Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Một số biện pháp giúp trẻ 24 36 tháng có thói quen ăn uống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.92 KB, 10 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO QUẬN CẦU GIẤY
TRƯỜNG MẦM NON HOẠ MY

------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 24 -36 THÁNG
CÓ THÓI QUEN TRONG ĂN UỐNG.

Giáo viên

: Trần Thị Bích Hạnh

Lớp

: B2 - Trường Mầm Non Hoạ My

NĂM HỌC 2006-2007.

0


I. ĐẶT VẤN ĐỀ.

Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá
nhân. Những sự khác biệt này bao gồm cả về thể chất, năng lực, trí lực, xu
hướng, hứng thú. Và tất cả các trẻ đều có quyền đòi hỏi được quan tâm đáp
ứng nhu cầu của bản thân.
Bên cạnh đó các nhà giáo dục cũng thấy rằng về bản chất, phạm vi
năng lực tiềm tàng của trẻ rộng hơn rất nhiều so với những gì chúng thể
hiện ở lớp. Và để có thể làm bộc lộ năng lực tiềm ẩn này, trẻ cần có một


môi trường học tập cho phép chúng được học tập mọi lúc, mọi nơi, học
theo nhiều cách khác nhau. Để nuôi dưỡng trí thông minh là chăm sóc bảo
vệ và kích thích trẻ trong quá trình sinh trưởng. Nhiều nhà nghiên cứu đã
chỉ ra rằng trẻ có kinh nghiệm học từ những ngày đầu tiên của cuộc đời. Vì
vậy sự nuôi dưỡng trí lực của trẻ có thể bắt đầu ngay sau khi trẻ sinh ra. Đó
là một quá trình lâu dài đòi hỏi rất nhiều sự âu yếm, kiên trì, hiểu biết về
chăm sóc và dạy bảo của cha mẹ, ông bà và cô giáo. Khi trẻ đến lớp, mỗi
trẻ là một cơ thể duy nhất, do đó trẻ sẽ hành động trong một môi trường
theo cách của mình. Chính vì vậy cô giáo cần tạo cho trẻ có một tâm thế tốt
khi đến lớp, một không khí tình cảm yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều này
giúp trẻ nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình.
Trẻ chỉ có thể phát triển, khoẻ mạnh, thông minh có nề nếp, khi được
sống trong môi trường thật sự yêu thương chăm sóc và chú ý khuyến khích
giúp đỡ của người lớn. Đúng vậy, trong những năm qua ngành giáo dục
thành phố Hà Nội đã có những biện pháp chỉ đạo có hiệu quả tuyên truyền
và giáo dục tại các trường Mầm non. Đặc biệt sau khi thực hiện chuyên đề
"Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm"
đã thu được kết quả rất cao. Bên cạnh đó việc dạy cho trẻ có những thói
quen nề nếp trong ăn uống là một việc làm vô cùng quan trọng trong việc
nuôi dạy giáo dục trẻ ở trường. Thông qua việc làm này đã góp phần giúp
trẻ có một thói quen tốt trong ăn uống, trong sinh hoạt, đồng thời giúp trẻ
1


phát triển, củng cố những tố chất vận động, sự khéo léo, tính kiên trì, kỷ
luật…. do đó góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách mới cho
trẻ. Nếu trẻ có một thói quen ăn uống xấu không những ảnh hưởng đến
ham muốn ăn uống mà còn ảnh hưởng đến sự hấp thụ dinh dưỡng cho nên
khi trẻ đến lớp, giáo viên nhất thiết phải chú ý, bồi dưỡng thói quen ăn
uống tốt cho trẻ từ nhỏ. Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Một số biện pháp

giúp trẻ từ 24 -36 tháng có thói quen tốt trong ăn uống”
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.

