Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ kết hợp KINH tế với QUỐC PHÒNG TRÊN địa bàn TỈNH hà TĨNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.36 KB, 112 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề có tính quy luật khi xã hội còn
tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp. Sự kết hợp này nảy sinh từ mối quan hệ giữa
kinh tế với các yếu tố quân sự, quốc phòng, chiến tranh. Kết hợp kinh tế với quốc
phòng là hiện tượng phổ biến đối với mỗi quốc gia, dân tộc độc lập có chủ quyền.
Trên thế giới, các nước khác nhau, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội, quy
mô lớn hay nhỏ, trình độ phát triển như thế nào cũng đều quan tâm, chăm lo thực
hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng. Tuy nhiên, trong những điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể, trong từng giai đoạn phát triển của mỗi nước thì mục đích, nội dung và
phương thức thực hiện sự gắn kết đó không hoàn toàn giống nhau.
Đối với nước ta, kết hợp kinh tế với quốc phòng là sự kế tục quy luật
“dựng nước đi đôi với giữ nước” trong lịch sử dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta luôn xác định kết hợp kinh tế với quốc phòng là một chủ
trương lớn, một phương thức hiệu quả nhất để xây dựng và bảo về Tổ quốc. Chủ
trương đó đã và đang được hiện thực hoá và thực tiễn đã chứng minh, đây là chủ
trương hoàn toàn đúng đắn, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
từng thời kỳ. Hiện nay, trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới đang diễn
biến phức tạp, khó lường; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, cạnh tranh kinh tế
ngày càng gay gắt, quyết liệt, cơ hội và thách thức đan xen nhau. Tình hình đó
cho thấy việc thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng lại có ý nghĩa càng quan
trọng, sự kết hợp ấy là một phương thức góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Hà Tĩnh là một tỉnh có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên rất đặc thù về phát
triển kinh tế và củng cố quốc phòng. Trong những năm qua, mặc dù Tỉnh đã có
nhiều nỗ lực thực hiện chủ trương phát triển kinh tế kết hợp với củng cố quốc
phòng - an ninh, góp phần ổn định xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Song,
những năm gần đây, thực hiện chủ trương phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN và hội nhập quốc tế, trên địa bàn Hà Tĩnh đã và đang phát triển
3




các Khu kinh tế lớn. Nhất là các hoạt động thu hút vốn đầu tư, liên doanh, liên
kết với các đối tác nước ngoài phát triển đang đặt ra yêu cầu mới về kết hợp kinh
tế với quốc phòng trên địa bàn Tỉnh. Vì vậy, việc nghiên cứu về “Kết hợp kinh
tế với quốc phòng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh” là cần thiết, có ý nghĩa thiết thực
cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước
ta đã được triển khai thực hiện trong nhiều năm, nên đã có nhiều công trình
khoa học nghiên cứu các nội dung liên quan về vấn đề này. Những công trình
đó là căn cứ khoa học quan trọng, góp phần làm cơ sở cho hoạch định chủ
trương kết hợp phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng ở nước ta. Điển
hình trong số đó có các công trình như sau:
* Những công trình khoa học nghiên cứu về kết hợp kinh tế với quốc
phòng trên phạm vi cả nước
Trần Trung Tín (1998), Kết hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta hiện
nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội [54]. Luận án đã góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận kết hợp kinh tế với
quốc phòng trong thời kỳ mới ở Việt Nam; trong đó đã làm rõ mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng. Trên cơ sở đó đề xuất một số
giải pháp mang tính định hướng ở tầm vĩ mô nhằm nâng cao hiệu quả kết hợp
kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam. Tuy nhiên, luận án chưa đi sâu nghiên
cứu kết hợp kinh tế với quốc phòng trên từng địa bàn cụ thể.
Phạm Văn Biểu (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với
quốc phòng và sự vận dụng của Đảng ta, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị,
Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội [3]. Tác giả đã tập trung luận giải nội
dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng và
sự vận dụng của Đảng ta về kết hợp kinh tế với quốc phòng trong các giai
đoạn cách mạng; đồng thời, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả kết hợp kinh

tế với quốc phòng ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4


Nguyễn Đức Độ - Chủ biên (2010), Một số vấn đề kết hợp kinh tế với
quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới, Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, Hà Nội [31]. Về lý luận, cuốn sách không chỉ đã luận giải, làm rõ quan
niệm kết hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta trong tình hình mới, mà còn
khái lược nhận thức kết hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta qua các thời kỳ.
Về thực tiễn, tác giả đã chỉ rõ nhân tố tác động, mục tiêu, phương thức và nội
dung kết hợp kinh tế với quốc phòng trong một số ngành, vùng, lĩnh vực chủ
yếu ở nước ta. Các vấn đề được luận giải ở công trình này là cơ sở lý luận và
thực tiễn rất quan trọng, có thể kế thừa, phát triển để nghiên cứu về kết hợp
kinh tế với quốc phòng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyễn Đức Độ - Chủ nhiệm (2012), Tổng kết hoạt động kết hợp kinh tế
với quốc phòng trong lịch sử dân tộc Việt Nam trước 1930, Viện Khoa học xã
hội nhân văn quân sự, Hà Nội [32]. Đề tài đã phân tích những chủ trương, hình
thức, biện pháp kết hợp kinh tế với quốc phòng trong lịch sử của dân tộc Việt
Nam từ khi lập nước đến năm 1930 (chủ yếu từ đầu thế kỷ X đến năm 1930).
Đặc biệt đề tài đã khái quát những bài học kinh nghiệm kết hợp kinh tế với
quốc phòng trong lịch sử dân tộc và định hướng vận dụng những bài học này
trong giai đoạn hiện nay.
Trần Đăng Bộ - Chủ nhiệm (2013), Tổng kết hoạt động kết hợp kinh tế
với quốc phòng ở Việt Nam giai đoạn 1930 - 1975, Viện Khoa học xã hội
nhân văn quân sự, Hà Nội [11]. Đề tài đã tập trung nghiên cứu chủ trương và
thực tiễn hoạt động kết hợp kinh tế với quốc phòng, trọng tâm là thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1975). Trên cơ sở đó
khái quát một số bài học kinh nghiệm về kết hợp kinh tế với quốc phòng giai
đoạn này và ý nghĩa của các bài học đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam trong tình hình mới.

