mình là cơ quan trực tiếp tham mưu cho cấp ủy đảng, chính quyền về các
định hướng và kế hoạch liên quan tới GQVL cho người lao động. Đồng thời,
tiến hành kiểm tra, giám sát, đôn đốc quá trình thực hiện, phối hợp chặt chẽ

với nhau để bảo đảm công tác GQVL cho người lao động thực hiện có hiệu
quả. Các cơ sở sản xuất kinh doanh là nơi tiếp nhận người lao động vào làm
việc, tập trung ưu tiên cho lao động tại địa phương, để đảm bảo sự cân đối
cung - cầu lao động. Làm tốt công tác đào tạo nghề, tự đào tạo nghề cho lao
động của doanh nghiệp mình và thực hiện tốt các chế độ, chính sách về lao
động việc làm như: tiền công, tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn lao động...
Người lao động với tư cách là chủ thể chính, cần nâng cao tính chủ động, linh
hoạt trong tự tìm việc làm cho mình. Mặc dù, với thực tế trình độ học vấn,
chuyên môn nghiệp vụ cùng với thói quen, phong tục, tập quán… của người
lao động trên địa bàn Huyện thì việc tìm một nghề có tính ổn định, lâu dài cho
mình khi bị tác động của quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành nghề là hết sức
21


khó khăn. Song, không phải không có cơ hội tìm được việc làm, mà vẫn có
thể chuyển đổi ngành nghề phổ thông khác như: may mặc, đồ mộc, xây dựng,
dịch vụ thương mại, môi trường, mở trang trại, làm những công việc phụ khác
mà không cần trình độ chuyên môn.
Hai là, mục đích GQVL cho người lao động ở huyện Phúc Thọ là để
tận dụng mọi nguồn lực, phát huy lợi thế sẵn có của địa phương, khai thác có
hiệu quả tiềm năng lao động vào phát triển KT-XH, giúp người lao động ở
huyện Phúc Thọ có việc làm, có thu nhập ổn định, góp phần nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của bản thân và gia đình họ.
Ba là, yêu cầu của quá trình GQVL cho lao động ở huyện Phúc Thọ,
cần đảm bảo lợi ích trước mắt và lâu dài; nhất là trong việc chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, quy hoạch cụm công nghiệp, phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp,
phát triển làng nghề truyền thống và nghề mới… phải gắn chặt với kế hoạch
đào tạo và sử dụng lao động. Có chủ trương, chính sách phù hợp trong việc
GQVL cho người lao động như chính sách về vốn, thị trường sức lao động,
các chương trình về GQVL, cơ chế chính sách tăng cường thu hút đầu tư, mở

rộng sản xuất trên địa bàn Huyện để tạo thêm nhiều việc làm mới, giải quyết
nhu cầu lao động tại chỗ và nâng cao thu nhập cho người lao động. Tạo mọi
điều kiện để lao động dôi dư có cơ hội chuyển đổi nghề nhưng vẫn gắn bó với
chính quê hương.
Bốn là, nội dung GQVL cho người lao động ở huyện Phúc Thọ thể hiện
đó là: Cần xây dựng, triển khai có hiệu quả quy hoạch và kế hoạch phát triển
KT-XH ở địa phương, trong đó có nguồn lực lao động. Đây là khâu có vị trí
quan trọng trong triển khai các hoạt động xúc tiến GQVL cho người lao động ở
huyện Phúc Thọ. Làm tốt khâu này sẽ giúp cho các cơ quan chức năng, các
doanh nghiệp, các tổ chức KT-XH nắm vững số lượng, chất lượng nguồn lực
lao động trên địa bàn để xây dựng, thực hiện các giải pháp GQVL phù hợp, hiệu
quả, giải quyết được những ách tắc thực tế của địa phương và có những giải
22


pháp dài hạn GQVL cho người lao động ở huyện Phúc Thọ trong những năm
tiếp theo. Đồng thời, phải có những cơ chế, chính sách khuyến khích hỗ trợ
tạo việc làm, GQVL cho người lao động; trong đó, đặc biệt quan tâm tới số
lao động bị dôi dư, lao động thiếu việc làm. Các chính sách có tính chất như
đòn bẩy trong GQVL cho người lao động cần được thực hiện tốt như: chính
sách hỗ trợ vốn, chính sách đào tạo chuyển đổi nghề, nhân cấy nghề, chính
sách ưu đãi thu hút các nhà đầu tư, các chính sách đào tạo nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực… Bên cạnh đó, cần mở rộng các ngành nghề sản xuất,
gắn với phân công lại lao động, tạo những ngành nghề phù hợp với lợi thế của
từng xã, từng vùng để từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở rộng
quy mô, thu hút lao động đang thiếu việc làm. Duy trì môi trường sản xuất
kinh doanh ổn định; trong đó, có các giải pháp đồng bộ về quản lý thị trường,
nhằm nâng cao hiệu quả GQVL. GQVL cần phải được quan tâm, xem xét cả
phía người lao động, người sử dụng lao động và vai trò của cơ quan quản lý
nhà nước. Mặt khác, cũng cần đẩy mạnh, mở rộng về quy mô, đa dạng về