1. Đặc điểm chung.
Đầu năm lớp tôi có 30 trẻ - 2 giáo viên. Trong quá trình chăm sóc và
dạy trẻ chúng tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
a. Thuận lợi:
- Nhà trường đầu tư đầy đủ đồ dùng cơ sở vật chất phục vụ cho việc
chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Ban giám hiệu thường xuyên chỉ đạo sát xao việc
tổ chức chăm sóc, thực hiện quy chế chuyên môn.
- Bản thân tôi là một giáo viên tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm nhà trẻ
Mẫu giáo rất yêu nghề, mến trẻ, có nhiều kinh nghiệm chăm sóc và giáo dục trẻ.
- Phụ huynh rất nhiệt tình, quan tâm đến bữa ăn của trẻ.
b. Khó khăn:
- Lớp có 91% trẻ mới đi học lần đầu chưa có có ý thức, đa số trẻ
thích làm gì làm đấy, không có nề nếp trong mọi hoạt động.
- Trong giờ ăn trẻ còn có nhiều thói quen xấu. Bốc thức ăn gõ bát,
uống nước canh … hay còn ngậm cơm, kén chọn thức ăn..
- Một số phụ huynh nhận thức sai cho rằng: Trẻ quá nhỏ để đưa vào
nề nếp và cần phải cho trẻ ăn những thứ trẻ thích miễn sao ăn nhiều. Đặc
biệt giữa pH chưa có sự phối hợp cùng giáo viên để dạy trẻ có một thói
quen trong ăn uống.
Xuất phát từ thực trạng này một lần nữa tôi khẳng định nhất thiết
phải đưa ra một số biện pháp: "Giúp trẻ có thói quen tốt trong ăn uống”
2


2. Một số biện pháp.
Biện pháp 1: Ăn uống đúng vị trí, thời gian, số lượng, sắp xếp hợp lý số
bữa ăn mỗi ngày.

*Biện pháp này rất quan trọng vì như thế khi ốm bé hình thành phản
xạ có điều kiện, đến giờ ăn nhất định, vị trí môi trường đã định, thì đại não
sẽ chỉ huy các cơ quan tổ chức toàn thân làm tốt công việc chuẩn bị vào
bữa tiếp thu thức ăn.
VD: Tiết nước bọt tăng, đường dạ dày bắt đầu nhu động, các loại men tiêu
hoá do đường tiêu hoá tiết ra tăng lên, khiến bé tăng cảm giác đói. Có được
chuẩn bị về tâm lý, sinh lý này thì bé có thể ăn được một cách chủ động ăn
chăm chú, ngon miệng.
* Để biện pháp này có hiệu lực quả của tôi đã biết phối hợp với giáo
viên trong lớp nghiêm túc thực hiện chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ
(không cắt xén, thay đổi tùy tiện) thực hiện đúng thời gian ăn theo quy
định. Có như thế mới tạo cho trẻ thói quen tốt giờ nào việc ấy. Bên cạnh đó
tôi còn phối hợp các cô giáo trong tổ nuôi còn phối hợp tuyên truyền với
pH để có những ngày nghỉ ở nhà pH cũng làm theo thời gian biểu ở lớp. Có
như vậy quá trình rèn luyện của trẻ mới không bị ngắt quãng, ngắt giai
đoạn. Việc làm này đã làm tăng sự gần gũi giữa gia đình và lớp trong việc
tạo nên thói quen tốt cho trẻ.
Biện pháp 2: Động viên trẻ tự xúc ăn, cố gắng tập cho trẻ sớm sử dụng
thìa, đũa để nâng cao hứng thú ăn cho bé.
Thật vậy, cứ đến bữa ăn của gia đình mà trẻ được ngồi cùng mâm,
cũng có bát thìa để ăn thì bé thích lắm, chúng luôn tay sử dụng thìa để xúc
cơm, thức ăn (mặc dù được ít). Một số phụ huynh sự con bẩn nên không
cho trẻ dùng bát thìa hoặc tự xúc như vậy vô tình chúng ta đã kìm hãm
ham muốn ăn uống của trẻ. Để trẻ tập xúc ăn còn khi ăn nên xới cho trẻ
một ít ăn trước, ăn hết lại xới thêm, để tăng thêm lòng tin ăn uống cho bé.
Tránh ép bé ăn, để tránh sinh ra bực bội mà trẻ chán ăn.
3


