SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO
HỌC SINH YẾU MÔN TOÁN LỚP 4
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh của đề tài:
- Chương trình toán lớp 4 là một bộ phận của chương trình môn toán ở tiểu
học là sự kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy toán 4 ở nước ta. Thực
hiện đổi mới cấu trúc nội dung và phương pháp dạy học, mục tiêu chương trình
toán lớp 4, yêu cầu giáo viên trang bị cho học sinh một số chuẩn kiến thức và kỉ
năng cơ bản để các em áp dụng kiến thức và kỹ năng vào học tập và cuộc sống .
-Năm học 2009 -2010 tôi được phân công dạy lớp 4. Đầu năm nhận lớp
qua khảo sát chất lượng, tôi đã phát hiện một số em còn yếu toán tiếp thu bài quá
chậm không nắm được kiến thức cơ bản. Các em còn lơ là trong việc học toán
ảnh hưởng đến giờ học của các em trong thời gian kế tiếp .
Để các em nâng dần chất lượng học tập và hứng thú khi học toán thực hiện
tốt chỉ tiêu được giao. Để các em nắm được các kiến thức cơ bản về kiến thức và
kỹ năng toán 4 tạo điều kiện cho các em học tốt môn toán, nắm vững những kiến
thức cơ bản cần thiết để tiếp tục học toán ở lớp trên. Vì vậy tôi quyết định chọn
đề tài: Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu môn toán lớp 4.
II.Lý do chọn đề tài:
-Việc nắm vững kiến thức toán một cách liên tục và có hệ thống là cần
thiết để học sinh học tốt môn toán
-Thế nhưng thực tế còn một số học sinh nắm không đầy đủ lượng kiến thức
đã học. Vì vậy việc tiếp thu kiến thức mới và vận dụng kiến thức cũ vào làm bài
tập gặp rất nhiều khó khăn
-Do đó việc lắp chỗ hỏng kiến thức toán giúp học sinh nắm một cách có hệ
thống kiến thức toán theo chuẩn kiến thức kỹ năng qui định là cần thiết.
Đó chính là lý do tôi chọn nghiên cứu đề tài này.
2
III.Phạm vi và đối tượng nghiên cứu :
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu là học sinh yếu môn toán ở lớp 4 trường
tiểu học Khánh Thạnh Tân 2 năm học 2009 -2010
IV.Mục đích nghiên cứu :
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy còn rất nhiều học sinh khi học bài mới
nhưng nhũng kiến thức cũ có liên quan thì không nắm được, chẳng hạn:
Khi học phép cộng, phép trừ số có nhiều chữ số nhưng các em chưa biết
đặt tính sao cho các chữ số “Cùng hàng phải thẳng cột”, Học phép nhân nhưng
các em không thuộc bảng nhân, học chia cho số có 2,3 chữ số các em lại chưa
thạo chia cho số có 1 chữ số…
Có những em nắm được nội dung lý thuyết nhưng khi vận dụng thực hành
lại không áp dụng được, dẫn đến các em chán nản trong giờ học toán
Tôi chọn đề tài nghiên cứu này nhằm giúp học sinh yếu môn toán nắm kiến
thức ngày càng vững vàng hơn, hăng say trong giờ học toán nâng cao chất lượng
giảng dạy và làm nền tảng vững chắc cho các lớp trên
V.Điểm mới trong kết quả nghiên cứu :
-Điểm mới trong kết quả nghiên cứu đề tài này là sự lựa chọn phương pháp
dạy học toán phù hợp với học sinh yếu qua từng dạn bài
3
B.PHẦN NỘI DUNG:
I.Cơ sở lý luận:
Dựa trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu về các phương pháp dạy học toán ở
tiểu học. Đặc biệt là chuẩn kiến thức kỹ năng mà học sinh cần đạt được sau giờ
học toán, những kiến thức có trong bài học, tham khảo sách hướng dẫn và một số
tài liệu bồi dưỡng trong chương trình toán ở tiểu học Bên cạnh đó còn có sự đúc
kết kinh nghiệm của bản thân qua thực tế phụ đạo học sinh yếu môn toán thời
gian qua .
II.Thực trạng của vấn đề:
1/ Khó khăn:
-Đa số gia đình các em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cho nên ít quan
tâm đến việc học của con em mình, đa số học sinh điều trông cậy vào giáo viên
đứng lớp.
