Sáng kiến kinh nghiệm
Một số biện pháp chỉ đạo giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh
đầu cấp
PHẦN MỞ ĐẦU
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài.
Bác Hồ nói
“Có tài mà không có đức là vô dụng
Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”
Ghi nhớ lời dạy của Bác Hồ. Đảng ta khi đánh giá một con người luôn lấy đức
làm gốc. Một con người không có đức dù tài cán đến đâu cũng không thể làm nổi
việc gì có ích cho dân, cho nước. Xuất phát từ thực tiễn xã hội hiện nay, tác động
của ngoại cảnh có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng đạo đức của học sinh ngay từ khi
bước vào trường học. Đối với học sinh lớp Một khi cắp sách tới trường, tất cả mọi
hoạt động, các mối quan hệ với các em còn mới mẻ. Do vậy việc hình thành cho
các em những chuẩn mực hành vi là rất quan trọng. Chuẩn mực đạo đức xã hội bao
gồm những hành vi thói quen đạo đức, mối quan hệ giữa con người với con người
trong xã hội. Gần gũi với các em nhất là mối quan hệ gia đình, nhà trường, cộng
đồng và môi trường tự nhiên.
Nhân cách đạo đức của các em khi đến trường rất trong sáng ngây thơ, chưa có khả
năng nhận biết phân tích, chưa hiểu sâu, hiểu rõ mọi tình huống vấn đề. Nếu người
thầy không uốn nắn tốt thì như cây thiếu ánh sáng sẽ phát triển cong vẹo.
Xuất phát từ mục tiêu các môn học. Dạy học các môn học trong đó dạy đạo đức
là dạy học sinh những hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội
và quyền trẻ em trong các tình huống đơn giản cụ thể của cuộc sống hàng ngày.
Nội dung của các môn học là sự kết hợp giữa giáo dục quyền với giáo dục trách
nhiệm bổn phận của học sinh. Hơn nữa giáo dục đạo đức không chỉ giáo dục bổn
phận, trách nhiệm của học sinh đối với gia đình, nhà trường, xã hội và môi trường
tự nhiên, mà còn giáo dục trách nhiệm của các em đối với chính bản thân mình.
2. CƠ SỞ THỰC
TIỄN.
Tất cả các môn học ở tiểu học đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho
nhau. Trong các môn học bắt buộc ở lớp Một. Nhiều giáo viên, nhiều cơ sở chỉ chú
tâm hai môn Toán và Tiếng việt nhằm đạt được mục đích sau khi học xong lớp
Một học sinh biết đọc thông viết thạo là được, chưa chú ý nhiều đến giáo dục kỹ
năng cho học sinh.
Việc bồi dưỡng hình thành cho các em những phẩm chất đạo đức đâu phải đó là
một bài mẫu có sẵn, áp đặt, khuôn mẫu để học sinh thực hiện theo. Mà nhiệm vụ
giáo dục kỹ năng qua mỗi bài học là một chuẩn mực hành vi đạo đức giúp các em
nắm được những điều sơ đẳng của phép ứng xử trong cuộc sống hằng ngày. Qua
bài dạy của giáo viên các em nắm được nội dung và ý nghĩa của chuẩn mực hành
vi trong các hoạt động và trong các mối quan hệ xã hội.
Với học sinh lớp Một việc bồi dưỡng cho các em cách nói năng lễ phép, giúp các
em biết cách cư xử với người trên, bạn bè trong lớp. Từ đó các em có nề nếp thói
quen tốt, tạo điều kiện cho các em học tốt hơn . Đó là một công việc đầu tiên và
cũng thật khó đối với giáo viên lớp Một. Khi nhận lớp giáo viên phải tiến hành tìm
hiểu tình tình học sinh. Điều kiện sống của các em với gia đình. Hầu hết đối với
học sinh lớp một trường Tiểu học Tân Lợi từ lúc sinh ra và lớn lên đa số các em ít
được va chạm với môi trường xung quanh nên vốn kinh nghiệm sống nghèo nàn,
các em chưa biết cách ứng xử đơn giản với cô giáo và các bạn. Nhiều lúc cô nói
các em như không hiểu gì. Từng vấn đề nhỏ cũng phải nói cụ thể rõ ràng, làm mẫu
bằng động tác thì các em mới hiểu, các em trầm lặng ít hoạt động, thích ngồi nhìn
các bạn học, chơi, nô đùa. Nhiều bậc phụ huynh chưa chú ý dạy con em mình
những phép ứng xử nhỏ nhất, cần thiết nhất trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày,
khiến cho các em rất ngại nói, ngại giao tiếp.
Chính vì những lý do trên song song với việc trang bị kiến thức cho các em thì
giáo dục kỹ năng sống cho các em qua các môn học là rất quan trọng.
Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo rèn kỹ
năng sống cho học sinh đầu cấp”.
3. - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Việc nghiên cứu đề tài “ Một số biện pháp chỉ đạo rèn kỹ năng sống cho học sinh
đầu cấp”. Trước hết giúp cho tôi hiểu rõ hơn về công tác chỉ đạo của mình nhằm
nâng cao chất lượng cho học sinh trong trường tiểu học.
Khi nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sau một năm học lớp Một có thể trang
bị cho các em một số hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực, hành vi đạo đức và
pháp luật phù hợp với lứa tuổi trong mối quan hệ của các em với bản thân, gia
đình, nhà trường, cộng đồng và ý nghĩa của việc thực hiện theo các chuẩn mực đó.
Từng bước hình thành kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và những
người xung quanh theo các chuẩn mực đã học, kỹ năng lựa chọn và thực hiện các
hành vi ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ và tình huống đơn giản, cụ thể của
cuộc sống, biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện, hình thành thái độ tự trọng, tự tin,
yêu thương, tôn trọng con người, yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt, không đồng tình
với cái ác, cái sai, cái xấu.
Giúp cho các em có vốn kinh nghiệm sống phong phú, tự nhận biết các hành vi
đạo đức từ thực tế xung quanh các em qua các bài học, tranh ảnh, tiểu phẩm, sắm
vai, các hoạt động ngoài giờ lên lớp, vận dụng vốn kinh nghiệm đó vào cuộc sống
thực tế hàng ngày.
Giúp giáo viên say mê với công việc, yêu nghề mến trẻ.
3. - GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.
3.1 - Trường tiểu học Tân Lợi Huyện Hớn Quản Tỉnh Bình Phước.
3.2 - Giới hạn đối tượng nghiên cứu:
“Một số biện pháp chỉ đạo rèn kỹ năng sống cho học sinh
Đầu cấp. Trường tiểu học Tân Lợi”.
3.3 - Giới hạn về khách thể khảo sát: 159 học sinh khối 1.
4. - Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm chỉ đạo rèn kỹ năng sống cho học sinh
đầu cấp tôi đã vận dụng các phương pháp sau:
1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
3. Phương pháp quan sát.
4. Phương pháp đàm thoại.
5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
6. Phương pháp lấy ý kiến.
+ Về mặt lý luận:
Nhà trường tiểu học là cái nôi đầu tiên không chỉ trang bị cho các em những
kiến thức khoa học mà còn trang bị cho các em những chuẩn mực hành vi, để các
em được chăm sóc phát triển toàn diện là người có ích cho xã hội. Đối với học sinh
lớp Một, các em vừa ở tuổi mẫu giáo, cái tuổi bắt chước theo người lớn, vốn kinh
nghiệm sống nghèo nàn, nên phần nào có ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ ở
mọi nơi, mọi lĩnh vực, kể cả việc lĩnh hội kiến thức. Các em nhận biết cái tốt, cái
xấu, cái sai, cái đúng, cái thiện, cái ác còn hạn chế. Vào học lớp Một rồi có em còn
chưa nói được cụ thể họ và tên của mình, họ tên của bố mẹ, còn nói trống không,
v.v…Nếu học sinh có kỹ năng giao tiếp tức là có kỹ năng nói tốt tạo tiền đề học tốt
các môn học. Để thực hiện được nhiệm vụ này chúng ta cần tìm hiểu tâm lý học
sinh lớp Một, nghiên cứu chuẩn đạo đức xã hội. Nghiên cứu những lý luận cần
thiết về rèn luyện kỹ năng sống qua các bài học cụ thể.
+ Về mặt thực tiễn:
- Tìm hiểu học sinh lớp một: Lý lịch học sinh nơi cư trú, trò chuyện giao tiếp để
nắm bắt tình hình học sinh, tìm hiểu mặt yếu của học sinh, từ đó xây
dựng
kế hoạch bồi dưỡng cho các em. Giáo viên phải yêu
nghề mến trẻ là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
B. - PHẦN NỘI DUNG.
CHƯƠNG I
NỘI DUNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I. Thực trạng của học sinh lớp một trường Tiểu học Tân Lợi
- Để biết được vốn kinh nghiệm sẵn có của các em tôi bắt tay vào tìm hiểu tình
hình học sinh lớp 1.
Tổng số học sinh lớp Một là 159 em: Trong đó có 11 em gia đình hộ nghèo, 30
em gia đình điều kiện khó khăn, phần lớn là con em công nhân cao su, vì vậy ít có
điều kiện quan tâm đến các em . Phần lớn các em chưa được gia đình chú ý quan
tâm bồi dưỡng vốn kinh nghiệm trong giao tiếp nên đến lớp các em thường hay
nhút nhát. khi đến lớp là khóc. Gọi lên bảng không dám lên, không dám giơ tay
phát biểu xây dựng bài cô gọi chỉ gật và lắc đầu, hoặc "ơi","hở". Nhiều em còn
chưa biết nói lời thưa gửi thể hiện lễ phép.