- Phối hợp với giáo viên trong lớp cùng dạy trẻ, kiên trì như hướng

dẫn trong giờ ăn.
- Kết hợp với phụ huynh khi về nhà cũng dạy trẻ tập xúc ăn như ở
lớp. Có như vậy việc dạy trẻ của cô giáo mới có kết quả cao.
VD: Khi dạy trẻ tập xúc cơm cô nói con cầm thìa xúc cơm thật khéo như
vậy tay con dẻo như diễn viên múa, mai sau con sẽ múa dẻo, đẹp và được
đi biểu diễn ở nhiều nơi được nhiều người biết đến và yêu quý.
Biện pháp 3: Tạo không khí vào bữa ăn nhẹ nhàng, vui vẻ, khiến bé
giữ được tình cảm vui vẻ, yên tĩnh nhẹ nhõm.
Cũng như người lớn việc tạo cảm giác thiếu thú trước khi ăn là vô
cùng quan trọng, không thể thiếu được vì nếu trước bữa ăn mà buồn, chán
thì trong suốt bữa ăn đó trẻ cũng không vui vẻ luôn ở trạng thái uể oải,
không tập trung. Do đó trước giờ ăn tôi thường kể cho trẻ nghe những câu
truyện vui, liên quan đến cách ăn uống mang tính giáo dục cao hoặc cho
trẻ đọc thơ, hát vui vẻ. Không những thế trong lúc còn tôi cùng giáo viên
trong lớp luôn dùng lời lẽ nhẹ nhàng động viên khen ngợi kịp thời mỗi khi
trẻ ăn ngoan, nghe lời cô. Và cũng như vậy tôi tuyên truyền tới từng phụ
huynh về cách làm này để phụ huynh hưởng ứng và giúp đỡ cô thêm những
lúc ở nhà.
Biện pháp 4: Các biện pháp khác
* Vận động phụ huynh cố gắng cho con ăn ít thậm chi không ăn quà
vặt, ít ăn ngọt.
Những bé thường xuyên ăn quà hoặc đồ ngọt thì thường thiếu cảm
giác đói, không thèm ăn. Hơn nữa đường tiêu hoá cứ ở trạng thái làm việc
không có cơ hội nghỉ ngơi, dễ xuất hiện công năng đường tiêu hoá rối
loạn.
- Theo thực tế ở lớp tôi đầu năm học các cháu thường hay mang quà
bánh đến lớp phần lớn là kẹo, bim bim, bánh ngọt….

4



- Mặt khác được phụ huynh trao đổi là ở nhà cháu lười ăn, thời gian
ăn quá dài từ 1,5h - 2h /bữa.
- Đến giờ ăn ở lớp trẻ ăn rất ít phần lớn là ngậm cơm, bỏ xuất.
Nắm được tình hình này tôi đã trao đổi với phụ huynh, vận động phụ
huynh phối hợp cùng cô giáo dạy trẻ.
+ Bước đầu tôi yêu cầu phụ huynh không cho con mang quà vào
lớp, cô giáo tìm hình thức khác nhau để dỗ trẻ như: trò chuyện chơi cùng
trẻ như một người bạn, gần gũi trao đổi để đáp ứng nhu cầu chơi mà học
của trẻ.
+ Kéo dài giờ ăn hơn đối vớit trẻ ăn chậm, lười ăn.
VD. Đối với những trẻ ăn bình thường với tiêu chuẩn 2 bát cơm/ 1 bữa
nhưng với những trẻ lười ăn, cũng tiêu chuẩn đó tôi chia ra làm những phần
nhỏ để trẻ ăn ít một, hết lại lấy thêm. Trong khi ăn, tôi còn động viên trẻ
kịp thời nói cho trẻ biết nếu ăn ngoan, hết xuất rẽ rất xinh học giỏi được cô
yêu… Truy trẻ ăn hơi lâu hơn các bạn tôi không hề thúc giục mà cứ để trẻ ăn
từ từ nhai kỹ nhưng có những khích lệ kịp thời để trẻ ăn nhanh hơn bạn khác.
+ Phân công giáo viên phụ trách từng trẻ lười ăn, ăn chậm từ đó nắm
được đặc điểm riêng cá tính của từng trẻ.
Đúng như vậy nhờ sự sát xao tới từng trẻ của từng cô giáo trong lớp
mà tôi đã biết được cá tính riêng của từng trẻ và kịp thời điều chỉnh.
VD: Cháu Long hay ngậm cơm, nhả bã thịt, cháu Trung hay uống nước
canh, cháu Chi chỉ ăn được một miếng cơm rất bé..
Đối với những cháu này trước giờ ăn tôi thường kể cho trẻ nghe một
số câu chuyện nói về các bạn có những nết ăn cháu trong lớp qua đó giáo
dục trẻ.
Bên cạnh đó tôi còn hướng dẫn phụ huynh cách chăm sóc con ở nhà
(những ngày nghỉ hoặc buổi chiều về) .
VD: Tôi đưa tới tận tay từng phụ huynh có con lười ăn chế độ sinh hoạt
một ngày của trẻ đặc biệt nhấn mạnh giờ ăn các buổi cho phụ huynh rõ.