Đặng Đức Quy - Chủ nhiệm (2014), Tổng kết hoạt động kết hợp kinh tế
với quốc phòng ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay, Viện Khoa học xã hội nhân
văn quân sự, Hà Nội [51]. Đề tài đã phân tích làm rõ những vấn đề về quan
5


điểm, chủ trương, nội dung và biện pháp kết hợp kinh tế với quốc phòng ở
Việt Nam từ năm 1975 đến nay. Trên cơ sở đó rút ra một số bài học kinh
nghiệm và định hướng vận dụng trong qúa trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
ở nước ta thời gian tới.
Trần Đăng Bộ (2013) “Kết hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề chiến
lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Tạp chí Công nghiệp
quốc phòng và kinh tế, số 4 [10]. Trong bài viết tác giả đã tập trung làm rõ kết
hợp kinh tế với quốc phòng là tất yếu khách quan, có tính quy luật của xã hội
còn tồn tại đối kháng giai cấp và đấu tranh giai cấp; Quân đội thực hiện hiệu
quả nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng là vấn đề
chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trần Xuân Trường - Nguyễn Anh Bắc (1980), Vấn đề kết hợp kinh tế
với quốc phòng ở nước ta, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội [59]. Các
tác giả đã khẳng định, vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng là một quy luật
phổ biến với các nước XHCN; phân tích, luận chứng làm rõ mối quan hệ, vai
trò ngày càng tăng của nhân tố kinh tế với chiến tranh và quốc phòng; đồng
thời, làm rõ tính quy luật; yêu cầu, phương thức, đặc điểm, mức độ, trình độ,
nội dung và giải pháp kết hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta.
Trần Thái Bình (2010), “Quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng, an ninh
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,
số 6 [4]. Bài viết làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng, an ninh;
khẳng định, vị trí đặc biệt quan trọng, tính tất yếu khách quan của mối quan
hệ này. Đồng thời, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp giải quyết tốt mối
quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng, an ninh trong suốt quá trình thực hiện hai

nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta. Tuy nhiên, công
trình này chưa đi vào nghiên cứu kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh ở
lĩnh vực hay ở từng địa phương cụ thể.
Dương Văn Minh - Chủ nhiệm (2012), Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an
ninh và đối ngoại ở Việt Nam trong tình hình mới, Viện Khoa học xã hội nhân
6


văn quân sự, Hà Nội [49]. Đề tài đã làm rõ quan niệm, nhân tố tác động, những
vấn đề đặt ra cần giải quyết và đề xuất quan điểm, giải pháp thực hiện kết hợp
kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam trong tình hình mới.
Trần Đăng Bộ (2011), “Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối
ngoại trong các văn kiện Đại hội XI của Đảng” Tạp chí Quốc phòng toàn dân,
số12 [8]. Bài viết đã chỉ rõ: sự kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối
ngoại là một trong các nguồn lực tạo thành sức mạnh quốc gia; là sự kết hợp
của nhiều yếu tố và phải được triển khai thực hiện với hệ thống các giải pháp
đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Tuy nhiên, công trình trên chưa
đi vào nghiên cứu kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại gắn với
từng địa phương cụ thể.
* Những công trình khoa học nghiên cứu về kết hợp kinh tế với quốc
phòng ở phạm vi ngành, lĩnh vực
Phạm Đức Nhuấn (2002), Xây dựng tiềm lực kinh tế quân sự Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quân sự, Hà
Nội [50]. Luận án đã đề cập tới việc xây dựng tiềm lực kinh tế quân sự Việt Nam
luôn gắn với tiềm lực kinh tế; tiềm lực khoa học kỹ thuật của xã hội; tiềm lực kinh
tế quân sự là cơ sở nền tảng cho KT - XH. Sự phát triển về kinh tế quân sự có ý
nghĩa trực tiếp cho sự phát triển quốc phòng, an ninh và xét trên một phương diện
khác, nó là động lực cho sự phát triển trên các mặt của đời sống xã hội.
Trần Đăng Bộ (2012), Một số vấn đề cơ bản về kết hợp công nghiệp
quốc phòng với công nghiệp dân dụng ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản

Chính trị quốc gia, Hà Nội [9]. Trên cơ sở làm rõ quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về kết hợp kinh tế với
quốc phòng, tác giả đã luận giải sâu sắc những vấn đề lý luận và thực tiễn về
kết hợp công nghiệp quốc phòng với cônng nghiệp dân dụng; trên cơ sở đó đề
xuất quan điểm và giải pháp tăng cường kết hợp công nghiệp quốc phòng với
công nghiệp dân dụng ở nước ta trong thời gian tới.

7


* Những công trình khoa học nghiên cứu về kết hợp kinh tế với quốc
phòng ở phạm vi vùng, lãnh thổ và cấp tỉnh, thành phố
Cấn Văn Lực (2006), Phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và
tác động của nó đối với việc xây dựng tiềm lực quốc phòng trên địa bàn Quân
khu 7. Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quân sự [47]. Luận án đã chỉ
ra cơ sở lý luận, thực tiễn, những giải pháp phát triển khu vực kinh tế trọng
điểm phía Nam và sự tác động tích cực của nó tới quốc phòng, an ninh. Ngoài
ra, tác giả làm rõ mối quan hệ kinh tế với quốc phòng, an ninh gắn với những
đặc thù của địa bàn Quân khu 7.
Quốc Toản, Mạnh Hùng, Mạnh Dũng (2008), “Kết hợp phát triển kinh
tế biển với tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong
tình hình mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 10 [58]. Bài viết khẳng định
kinh tế biển, quốc phòng, an ninh trên biển vừa là vấn đề cơ bản lâu dài, vừa
là vấn đề sống còn đối với nước ta; đồng thời, là vấn đề nóng bỏng hiện nay.
Bài viết đề cập tới thực trạng kinh tế biển, quốc phòng, an ninh biển và những
vấn đề đặt ra; trên cơ sở đó đề xuất hệ thống biện pháp góp phần gìn giữ hoà
bình và phát triển kinh tế đất nước.
Lê Nhị Hòa (2013), Kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng ở
Tây Nguyên giai đoạn 1996 - 2010, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội [40].
Cuốn sách đã phân tích những vấn đề lý luận về kết hợp phát triển kinh tế với bảo

đảm quốc phòng; làm rõ quan điểm, chủ trương của Đảng, các nhân tố ảnh hưởng
và quá trình kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng ở Tây Nguyên
giai đoạn 1996 - 2010; rút ra một số kinh nghiệm về sự kết hợp đó ở Tây Nguyên.
Phạm Bằng Luân (2007), Phát triển kinh tế trang trại và vai trò của nó đối
với xây dựng tiềm lực quốc phòng các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc, Luận án
tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội [46]. Luận án đã trình bày khá
hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế trang trại; đồng
thời phân tích làm rõ vai trò của kinh tế trang trại đối với xây dựng tiềm lực quốc
phòng gắn với một địa bàn cụ thể. Đây là một trong những đóng góp mới của luận
8