-Một số em nhà ở quá xa trường nên việc đi lại cũng hết sức khó khăn
-Trình độ học sinh không đều nhau
-Hụt hẫng kiến thức từ lớp dưới
2/ Thuận lợi:
-Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu
-Giáo viên nhiệt tình trong công tác giảng dạy, chịu khó tìm tòi phương
pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh, áp dụng tốt phương pháp cá
biệt qua từng đối tượng học sinh
-Quan tâm đến học sinh, chăm sóc đặc biệt đến các đối tượng yếu kém
3/ Nguyên nhân dẫn đến các em học chưa tốt bộ môn toán:
-Do sự chú ý, óc quan sát, trí tưởng tượng đều phát triển chậm khi phân
tích tổng hợp thường dựa vào các dấu hiệu dễ thấy bên ngoài, khó phân biệt được
các dấu hiệu bản chất của bài tập khả năng phân tích tổng hợp kém, phát triển
chậm .
4
-Hoạt động tư duy kém linh hoạt, các em gặp khó khăn khi chuyển từ hình
thức thao tác tư duy này sang hình thức tư duy khác. Lý thuyết sang thực hành
vào bài toán cụ thể .
-Sự phát triển nhận thức của học sinh cùng lứa tuổi không đều trong hoạt
động tư duy. Có những nét riêng với từng em, việc lĩnh hội kiến thức trước đó
không đầy đủ, thiếu vững chắc, thái độ học toán của các em chưa tốt. Các em
không thích môn toán vì khô khang không hình ảnh như những môn học khác.
-Hoạt động tư duy kém sử dụng ngôn ngữ toán học còn lúng túng nhiều
chỗ lẫn lộn.
-Không hệ thống được lượng kiến thức đã học
-Không vận dụng được kiến thức của bài trước cho bài sau
-Các em học yếu tính chậm, chủ yếu dựa vào trực quan hoặc lời gợi ý, góp
ý của giáo viên mới tính được, hoặc nhớ bài một cách máy móc.
-Đặt tính chưa đúng
-Từ việc lĩnh hội kiến thức thiếu vững chắc đó, các em có thái độ thờ ơ với
việc học không chịu cố gắng ngại khó thiếu tự tin thụ động chán nản trong học
tập.
III. Biện pháp thực hiện để giải quyết vấn đề
-Vào những ngày đầu năm học, giáo viên theo dõi từng học sinh trong quá
trình học tập và kết quả khảo sát phát hiện ra các em học yếu toán, cộng , trừ,
nhân, chia sai tính toán chậm và không nắm cách tính. Tìm hiểu lý do học yếu
từng em, sau đó liên hệ với gia đình học sinh đề ra kế hoạch phụ đạo phù hợp .
Ngay sau khi khảo sát chất lượng của lớp đầu năm, giáo viên đã theo sát
lớp tìm hiểu kĩ từng đối tượng. Sau 2 tuần lễ, giáo viên lên kế hoạch phụ đạo học
sinh yếu toán, giúp các em nhớ lại các kiến thức đã hỏng dần dần giúp các em lắp
lại chổ hỏng kiến thức, nắm chắc kiến thức cơ bản đã học để các em tiếp tục học
tốt trong thời gian còn lại.
5
Cụ thể tôi lập danh sách tất cả những học sinh yếu và tổ chức cho các em
học phụ đạo trái buổi, Tôi ôn lại những kiến thức cũ có liên quan đến nội dung
những bài học sẽ học trong tuần kế tiếp và đồng thời cho các em thực hành lại
những kiến thức dã học ở tuần qua bằng cách cho những bài tập vừa sức với học
sinh
Chẳng hạn: trước khi học phần phép chia, tôi ôn cho học sinh về phép chi cho số
có 1 chữ số, đồng thời ôn lại bảng chia nhằm giúp các em dễ dàng ước lượng tìm
thương của phép chia với số có 2,3 chữ số
-Do là học sinh yếu nên việc hiểu và nhớ của các em còn chậm và mau
quên . Các kiến thức cũ phải được giáo viên cũng cố lại nhiều lần khi có liên
quan đến nội dung bài mới, giúp các em biết được mối liên hệ, biết phân biệt, biết
được sự chuyển tiếp giữa các dạng nội dung với nhau. Chẳng hạn phải cho học
sinh thấy rõ sự khác biệt của các dạng toán có mối liên quan với nhau. Tìm 2 số
khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó.: Tìm 2 số khi biết hiệu tỉ số của 2 số đó :Tìm 2
số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó :Bằng cách cho xem 3 đề toán thuộc 3 dạng
này và chỉ rõ sự khác nhau giữa chúng
-Trong từng mạch kiến thức giáo viên cần cốt lại cách thực hiện bằng lời
nói đơn giản, dễ hiểu, “Nôm na”nhằm khắc sâu kiến thức. Nói rõ hơn đó là giúp
học sinh thấy rõ cách nhớ của từng đơn vị kiến thức.