5


Đồng thời tôi cung cấp cho phụ huynh những tài liệu nói về TD của hoa
quả đối với bữa ăn của trẻ như thế nào và thời điểm nào cho trẻ ăn hoa quả
là hợp lý nhất.
Bằng nhiều hình thức trên tôi đã được phụ huynh phản ánh là nhờ sự
giúp đỡ hướng dẫn của cô giáo mà kết quả các bữa ăn của con tôi ở nhà có
tiến bộ rõ rệt  trong bữa ăn trẻ ăn được nhiều hơn.

* Tạo môi trường lớp học phong phú
- Luôn tạo môi trường lớp học phong phú với những mảng từng gây sự tò
mò cho trẻ đặc biệt là những bức tranh về ăn uống. Do đó giáo dục trẻ liên
hệ thực tế trong bữa ăn của mình.

6


Ảnh minh hoạ tạo môi trường lớp học
Ví dụ : Trong chủ điểm gia đình tôi trang trí lớp bằng những tranh ngộ
nghĩnh đang ngồi ăn rất ngoan , hay ở chủ điểm thực vật tôI lại trang trí lớp
bằng những bức tranh rau hoa quả đẹp có màu sắc cư bản hấp dẫn trẻ.
Chính vì vậy đã góp phần giáo dục trẻ rất tốt trong bữa ăn.

* Xây dựng góc tuyên truyền của lớp :
Nội dung tuyên truyền thay đổi theo mùa đặc biệt là rất phong phú về nội
dung các bài, gần gũi với cuộc sống. Qua đó đã giúp phụ huynh hiểu rõ hơn
tầm quan trọng của bữa ăn đối với trẻ về mọi mặt (chất lượng - số lượng)
và bổ sung thêm kiến thức về nuôi dạy con.


7


Ảnh minh hoạ góc tuyên truyền lớp

* Phối hợp với nhà trường :
Tuyên truyền trên loa truyền thanh của trường những bài nói về dinh
dưỡng, cách chăm sóc con hoặc những bài thuốc hay  củng cố thêm kiến
thức cho phụ huynh, từ đó một lần nữa cô giáo trong trường cũng được học
tập và hiểu thêm về nhiệm vụ, công việc nuôi dạy trẻ. Sau đây là một số bài
viết minh hoạ:

Bài 1: Vì sao trẻ biếng ăn?
Rất nhiều bà mẹ trẻ bày tỏ sự băn khoăn không hiểu tại sao con
mình biếng ăn, mặc dù bản thân đã cố gắng hết sức để chăm bẵm con và
đã chú ý cho con ăn đa dạng, đầy đủ, thơm ngon.
1. Thức ăn không hợp khẩu vị, không hợp với lứa tuổi của trẻ.
Một số ông bố bà mẹ cho rằng chỉ có một số loại thức ăn bổ và tốt
với trẻ như: Thịt, trứng, sữa, cá quả… và với niềm tin này, họ tích cực cho
cục cưng ăn các thức ăn bổ này hết ngày này qua ngày khác. Nếu cộng
thêm kiểu nấu lặp đi lặp lại thì việc trẻ biếng ăn là điều dễ hiểu.
Thực tế, trẻ cần ăn đa dạng các loại thức ăn, vì khi phối hợp nhiều
loại thực phẩm, chúng sẽ hỗ trợ cho nhau tạo nên khẩu phần cân đối, trẻ ăn
sẽ ngon miệng hơn, và dễ hấp thụ các chất dinh dưỡng hơn.
Ngoài thịt, trứng, sữa, phụ huyh nên cho trẻ ăn thêm đậu, đỗ vừng,
lạc, tôm, cua, lươn, rau xanh, quả chín… Khi trẻ còn bé từ 7-12 tháng thì
nấu bột, nấu cháo với các loại thức ăn đa dạng trong 4 nhóm thực phẩm
(đạm, béo, đường, vitamin và muối khoáng), nhưng khi trẻ lớn hơn (từ sau

8



12 tháng) đã có đủ răng cửa và một số răng hàm nếu trẻ chán ăn bột, cháo
thì có thể cho trẻ ăn bún, phở, mì… nếu với các thực phẩm đa dạng.
2. Trẻ bị ép sẽ ăn theo một chế độ cứng nhắc, tạo nên tâm lý sợ ăn.
Do tâm lý sợ con đói, con còi, nên khi thấy bé ănko hết bát bột, bát
cháo là nhiều bà mẹ cố nhồi, ép bé ăn cho đủ mỗi bữa. Nhiều lần như vậy,
bé sẽ đam ra chán và sợ ăn, dần dần hình thành phản xạ, nên cứ thấy bưng
thức ăn ra là không muốn ăn.
Chúng ta nên biết rằng khi trẻ có tâm lý thoải mái, vui thú, nhất là có
tâm lý ganh đua khi ăn thì kích thích các tuyến tiêu hoá, hoạt động, tăng bài
tiết men tiêu hoá giúp trẻ ăn ngon miệng hơn. Điều này lý giải tại sao nhà
con đàn "dễ nuôi" hơn con một.
Các ông bố, bà mẹ tạo nên điều kiện cho con mình hoà nhập với các
bạn cùng trang lứa trong vui chơi, sinh hoạt ăn uống để tạo cho trẻ có tâm
lý chia sẻ và ganh đua sẽ giúp trẻ thích ăn hơn.
3. Trẻ hay ăn uống vặt và không được ăn đúng bữa.
ăn các loại bánh kẹo, nước ngọt trước bữa ăn sẽ làm tăng đường
huyết và gây cảm giác "no giả tạo" nhưng thực chất là trẻ vẫn đói và vẫn bị
nhiễm dinh dưỡng. Do vậy, chỉ cho trẻ ăn, uống đồ ngọt sau bữa ăn với số
lượng hạn chế. Nên cho trẻ ăn đúng giờ giấc mỗi ngày.
4. Nhiễm ký sinh trùng đường ruột.
Trẻ bị nhiễm ký sinh trùng đường ruột như giun đũa, giun móc, giun
kim… thường chán ăn và gầy yếu, xanh xao. Nên tẩy giun cho trẻ theo định
kỳ 6 tháng một lần và giữ vệ sinh trong ăn uống, nơi ở cho trẻ.
5. Thiếu một số vitamin.
Các vitamin A,B,C… và một số yếu tố vi lượng (sắt, kẽm…) tham
gia hình thành các men tiêu hoá và quá trình chuyền hoá, hấp thu thức ăn.
Các chất dinh dưỡng này có trong thức ăn động vật (thịt, trứng, cá …) và
thức ăn thực vật (đỗ, đậu, rau quả và ngũ cốc) nhưng do trẻ lười ăn, ăn ít

hoặc ăn kiêng, nên bị thiếu.
9



×