án, tuy nhiên, kinh tế trang trại chỉ là một bộ phận nhỏ trong lĩnh vực nông
nghiệp, chưa phán ánh đầy đủ vấn đề kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng.
Vũ Văn Tài (2010), Nghiên cứu xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng
trên biên giới phía Bắc, Luận án tiến sĩ, Học viện Quốc phòng [53]. Tác giả
đã đề cập tới những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng các khu kinh tế quốc phòng trên biên giới phía Bắc; khẳng định những kết quả bước đầu đạt
được, có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong việc điều chỉnh lại dân cư, xây
dựng thế trận quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh phát triển KT - XH. Đồng thời
đề xuất một số giải pháp sát thực, khả thi cho việc xây dựng các khu kinh tế quốc phòng trên biên giới phía Bắc.
Bùi Thị Quỳnh Thơ (2015), “Một số giải pháp thu hút đầu tư vào Hà
Tĩnh”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số chuyên đề, 8/2015 [57]. Tác giả đánh
giá thành tựu, hạn chế hoạt động thu hút đầu tư ở Hà Tĩnh thời gian qua; đề
xuất những giải pháp đồng bộ, tạo cơ chế nhằm thu hút, quản lý có hiệu quả
các dự án đầu tư ở Hà Tĩnh thời gian tới.
Nguyễn Xuân Bé (2016), “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực - Nội
dung quan trọng trong nhiệm vụ đột phá của tỉnh Hà Tĩnh hiện nay”, Tạp chí
Cộng sản, số 5/ 2016 [2]. Bài viết khẳng định xây dựng và phát huy nguồn
nhân lực trong điều kiện CNH, HĐH và hội nhập quốc tế đối với một tỉnh mà
điểm xuất phát thấp như Hà Tĩnh là nhiệm vụ hết sức khó khăn. Do đó, việc

thực hiện đồng bộ và thống nhất các giải pháp trong toàn bộ hệ thống chính trị
từ tỉnh tới cơ sở là yếu tố cốt lõi cho sự thành công trong quá trình thực hiện
các nhiệm vụ đột phá mà Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XVIII đã đề ra.
Trần Tiến Dũng (2011), “Lực lượng vũ trang Hà Tĩnh phát huy vai trò
nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương”, Tạp chí
Quốc phòng toàn dân, số 8/2011 [17]. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu,
hạn chế của lực lượng vũ trang tỉnh Hà Tĩnh trong những năm gần đây, tác
giả nhấn mạnh vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang Tỉnh trong thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương trong tình hình mới.
9


Võ Kim Cự (2014), “Hà Tĩnh thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trong
tình hình mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 3/2014 [16]. Tác giả khẳng
định quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh về phát triển KT - XH theo hướng an toàn,
bền vững gắn với tăng cường tiềm lực QP-AN, bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm môi
trường cả trên biên giới, ven biển, biển đảo.
Trần Văn Sơn (2015), “Lực lượng vũ trang Hà Tĩnh trong đấu tranh giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ quê hương”, Trang thông tin điện tử Đảng
bộ tỉnh Hà Tĩnh - , 08:40:46 ngày 01/9/2015 [52]. Bài viết
đã khái quát về truyền thống của lực lượng vũ trang Hà Tĩnh trong kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; những kết quả đạt được trong
phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”; trong phòng, chống và khắc
phục hậu quả thiên tai. Đồng thời tác giả nhấn mạnh để phát huy truyền thống
và những thành tựu đạt được, lực lượng vũ trang Hà Tĩnh không ngừng phấn
đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong tình hình mới.
Như vậy, các công trình khoa học trên đây đã nghiên cứu, luận giải khá
sâu sắc và toàn diện, cả lý luận và thực tiễn kết hợp kinh tế với quốc phòng,
song chưa có công trình nào nghiên cứu một cách riêng biệt về kết hợp kinh tế
với quốc phòng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài này

là hoàn toàn mới, không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn kết hợp kinh tế với quốc phòng trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp đẩy mạnh
kết hợp kinh tế với quốc phòng thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải cơ sở lý luận về kết hợp kinh tế với quốc phòng trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh;
- Khảo sát, đánh thực trạng kết hợp kinh tế với quốc phòng trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh từ 2010 đến 2015;
10


- Đề xuất quan điểm và giải pháp đẩy mạnh kết hợp kinh tế với quốc
phòng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Kết hợp kinh tế với quốc phòng.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu kết hợp kinh tế với quốc phòng.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu sự kết hợp trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Phạm vi thời gian: Luận văn tập trung phân tích, nghiên cứu, khảo sát
số liệu từ năm 2010 đến 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề về lý luận và thực
tiễn kết hợp kinh tế với quốc phòng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
* Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính
trị Mác - Lênin: phương pháp trừu tượng hóa khoa học; kết hợp với các
phương pháp lôgic, lịch sử, phân tích, tổng hợp và một số phương pháp khác:
thống kê, sử dụng hợp lý các tài liệu tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn được nghiên cứu thành công sẽ góp phần hệ thống hóa những
vấn đề lý luận và thực tiễn kết hợp kinh tế với quốc phòng trên địa bàn tỉnh
Hà Tĩnh. Đây là một trong những cơ sở khoa học cho việc hoạch định chủ
trương, chính sách kết hợp kinh tế với quốc phòng ở Hà Tĩnh thời gian tới.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm: phần Mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP KINH TẾ VỚI QUỐC PHÒNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH

1.1. Những vấn đề chung về kết hợp kinh tế với quốc phòng
1.1.1. Quan niệm về kết hợp kinh tế với quốc phòng
Kết hợp KT - XH với quốc phòng - an ninh ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay được hiểu là “sự gắn kết chặt chẽ hoạt động của các lĩnh vực kinh tế
- xã hội với quốc phòng - an ninh thành một thể thống nhất trên phạm vi cả
nước, trên từng vùng và từng địa phương, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý, điều hành của Nhà nước; các lĩnh vực chủ động gắn kết, bổ sung và
tạo điều kiện cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển, góp phần tạo nên sức
mạnh tổng hợp quốc gia để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
bảo đảm cho mục tiêu phát triển đất nước được thực hiện thắng lợi, chủ quyền

quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị - xã hội, lợi ích quốc gia dân tộc
luôn ở trong trạng thái tự bảo vệ và được bảo vệ” [6, tr. 862].
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là hoạt động có mục đích, được thực
hiện thông qua phương thức nhất định, do giai cấp nắm quyền lãnh đạo xã hội
tổ chức, quản lý nhằm gắn hoạt động kinh tế với hoạt động quốc phòng trong
một quá trình, làm cho mỗi hoạt động của xã hội đều dẫn đến sự mạnh lên của
kinh tế và quốc phòng; kinh tế phát triển sẽ là tiền đề vật chất, kỹ thuật để xây
dựng tiềm lực kinh tế quân sự và tăng cường sức mạnh quốc phòng; quốc
phòng vững mạnh sẽ là yếu tố bảo vệ và thúc đẩy kinh tế phát triển [9, tr. 9].
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là phạm trù khách quan, nảy sinh trong quan
hệ KT - XH nhất định. Sự kết hợp này phản ánh hoạt động chủ quan của nhà
nước trên cơ sở nhận thức quy luật KT - XH nhằm gắn kết chặt chẽ hoạt động
kinh tế và hoạt động quốc phòng trong một chỉnh thể thống nhất.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng diễn ra theo hai chiều, “kinh tế với quốc
phòng” và chiều ngược lại “quốc phòng với kinh tế”. Văn kiện Đại hội XI của
Đảng xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng,
12


an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT XH; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo” [25, tr. 234]. Văn kiện Đại
hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định và phát triển vấn đề trên: “Kết hợp chặt chẽ
kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo” [28, tr. 149].
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, hiểu theo một nghĩa nhất định, là nói
đến hoạt động kết hợp kinh tế với quốc phòng của lực lượng làm kinh tế, trên
cơ sở hoạt động kinh tế để đạt được mục đích quốc phòng, phát triển kinh tế
để tăng cường sức mạnh quốc phòng. Ngược lại, kết hợp quốc phòng với kinh
tế là nói đến hoạt động kết hợp quốc phòng với kinh tế của lực lượng vũ
trang, trên cơ sở hoạt động quân sự, quốc phòng để đạt được mục tiêu kinh tế,