* Ví vụ:
+ Để nắm cách tìm thành phần chưa biết của phép tính: Số bị chia và số
chia, thừa số, số hạng, số trừ và số bị trừ không bị lẫn lộn, ta có thể cho học sinh
nắm cách nhận biết đơn giản nhất: Thực hiện tính trừ cho số trừ, thực hiện tính
chia cho từng số chia (Tìm các thành phần còn lại; tìm số bị trừ ; thực hiện cộng,
tính nhân khi tìm số bị chia…)
+ Đổi đơn vị: từ đơn vị lớn đổi ra đơn vị nhỏ hơn: ta thực tính nhân
6
(2kg =….g . Ta có: 2 x 1000 = 2000 g ) và ngược lại từ đơn vị nhỏ đổi ra
đơn vị lớn ta thực iện tính chia (chẳng hạn: 36000 kg = …..tấn, ta có: 36000:
1000 = 36 tấn
-Trong quá trình dạy, giáo viên luôn tìm ra các phương pháp giảng dạy
thích hợp, có trọng tâm, bằng phương pháp trực quan sinh động , giảng dạy vấn
đáp, chơi trò chơi toán học, thi đua tập ra đề toán, trò chơi tiếp sức … phối hợp
đang xen nhau tạo hứng thú cho các em tiếp thu bài tốt hơn
Khi phụ đạo về phép chia ở 1,2 tiết đầu tôi cho các em làm việc nhóm đôi,
tôi quan sát thấy nhóm nào thực hiện chia tốt sẽ cho các em làm việc cá nhân.
Đôi lúc tổ chức cho các em thi đua thực hiện phép chia, đố vui về bảng nhân
bảng chia. Hay khi dạy về đơn vị đo thời gian giây tôi cho học sinh quan sát sự
chuyễn động trên mặt đồng hồ có 3 kim và nêu khoảng thời gian kim giây đi từ
một vạch nhỏ đến vạch nhỏ liền kề là 1 giây, khoảng thời gian kim giây đi hết
một vòng trên đồng hồ là 60 giây tức là 1 phút, và giới thiệu 1 phút bằng 60 giây
-Khi giảng dạy giáo viên chú ý theo dõi học sinh kém, khuyến khích các
em học tập tích cực phát biểu ý kiến. Đặc những câu hỏi dễ, cho những bài tập
vừa sức Đối với mục tiêu quan trọng cơ bản của tiết học, giáo viên thường xuyên
gọi các em yếu thực hành nhiều hơn. Có thể chẻ nhỏ bài tập hoặc cho thêm nhiều
bài tập trắc nghiệm với mức độ yêu cầu vừa sức với các em, giúp các em khắc
phục tính ngại khó, giúp các em hiểu các thuật ngữ, cách suy luận, chỉ rõ những
kiến thức quan trọng cần khắc sâu, cần nhớ kỷ.
-Kích thích động viên đúng lúc khi các em có tiến bộ hay đạt được một số
kết quả. Đồng thời phân tích chỉ cho các em chỗ sai nếu có, phê phán đúng mức
thái độ lơ là khi học, tránh nói chạm lòng tự ái học sinh.
-Điều quan trọng cần nói đến nữa là giáo viên cần tạo không khí cởi mở,
tạo tình cảm thân thiện, gần gũi, tránh sự nặng nề, tạo áp lực cho các em để các
em cảm thấy thích học, để dần dần thay đổi về “chất”.
7