hình thức, nâng cao chất lượng đào tạo và chuyển đổi nghề cho người lao
động; đẩy mạnh phát triển thị trường sức lao động ở Huyện, hình thành Trung
tâm giao dịch và giới thiệu việc làm để người lao động có thể tiếp cận được
với các nhu cầu giao dịch về việc làm.
Năm là, phương thức GQVL cho người lao động ở huyện Phúc Thọ
được thể hiện đó là: Đẩy mạnh phát triển sản xuất trên tất cả các lĩnh vực
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ. Trong
đó tập trung phát triển tiểu thủ công nghiệp tạo bước đột phá nhằm thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, trên cơ sở tăng cường áp dụng
khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong quá trình sản xuất để “tăng cầu”
về lao động. Tiếp tục đẩy mạnh dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất tạo điều
kiện phát triển mạnh kinh tế trang trại để người lao động tự chủ hơn với đất
đai, mạnh dạn trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và ứng dụng kỹ
23


thuật công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp để nâng cao năng xuất, chất
lượng sản phẩm, bảo đảm an ninh lương thực, an toàn thực phẩm; góp phần
giải phóng được nguồn vốn, kỹ thuật và lực lượng lao động, tạo ra được nhiều
việc làm hơn và thu nhập của người lao động được nâng cao hơn. Quan tâm
phát triển ngành thương mại, dịch vụ theo phương thức hoạt động của cơ chế
thị trường, bảo đảm hàng hóa được lưu thông thông suốt, đa dạng và chất
lượng ngày càng tăng. Duy trì hoạt động của các làng nghề hiện có, khôi phục
các làng nghề truyền thống, du nhập, nhân cấy nghề và phát triển nghề mới
nhằm thúc đẩy phát triển KT-XH ở khu vực nông thôn trong Huyện cũng như
toàn Huyện, góp phần tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Huyện
theo hướng CNH, HĐH. Tổ chức các phiên giao dịch việc làm để gắn kết
người sử dụng lao động với người lao động, giúp cho người lao động trên địa
bàn Huyện tìm được việc làm ở các tỉnh, thành phố trên cả nước, thậm chí còn
tham gia xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Khuyến khích và tạo mọi điều

kiện tốt nhất để mỗi người lao động tích cực, chủ động tìm kiếm việc làm, tự
tạo việc làm cho mình và cho xã hội, thể hiện trách nhiệm của mình với
chính bản thân mình và gia đình, không trông chờ ỷ nại vào người khác, góp
phần giải phóng sức sản xuất, sức lao động xã hội, khai thác được tiềm năng
của mỗi người lao động cho phát triển KT-XH nói chung.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng và sự cần thiết giải quyết việc làm cho
người lao động ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
1.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng
* Về điều kiện tự nhiên.
Vị trí địa lý: Phúc Thọ là Huyện đồng bằng Bắc Bộ, nằm bên bờ hữu
ngạn của cả hai con sông: sông Hồng và sông Đáy. Ranh giới phía Tây giáp
thị xã Sơn Tây, phía Nam giáp huyện Thạch Thất, phía Đông Nam giáp các
huyện Quốc Oai và Hoài Đức, phía Đông giáp huyện Đan Phượng, phía Bắc
sông Hồng là ranh giới của Huyện với tỉnh Vĩnh Phúc.
24


Phúc Thọ là huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội, cách trung tâm Thủ
đô khoảng 35 km về phía Tây. Có Quốc lộ 32 với chiều dài trên 16 km, cùng
với tuyến tỉnh lộ phân bố đều khắp Huyện (Tỉnh lộ 417, 418, 421) theo hình
xương cá. Phúc Thọ có 3 con sông đi qua; trong đó, sông Hồng với chiều dài
chảy qua Huyện khoảng 10 km. Với vị trí địa lý và hệ thống giao thông như
vậy, Phúc Thọ có điều kiện thuận lợi trong giao lưu kinh tế, văn hoá, mở rộng
thị trường để phát triển KT-XH, là điều kiện tốt để tạo thêm nhiều công ăn
việc làm cho người lao động hiện nay.
Thời tiết và khí hậu: Cũng như các huyện khác trong vùng đồng bằng
sông Hồng, Phúc Thọ mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm,
mưa nhiều, đây là điều kiện thuận lợi cho phát triển một nền nông nghiệp đa
dạng, phong phú.
Địa hình: Phúc Thọ mang đặc trưng của một huyện đồng bằng, địa hình

tương đối bằng phẳng. Tổng diện tích đất tự nhiên 11.719,27 ha; trong đó, đất
nông nghiệp là 6.478,99 ha, đất phi nông nghiệp 4.715,11 ha [phụ lục 1].
Được chia làm 2 vùng là vùng đồng và vùng bãi, đất vùng bãi thường xuyên
được phù xa sông Hồng bồi đắp nên có chất lượng tốt. Là điều kiện tốt cho
việc qui hoạch một số vùng sản xuất chuyên canh sản phẩm nông nghiệp
sạch, xây dựng các công trình thủy lợi, hệ thống giao thông nông thôn, đẩy
mạnh giao lưu kinh tế và văn hoá giữa các vùng trong khu vực, tạo ra nhiều
việc làm mới cho người lao động.
* Về kinh tế - xã hội.
Về kinh tế: Là huyện thuần nông, kinh tế còn nhiều khó khăn do xuất
phát điểm thấp, ngành nghề chậm phát triển. Vượt lên những thách thức này,
Phúc Thọ xác định nhiệm vụ trọng tâm tập trung phát triển kinh tế, đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tạo bước đột phá xây dựng nông thôn mới.
Những năm qua, Huyện có nhiều chủ chương, biện phát thúc đẩy kinh tế phát
triển tạo nên sự thay đổi tích cực. Tăng trưởng giá trị sản xuất năm 2011 đạt
25


×