xây dựng và phát triển kinh tế.
Như vậy, kết hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề có tính phổ biến
trong xã hội có giai cấp, nhà nước, quốc phòng và chiến tranh. Kết hợp kinh tế
với quốc phòng là nhằm đáp ứng yêu cầu tự bảo vệ của nền kinh tế. Mục tiêu
cốt lõi của kết hợp kinh tế với quốc phòng là chuyển tiềm lực kinh tế thành
tiềm lực quốc phòng và thực lực quân sự một cách tối ưu để ngăn chặn, đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh, nguy cơ mất ổn định, bảo vệ Tổ quốc; hoặc động viên
quốc phòng với khả năng cao nhất khi phải tiến hành chiến tranh [11, tr. 9]. Kết
hợp kinh tế với quốc phòng diễn ra theo chiều hướng, hình thức và mức độ nào
là phụ thuộc vào yếu tố chủ thể của sự kết hợp ấy.
1.1.2. Sự cần thiết phải kết hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta
hiện nay
Kinh tế, quốc phòng là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia,
dân tộc độc lập có chủ quyền. Kết hợp kinh tế với quốc phòng là một hiện tượng
lịch sử, không phải diễn ra trong mọi xã hội, mà chỉ diễn ra trong xã hội có giai
cấp và đấu tranh giai cấp. Ở đâu, xã hội nào còn tồn tại giai cấp và đấu tranh giai
cấp, còn phải duy trì hoạt động quân sự, quốc phòng, ở xã hội đó tất yếu phải có
13


hoạt động kết hợp kinh tế với quốc phòng. Theo đó, ở nước ta hiện nay kết hợp
kinh tế với quốc phòng là hết sức cần thiết, xuất phát từ những vấn đề sau:
* Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ
giữa kinh tế với quốc phòng và chiến tranh, về kết hợp kinh tế với quốc phòng
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, kinh tế, quốc phòng là các lĩnh vực
rộng lớn và hết sức cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc. Mỗi lĩnh vực hoạt
động theo quy luật đặc thù và có vị trí, vai trò khác nhau, nhưng chúng lại có
mối quan hệ biện chứng với nhau; trong mối quan hệ đó, kinh tế giữ vai trò
quyết định, quốc phòng vừa phụ thuộc vào kinh tế, vừa có sự tác động trở lại
đối với sự phát triển của KT - XH trên cả hai chiều hướng, tích cực và tiêu cực.

Quốc phòng phụ thuộc rất lớn vào tình trạng sức sản xuất và tính chất quan
hệ sản xuất hiện có của mỗi một quốc gia; hay kinh tế quyết định đối với quốc
phòng, thể hiện trên nhiều mặt, cả về nguồn gốc ra đời, tổ chức biên chế, vũ khí
trang bị, phương thức tác chiến… Xét đến cùng, kinh tế quyết định đến kết cục
của chiến tranh và sự thắng lợi trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Điều
này được Ph. Ăngghen nhấn mạnh: “Không có gì lại phụ thuộc vào những điều
kiện kinh tế tiên quyết hơn là chính ngay quân đội và hạm đội. Vũ trang, biên chế,
tổ chức, chiến lược, chiến thuật phụ thuộc trước hết vào trình độ của sản xuất đã
đạt được trong một thời điểm nhất định và vào phương tiện giao thông” [48, tr.
255]. Kết cục của chiến tranh và của “toàn bộ việc tổ chức và phương thức chiến
đấu của quân đội, và do đó thắng lợi hay thất bại đều rõ ràng phụ thuộc vào các
điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào chất liệu của con người và của
vũ khí, nghĩa là vào chất lượng, số lượng của dân cư và của kỹ thuật” [48, tr. 241].
Kế tục quan điểm của Ph. Ăngghen, V.I.Lênin khẳng định: trong bất cứ
cuộc chiến tranh nào, kinh tế giữ vai trò quyết định, đặc biệt “trong chiến tranh
hiện đại, tổ chức kinh tế có một ý nghĩa quyết định” [42, tr. 260]. Và cũng theo
V.I.Lênin: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự, phải có hậu phương
được tổ chức vững chắc. Một quân đội giỏi nhất, những người trung thành nhất
với sự nghiệp cách mạng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ
14


trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy đủ” [43, tr. 497]. Nếu “không chuẩn
bị hết sức đầy đủ về mặt kinh tế, thì việc tiến hành một cuộc chiến tranh hiện đại
chống chủ nghĩa đế quốc tiên tiến là điều không thể làm được” [43, tr. 475].
Bản chất của chế độ chính trị - xã hội giữ vai trò quyết định đến bản chất
chính nghĩa hay phi nghĩa của một cuộc chiến tranh, đến khả năng huy động được
nhiều hay ít các nguồn lực cho quốc phòng. V.I.Lênin khẳng định: “Khả năng
phòng thủ, sức mạnh ở một nước mà ngân hàng đã được quốc hữu hóa thì cao hơn
khả năng phòng thủ ở một nước mà ngân hàng nằm trong tay tư nhân. Sức mạnh

quân sự ở một nước nông dân trong đó ruộng đất ở trong tay những ủy ban nông
dân thì cao hơn sức mạnh quân sự ở một nước còn chế độ địa chủ chiếm hữu
ruộng đất” [42, tr. 261]. Như vậy, chế độ kinh tế và xã hội có ảnh hưởng rất lớn
đến tinh thần chiến đấu; đến khả năng huy động nguồn lực vật chất, phát huy sức
mạnh chính trị - tinh thần của quân đội và nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ
quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.
Quốc phòng không chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà còn tác động trở lại
đối với sự phát triển KT - XH; trực tiếp bảo vệ đất nước, bảo vệ kinh tế, bảo
vệ sự ổn định chính trị - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển KT XH. V.I. Lênin chỉ ra: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự
vệ” [41, tr. 112]. Đồng thời, hoạt động quốc phòng còn tạo ra những nhu cầu
đòi hỏi nền kinh tế phải đáp ứng cho nó; thông qua nhu cầu quốc phòng, nền
kinh tế phải sắp xếp, cân đối tỷ lệ giữa các khâu trong quá trình tái sản xuất,
đẩy mạnh nghiên cứu KH - CN, phát triển một cách toàn diện để đáp ứng cả
nhu cầu dân sinh và nhu cầu quốc phòng.
Mặt khác, hoạt động quốc phòng trong thời bình cũng như quá trình
chuẩn bị và tiến hành chiến tranh thường tiêu tốn một bộ phận lớn nguồn nhân
lực, vật lực, tài chính của xã hội. Những tiêu dùng này, theo V.I. Lênin là những
tiêu dùng “mất đi”, không quay trở lại quá trình tái sản xuất xã hội. Điều đó ảnh
hưởng không nhỏ đến sản xuất và tiêu dùng của xã hội, làm cho các nguồn lực
của nền kinh tế vốn đã khan hiếm, lại không được tập trung đầu tư cho phát triển
15


sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân. Hoạt động quốc phòng còn có thể dẫn
đến huỷ hoại môi trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho KT - XH, nhất là
khi chiến tranh xảy ra. Vì vậy, bất kỳ quốc gia nào, sẽ không thể có quốc phòng
vững mạnh nếu không bắt đầu từ việc xây dựng, phát triển kinh tế, nhưng không
phải cứ có kinh tế mạnh là tự khắc có quốc phòng mạnh, mà phải thông qua thực
hiện sự gắn kết hai lĩnh vực đó một cách chủ động, có ý thức giữa phát triển kinh
tế với tăng cường củng cố quốc phòng.

* Xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng được thể
hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, kinh tế và quốc phòng là hai hoạt động thuộc hai lĩnh vực
khác nhau; song giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Phải thực hiện
kết hợp chặt chẽ hai lĩnh vực đó, bởi “Hai bên công việc khác nhau, nhưng thật ra là
hợp tác” [33, tr. 134] để cùng thực hiện kháng chiến và kiến quốc. Vai trò quyết
định của kinh tế đối với quốc phòng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, được thể hiện ở
khả năng bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, “Cung cấp đủ
súng đạn, đủ cơm áo cho bộ đội, thì bộ đội mới đánh thắng trận, điều đó rất rõ ràng
dễ hiểu” [33, tr. 114]; hay là “Muốn đánh thắng thì quân ta phải ăn no. Muốn ăn no
thì phải có nhiều lương thực..., thực túc thì binh cường” [35, tr. 497]. Nhưng quân
sự, quốc phòng, chiến tranh không chỉ phụ thuộc vào kinh tế một cách thụ động mà
nó tác động trở lại đối với KT - XH, được Hồ Chí Minh chỉ ra: "Một khi chiến
tranh đã bùng nổ ở nơi nào, ảnh hưởng của nó sẽ lan tràn khắp các nơi khác. Chẳng
những thế, nó còn ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả các hoạt động kinh tế, chính trị, văn
hoá của toàn xứ... Chiến tranh không những chỉ phát động trong địa hạt quân sự ở
tiền phương mà còn phát động cả trong địa hạt ở hậu phương" [33, tr. 498].
Kinh tế và quốc phòng có vị trí, vai trò khác nhau nên sự kết hợp giữa
chúng được tiến hành dưới những hình thức và mức độ khác nhau tùy thuộc vào
mức độ ưu tiên của từng nhiệm vụ theo phương châm: “Lúc chiến tranh thì quân
16


đội đánh giặc, lúc hòa bình thì tập luyện”[38, tr. 258]. Để kết hợp kinh tế với
quốc phòng có hiệu quả, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt, phải nhận thức
đúng vai trò của từng lĩnh vực, từng nhiệm vụ, chống mọi biểu hiện lệch lạc, chủ
quan như: chỉ coi trọng xây dựng kinh tế mà xem thường xây dựng quân đội,
củng cố quốc phòng, hoặc ngược lại. Mặt khác, phải động viên ngành công

nghiệp “Chế nhiều vũ khí, dụng cụ, sản phẩm để đánh giặc và để cung cấp cho
nhân dân”[35, tr. 59]; ngành nông nghiệp “Trồng nhiều lúa, nhiều màu, nhiều
bông, để quân và dân đủ ăn, đủ mặc, đủ dùng... sẵn sàng tiếp tế lương thực cho
quân đội” [35, tr. 59]. Để giảm thiểu gánh nặng quốc phòng cho nền kinh tế
kháng chiến, các lực lượng vũ trang “Phải thực hành tự cấp tự túc bằng cách
thiết thực, bằng tăng gia sản xuất” [34, tr. 509], thực hành tiết kiệm để tự bảo
đảm, từng bước cải thiện mức sống của mình, đồng thời góp phần phát triển kinh
tế và xây dựng các yếu tố của CNXH ngay trong kháng chiến. Song, trong điều
kiện cần thiết của chiến tranh, nhiệm vụ hàng đầu là phục vụ quốc phòng, vì
quân sự là việc chủ chốt trong kháng chiến.
Vừa kháng chiến vừa kiến quốc là một nội dung căn bản trong tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng. Trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ đạo vừa kháng chiến vừa kiến quốc; kết hợp chiến đấu với sản xuất,
vừa đánh giặc vừa tăng gia sản xuất. Tư tưởng “Kháng chiến phải đi đôi với kiến
quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc
thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi” [33, tr. 114] là luận điểm tiêu biểu
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng. Tư tưởng đó đã
được hiện thực hóa trong thực tiễn cách mạng; chính nhờ thực hiện tư tưởng của
Người mà chúng ta đã giành thắng lợi vĩ đại trong chiến tranh giải phóng dân tộc
cùng những thành công to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để kháng chiến thành công, Người cho rằng, cần phải động viên toàn
dân, vũ trang toàn dân. Điều đó có nghĩa là trang bị cho toàn dân ý thức tự
giác tham gia kháng chiến bằng tinh thần yêu nước và trách nhiệm công dân,
17


đánh giặc trong mọi điều kiện, bằng mọi loại vũ khí và sự sáng tạo. Vũ trang
toàn dân phải đi đôi với động viên toàn dân. Động viên nhân dân thấy rõ trách
nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi đối với đất nước để họ tự nguyện tham gia đóng

góp công sức, vật chất, trí tuệ cho kháng chiến, để mỗi công dân là một chiến
sĩ, mỗi làng là một chiến hào. Nhờ đó mà huy động tối đa sức người, sức của
cho kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công.
Tư tưởng về xây dựng căn cứ địa và hậu phương cho tiền tuyến trong
chiến tranh. Đây là sự vận dụng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối
quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận ra ý
nghĩa quan trọng của căn cứ địa và hậu phương đối với kết quả hoạt động của
lực lượng vũ trang ngoài tiền tuyến. Sẽ không có thắng lợi nào ở nơi tiền
tuyến nếu như không có sự đóng góp, chi viện thường xuyên về nhân tài, vật
lực của hậu phương cho tiền tuyến. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, căn cứ
địa và hậu phương là "nơi đứng chân làm cơ sở" cho lực lượng vũ trang hoạt
động, nơi “đội du kích tích trữ lương thực, thuốc đạn, lâu lâu về đó nghỉ ngơi,
luyện tập” [33, tr. 536]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, căn cứ địa và hậu
phương chiến lược phải là nơi đủ mạnh để tự bảo vệ khi bị tấn công, đáp ứng
yêu cầu trước mắt cho cuộc kháng chiến, đồng thời chuẩn bị tiền đề xây dựng
và phát triển kinh tế, kiến thiết đất nước sau chiến tranh. Phương châm đó thể
hiện trong tư tưởng “Nếu cần phải thoái, thì kiến thiết thế nào? Kháng chiến
thắng lợi, thì kiến thiết thế nào?” [33, tr. 545]. Do đó, theo Người căn cứ địa
và hậu phương chiến lược phải được xây dựng và phát triển toàn diện trên tất
cả các mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng quân đội tham gia phát triển kinh tế.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mặc dù đánh giặc cứu nước là nhiệm vụ chủ
yếu của quân đội, song bên cạnh đó quân đội còn phải tích cực tăng gia sản
xuất. Đó là việc làm có nghĩa thiết thực để vừa khắc phục sự bao vây của kẻ
thù đối với nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ; vừa góp phần làm giảm bớt phần
nào gánh nặng của nền kinh tế trong việc đáp ứng các yêu cầu của chiến
18


tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Tuy công việc chuyên môn vẫn là

chính, nhưng phải cố sức tăng gia” [35, tr. 512]. Bộ đội cũng phải tăng gia sản
xuất, theo phương châm: “Tuỳ theo hoàn cảnh mỗi bộ đội, hoặc làm vườn,
nuôi lợn, hoặc làm giúp dân. Có lúc bộ đội chia phiên nhau lớp đánh giặc,
lớp làm ruộng, làm vườn để tự cấp, tự túc không phiền đến dân cả mọi việc"
[34, tr. 103]. Đối với các đơn vị thường xuyên cơ động, "dù nay đây mai đó
cũng cần tăng gia. Mình không ăn thì để cho đơn vị khác ăn, nhân dân ăn. Ở
đâu cũng làm như thế nhất định có thêm nhiều thức ăn cải thiện" [35, tr.
193]. Ngoài những hoạt động trực tiếp làm ra sản phẩm lương thực thực
phẩm, còn bao gồm cả việc đánh chiếm chiến lợi phẩm của địch, bảo vệ của
công, giúp đỡ nhân dân, "bộ đội phải hết lòng giúp dân, tham gia củng cố
hậu phương ta ngày càng vững mạnh" [39, tr. 456].
Cùng với tăng gia sản xuất, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn kêu gọi tiết
kiệm, chống lãng phí trong quân đội. Các ngành "quân nhu, quân giới, vận
tải... là những cơ quan cần phải tiết kiệm đã đành. Các chiến sĩ cũng cần
phải tiết kiệm và cũng có thể tiết kiệm" [35, tr. 486]. Đồng thời, "phải giáo
dục bộ đội giữ gìn tốt vũ khí, trang bị, tiết kiệm từng viên đạn, hạt gạo,
không được để lãng phí" [39, tr. 466]. Những lời căn dặn ấy của Người đã
khái quát đầy đủ và sinh động tư tưởng kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với
quốc phòng trong hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang làm
nòng cốt cho toàn dân đánh giặc cũng không tách rời với mặt trận lao động sản
xuất. Đối với mỗi dân quân, du kích đều vừa là lực lượng sản xuất ở ruộng
đồng, bám chặt các cơ sở sản xuất để làm ra của cải vật chất, vừa là những tay
súng đánh giặc giữ làng, bảo vệ địa bàn, bảo vệ sản xuất. Đối với mỗi tự vệ đều
vừa là những công nhân sáng tạo ra của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu của
cuộc kháng chiến, vừa là người chiến sĩ tích cực chiến đấu bảo vệ nhà máy, bảo
vệ địa bàn và là lực lượng quan trọng phối hợp với các chiến sĩ quân đội trên
các hướng chiến lược [3, tr. 59]. Nhiệm vụ lao động sản xuất của quân đội theo
19



tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được xác định ngay từ những ngày đầu
thành lập quân đội và đã trở thành một truyền thống qúy báu của quân đội ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng
trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Hồ Chí Minh sớm nhận thức được việc vai
trò quan trọng trong thực hiện đan cài lợi ích và tận dụng quan hệ kinh tế đối
ngoại để phát triển nâng cao tiềm lực kinh tế, tăng cường sức mạnh quốc
phòng của đất nước. Trong quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại, theo Hồ Chí
Minh, phải “trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi, chúng tôi sẵn
sàng đặt quan hệ ngoại giao và thương mại với tất cả các nước” [37, tr. 160].
Người khẳng định: “Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư
của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kinh tế của
mình... Sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc
buôn bán và quá cảnh quốc tế...” [33, tr. 470]. Sẵn sàng “mời những nhà
chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu... giúp việc cho chúng ta trong
cuộc kiến thiết nước nhà” [33, tr. 74],
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng là
kết quả của sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, những tinh hoa
của nhân loại, truyền thống “dựng nước đi đôi với giữ nước” cùng những kinh
nghiệm quý báu về giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng của
ông cha ta vào điều kiện cụ thể của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chính sự
kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố đó làm cho tư tưởng kết hợp kinh tế với quốc
phòng của Người hội đủ tính cách mạng và tính khoa học, tính dân tộc và tính
thời đại sâu sắc, trở thành nét đặc sắc trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.
* Xuất phát từ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kết hợp kinh
tế với quốc phòng
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là một chủ trương lớn, một bộ phận của
đường lối phát triển KT - XH, đã được Đảng ta đặt ra ngay từ những ngày đầu
và nhất quán thực hiện trong suốt quá trình cách mạng ở nước ta. Chủ trương
nhất quán đó được khẳng định ở trong các văn kiện của Đảng qua các thời kỳ,

20


phản ánh sự nhận thức đúng đắn và vận dụng linh hoạt, sáng tạo của Đảng về kết
hợp kinh tế với quốc phòng, được thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau:
Về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, mục tiêu, nội dung,
phương thức kết hợp kinh tế với quốc phòng. Đây là những vấn đề lớn được
Đảng ta thường xuyên quan tâm và có sự bổ sung, phát triển. Theo quan điểm
của Đảng ta, kinh tế và quốc phòng tuy là hai công việc thuộc hai lĩnh vực,
nhưng giữa chúng có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau. Vì vậy, vừa
“phải giải quyết đúng mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và củng cố quốc
phòng” [21, tr. 535], đồng thời “Phải kết hợp củng cố quốc phòng với xây dựng
hậu phương vững chắc” [20, tr. 3] nhằm “Cung cấp đủ súng đạn, đủ cơm áo
cho bộ đội thì bộ đội mới đánh thắng trận” [36, tr. 179]. Trong thời kỳ đổi mới,
mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng được Đảng ta nhiều lần khẳng định,
KT - XH phát triển không chỉ tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực kinh tế cho
tăng cường tiềm lực quốc phòng, mà còn tạo cơ sở chính trị - xã hội thuận lợi
cho việc nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc. Đảng ta xác định: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống
KT - XH là nền tảng vững chắc của quốc phòng, an ninh” [25, tr. 82].
Trong công cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, Đảng
lãnh đạo kết hợp kinh tế với quốc phòng thông qua đường lối “vừa kháng
chiến vừa kiến quốc”. Kháng chiến là để giành và giữ vững nền độc lập, tự
do của dân tộc. Muốn kháng chiến mau thắng lợi phải xây dựng căn cứ địa,
hậu phương vững chắc. Trong hoàn cảnh nước ta phải tiến hành một cuộc
kháng chiến không cân sức chống kẻ thù xâm lược mạnh hơn nhiều lần, thì
điều đó càng cấp thiết hơn. Kiến quốc, xây dựng chế độ KT - XH mới về
mọi mặt, thực sự đưa lại quyền lợi cho nhân dân là phát huy thành quả của
cách mạng, đồng thời cũng là tạo dựng căn cứ địa - hậu phương vững mạnh,
làm cơ sở để giành thắng lợi trong kháng chiến. Kháng chiến và kiến quốc