- Do đặc điểm nơi cư trú của học sinh, các em ở rải rác nhiều ấp, sóc. Các em
nhút nhát, không cởi mở ngại giao tiếp với các bạn và cô giáo. Nhiều em ở ấp Sóc
trào đồng bào dân tộc, vung sâu từ nhỏ nên vốn kinh nghiệm sống còn hạn chế.
Các em chưa biết cách ứng xử đơn giản nhất với cô giáo và các bạn. Nhiều em
chưa nói được cụ thể họ tên mình, họ tên bố mẹ, chưa phân biệt được anh em
trong nhà với anh em họ.
Từ tình hình thực tế trên tôi thiết nghĩ các em có khả năng giao tiếp tốt sẽ tạo
điều kiện cho các em học tốt các môn học cũng như tham gia các hoạt động do
trường, đội tổ chức.
II. Đánh giá thực trạng
*Học sinh:
- Do đặc điểm tâm sinh lí hoc sinh, nhiều em tính cách nhút nhát, từ nhỏ ít va
chạm với môi trường xung quanh nên khi vào lớp Một các em bắt đầu làm quen
với hoạt động học tập. Tất cả đều mới mẻ vốn kinh nghiệm sống hạn chế khó khăn
cho việc tiếp thu kiến thức.
*Môi trường sống và điều kiện gia đình.
- Do đặc điểm nơi cư trú các em ở xa trung tâm, bố mẹ mải làm ăn ít có thời gian
quan tâm đến việc học tập của các em, nhất là sửa những hành vi thói quen chưa
đúng, chưa chuẩn. VD: Con nói trống không chưa chú ý sửa lại lời nói chuẩn cho
các em, hoặc khi các em đưa đón vật gì đó với người lớn tuổi các em đưa một tay
cũng cho qua không sửa lại đúng cho các em v. v … nhiều bậc phụ huynh do bận
mải làm ăn hầu như chỉ chú ý con em mình có ăn là được, không có chút thời gian
quan tâm đến tâm tư tình cảm của các em, nhất là các bậc phụ huynh ở khu vực ấp
sóc việc quan tâm đến học tập của các em càng hạn chế hơn. phụ huynh chưa nhận
thức được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng cho các em, trách nhiệm của
mình trong việc học tập của con em còn phó thác cho nhà trường.
* Giáo viên.
- Nhà trường là môi trường giáo dục quan trọng nhất trong việc hình thành và
phát triển nhân cách học sinh, nhưng nhiều cơ sở chưa chú tâm đầu tư mới chỉ
hoàn thành theo mục tiêu môn học, chưa nghiên cứu phương pháp dạy nhằm mục
đích giáo dục cao nhất. Giáo viên chưa xác định được kĩ năng cần rèn qua từng bài
học. Chưa chú ý kiểm tra kỹ năng hành vi đạo đức đã học của học sinh.
- Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh chưa thường xuyên liên tục nên các hành vi
đạo đức chưa trở thành thói quen, các em chóng quên. hành vi đó chưa có giá trị
thực tế cao.
* Nhà trường, đoàn đội.
- Chưa tổ chức được nhiều hoạt động ngoại khoá: Như thi kể chuyện đạo đức, học
tập tấm gương người tốt việc tốt để học sinh được thưc hành hành vi đã học vào
những tình huống cụ thể trong cuộc sống.
- Nội dung sinh hoạt chưa được rút kinh nghiệm, thay đổi nội dung sinh hoạt
theo từng tháng.
Từ những thực trạng trên việc rèn kỹ năng sống cho học sinh lớp Một là rất cần
thiết, tạo tiền đề cho các em phát triển khả năng giao tiếp và học tập tốt các môn
học
CHƯƠNG II
Một số vấn đề lý luận về “ Rèn kỹ năng sống cho học sinh lớp Một”
I. - CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Biện pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh đầu cấp.
Rèn kỹ năng
Kỹ năng sống
Rèn kỹ năng sống cho học sinh qua các môn học.
*Kỹ năng: Tức là qua các bài học xây dựng các chuẩn mực hành vi, các chuẩn đó
được vận dụng vào thực tế cuộc sống và nó trở thành thói quen của mỗi người.
* Kỹ năng sống: Vận dụng những chuẩn mực đã học vào cuộc sống thực tế hàng
ngày như đi học về chào ông chào bà, lễ phép chào hỏi thầy cô khi gặp v.v… Tức