luôn luôn đi đôi với nhau. Điều đó có nghĩa là vừa kháng chiến để giành và
giữ vững nền độc lập, tự do của dân tộc, vừa xây dựng chế độ mới về mọi
21


mặt từ kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng; vừa đánh giặc vừa xây dựng
và phát triển lực lượng cách mạng; vừa đánh địch ở tiền tuyến, vừa củng cố
mở rộng hậu phương, vừa đánh vừa bồi dưỡng sức dân. Tư tưởng vừa kháng
chiến vừa kiến quốc phản ánh qui luật của cách mạng Việt Nam là xây dựng
chế độ mới phải gắn liền với bảo vệ chế độ mới và ngược lại, bảo vệ chế độ
mới phải dựa trên cơ sở xây dựng chế độ mới. Giữa kháng chiến và kiến
quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau. “Kháng chiến phải đi đôi với kiến
quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có
chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi” [33, tr. 114]. Chủ trương
“vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”; kết hợp vừa đánh giặc vừa tăng gia sản
xuất, được Đảng ta chỉ đạo toàn quân và nhân dân thực hiện và đã giành được
thắng lợi to lớn trong cả hai cuộc kháng chiến không cân sức chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược giành lại độc lập dân tộc.
Thời kỳ 1976 đến 1986, Đảng ta nhấn mạnh phải kết hợp chặt chẽ kinh
tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, xây dựng đất nước phải đi đôi với
bảo vệ đất nước. Sau khi cả nước được hoàn toàn độc lập, thống nhất cùng đi
lên xây dựng CNXH, qua thực tiễn 30 năm chiến tranh giải phóng, tiếp tục
khẳng định vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng là một trong những nội dung
cơ bản và quan trọng của đường lối xây dựng nền kinh tế XHCN trên phạm vi
cả nước. Đại hội lần thứ IV của Đảng chỉ rõ: "Phải kết hợp đúng đắn kinh tế
với quốc phòng. Xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất nước đó là yêu
cầu sống còn của dân tộc ta" [18, tr. 58]. Đường lối đó chỉ ra rằng, công cuộc
xây dựng nền kinh tế trên phạm vi cả nước trong thời bình phải đồng thời đáp
ứng các nhu cầu: cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa XHCN; mở rộng quan hệ kinh

tế với các nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh thường xuyên vững chắc.
Những năm cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, trong lúc nền
kinh tế đang bị kiệt quệ sau tàn phá của chiến tranh, chủ trương Đại hội IV với
mục tiêu nhanh chóng phục hồi nền kinh tế mới chỉ được thực hiện bước đầu
22


thì đất nước lại gặp nhiều khó khăn phức tạp mới, vừa phải đương đầu với hai
cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, lại bị chủ
nghĩa đế quốc bao vây, cấm vận kinh tế. Mặt khác, về cơ chế quản lý kinh tế
thời kỳ này ở nước ta vẫn tiếp tục thực hiện theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung.
Thực tế, cơ chế này trước đó đã góp phần tích cực vào huy động nguồn lực cho
kháng chiến chống Mỹ thắng lợi nhưng khi lịch sử đất nước chuyển giai đoạn
mới thì trong nó đã tiềm ẩn những yếu tố không tạo động lực cho sự phát triển;
tình trạng lạm phát tăng cao, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn; xuất hiện
những biểu hiện của tư tưởng lệch lạc, như chỉ coi trọng phát triển kinh tế, xem
nhẹ củng cố quốc phòng, hoặc ngược lại. Trước tình hình đó, cùng với chủ
trương tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng ta vẫn kiên trì đường lối kết
hợp kinh tế với phòng, phát huy những kết quả xây dựng kinh tế để bảo đảm
cho quốc phòng. Đại hội V của Đảng tiếp tục khẳng định: "Kết hợp chặt chẽ
kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, từng bước phát triển công
nghiệp quốc phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực kinh tế của đất nước". [19,
tr. 44]. Từ quan điểm trên cho thấy, mặc dù trong thời kỳ này đất nước đã hoàn
toàn độc lập, thống nhất, công cuộc xây dựng đất nước trong điều kiện thời
bình, Đảng ta vẫn tiếp tục nhận thức đúng đắn về kết hợp chặt chẽ kinh tế với
quốc phòng và khẳng định xây dựng đi đôi với bảo vệ Tổ quốc là yêu cầu cấp
thiết, liên quan đến sự sống còn của dân tộc.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương kết hợp kinh tế với quốc
phòng theo phương hướng cơ bản, lâu dài; kết hợp toàn diện, chú trọng những
vùng chiến lược, địa bàn trọng điểm nhằm chuẩn bị sớm, từ trước về mọi mặt

để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, đồng thời sẵn sàng ứng phó thắng lợi
với mọi nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong
mọi tình huống. Đảng ta sớm nhận thấy phải chuẩn bị từ trước, “bảo vệ tổ
quốc từ xa” và đã luôn nhấn mạnh yêu cầu: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy
cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm
và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các yếu tố bên trong có thể gây ra đột
23


biến” [28, tr. 149]. Để thực hiện yều cầu đó, trong mỗi bước phát triển của đất
nước, tư duy của Đảng về kết hợp kinh tế với quốc phòng ngày càng có sự
phát triển mới, phù hợp hơn với những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng. Văn
kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã
hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã
hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; chú
trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo” [28, tr. 149].
Như vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn
coi trọng và bổ sung hoàn thiện đường lối kết hợp kinh tế với quốc phòng phù
hợp với tình hình quốc tế và điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước ở từng
thời kỳ. Nhằm làm cho mỗi bước xây dựng, phát triển kinh tế phải làm tăng
cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng hậu phương đất nước một cách
toàn diện để khi chiến tranh xảy ra có thể chuyển nhanh nền kinh tế từ thời
bình sang thời chiến.
* Xuất phát từ thực tiễn thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng trong
lịch sử dân tộc
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là hiện tượng phổ biến đối với mỗi quốc
gia, dân tộc độc lập có chủ quyền. Dù các nước có trình độ phát triển khác
nhau, chế độ chính trị - xã hội khác nhau cũng đều quan tâm, chăm lo thực hiện
kết hợp kinh tế với quốc phòng. Tuy nhiên, trong những điều kiện, hoàn cảnh
khác nhau của mỗi nước thì mục đích, nội dung và phương thức thực hiện sự

gắn kết đó có sự khác nhau. Ngay ở mỗi nước, sự kết hợp kinh tế với quốc
phòng trong từng giai đoạn phát triển cũng không hoàn toàn giống nhau. Kết
hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta, không những là một tất yếu khách
quan mà còn là vấn đề gắn liền quy luật “dựng nước đi đôi với giữ nước” và
là một truyền thống qúy báu trong lịch sử dân tộc.
Các triều đại phong kiến trước đây, thời nào cũng vậy, đứng trước nguy cơ
thường xuyên bị các thế lực bên ngoài đe dọa và xâm lược, để tồn tại và phát triển
đất nước, các triều đại luôn lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm trọng, đề ra kế sách
24


giữ nước với tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc, khoan thư sức dân làm kế sách sâu
rễ bền gốc”. Khi đất nước hòa bình luôn chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết các
dân tộc, phát triển sản xuất đi đôi với chăm lo củng cố thế trận phòng thủ, xây
dựng tiềm lực quân sự theo quan điểm “ngụ binh nông”, “động vi binh, tĩnh vi
dân”. Xây dựng kinh tế bằng việc khai hoang, lập ấp ở những nơi xung yếu để
“phục binh sẵn, phá thế giặc”; phát triển nghề thủ công để cung cấp vũ khí,
phương tiện cho toàn dân đánh giặc; mở mang đường sá, xây dựng đê điều, đào
sông, lấn biển, vừa phát triển sản xuất, vừa sẵn sàng chống giặc và tạo thuận lợi
cho việc cơ động lực lượng lên các vùng biên ải; thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng những người có chí lớn, tài cao và thấm nhuần đạo lý dân tộc; lấy nhân
nghĩa làm cốt lõi và nhiều kế sách khác để đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
do nắm bắt được quy luật, biết kế thừa kinh nghiệm lịch sử nên đã thực hiện
kết hợp kinh tế với quốc phòng một cách nhất quán bằng những chủ trương,
giải pháp sáng tạo, phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng
Việt Nam, nhất là từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Đảng đề ra chủ
trương "Vừa kháng chiến vừa kiến quốc"; tiến hành phát triển kinh tế ở hậu
phương với tiến hành chiến tranh nhân dân rộng khắp ở mọi nơi địch đến; xây

dựng "làng kháng chiến", địch đến thì đánh, địch lui ta lại tăng gia sản xuất.
Thực hiện khẩu hiệu: "Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà
nông là chiến sỹ, hậu phương thi đua với tiền phương".
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), việc kết
hợp kinh tế với quốc phòng được Đảng ta chỉ đạo thực hiện ở mỗi miền với
các hình thức, nội dung và biện pháp thích hợp. Miền Bắc tiến hành xây dựng
và bảo vệ vững chắc chế độ XHCN, đồng thời, xây dựng hậu phương lớn.
Miền Nam gắn kết chặt chẽ giữa đánh địch với củng cố, mở rộng hậu phương,
xây dựng căn cứ địa vững mạnh. Ở thời kỳ này ta phải tập trung cao độ cho cả
hai nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam. Việc kết hợp kinh tế
25


với quốc phòng được thực hiện bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động và
thiết thực từ trung ương đến các địa phương, do đó, đã góp phần tạo ra thế và
lực vững chắc đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Từ 1986 đến nay, với tư duy mới về kết hợp kinh tế với quốc phòng,
trên phạm vi cả nước cũng như ở các bộ, ngành trung ương và ở các địa
phương đã có bước chuyển mạnh từ nhận thức đến tổ chức triển khai thực
hiện, mọi tiềm năng của cả nước đều được huy động cho công cuộc xây dựng
phát triển kinh tế, củng cố tiềm lực, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận
an ninh nhân dân vững mạnh từ trong thời bình. Do vậy, đã góp phần giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định cho xây dựng và phát triển đất nước.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn phân tích ở trên, cho phép chúng
ta khẳng định rằng, kết hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta là hết sức cần
thiết, phù hợp với quy luật “dựng nước đi đôi với giữ nước” của dân tộc và
thực tiễn cách mạng, nhằm góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức rõ vấn đề này làm cơ sở để xác
định nội dung, phương thức kết hợp kinh tế với quốc phòng trên phạm vi cả
nước cũng như trên địa bàn mỗi tỉnh, thành phố trong tình hình mới.

1.2. Quan niệm, nội dung và yếu tố ảnh hưởng đến kết hợp kinh tế
với quốc phòng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
1.2.1. Quan niệm về kết hợp kinh tế với quốc phòng trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về kết hợp kinh tế
với quốc phòng; kế thừa, phát triển các quan niệm về kết hợp kinh tế với quốc
phòng của các công trình nghiên cứu gần đây ở nước ta, có thể hiểu: Kết hợp
kinh tế với quốc phòng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh là tổng thể các hoạt động
của chủ thể nhằm gắn kết lĩnh vực kinh tế và quốc phòng trong một chỉnh thể
thống nhất, tạo điều kiện cho nhau, thúc đẩy nhau từng bước phát triển, góp
phần tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn Tỉnh.
26


Mục đích kết hợp kinh tế với quốc phòng là một bộ phận trong mục
tiêu phát triển KT - XH, là cái đích cần đạt tới trong các hoạt động kinh tế và
quốc phòng trong một phạm vi không gian, thời gian xác định. Mục đích kết
hợp kinh tế với quốc phòng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh là nhằm khai thác, sử
dụng hiệu quả nhất các nguồn lực, thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu nhiệm vụ
phát triển kinh tế và tăng cường sức mạnh quốc phòng. Làm cho hai nhiệm vụ
phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng được thực hiện nhịp nhàng, cân đối,
thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Mỗi bước phát triển của kinh tế có tác dụng
nâng cao sức mạnh quốc phòng và mỗi bước phát triển của quốc phòng lại tạo
thêm điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển, tăng cường khả năng bảo vệ
đất nước, sẵn sàng đối phó thắng lợi với mọi âm mưu xâm lược và phá hoại
của các thế lực thù địch.
Hoạt động kết hợp kinh tế với quốc phòng đối với từng vùng lãnh thổ,
từng địa phương và trên phạm vi cả nước nói chung luôn đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Theo cơ chế phân cấp trong

lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay thì cấp ủy, chính quyền địa phương chịu
trách nhiệm trước Đảng, Chính phủ về thẩm quyền lãnh đạo, quản lý mọi mặt,
mọi hoạt động trên phạm vi lãnh thổ địa phương mình. Theo đó, chủ thể lãnh
đạo, chỉ đạo trực tiếp đối với hoạt động kết hợp kinh tế với quốc phòng trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh là cấp ủy, tổ chức đảng các cấp thuộc Đảng bộ tỉnh Hà
Tĩnh; chủ thể quản lý trực tiếp đối với hoạt động kết hợp kinh tế với quốc
phòng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh là chính quyền địa phương, các ban ngành,
lĩnh vực, các cơ sở, đơn vị, nhân dân và lực lượng vũ trang trên địa bàn Tỉnh;
thông qua quy hoạch, kế hoạch, sử dụng cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật
và các công cụ khác để quản lý sự kết hợp đó.
Lực lượng nòng cốt tiến hành kết hợp kinh tế với quốc phòng trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh là các chủ thể trong hệ thống chính trị ở Tỉnh, bao gồm các cơ
quan, tổ chức chính trị xã hội, các ban, ngành, các lĩnh vực, các cấp ở tỉnh Hà
Tĩnh; cùng với sự tham gia đóng góp tự nguyện của doanh nghiệp thuộc các
27


×