Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

THẾ NÀO LÀ một hệ THỐNG THUẾ tốt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.95 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


BÀI TẬP NHÓM
MÔN HỌC TÀI CHÍNH CÔNG

Tên đề tài:

THẾ NÀO LÀ MỘT HỆ THỐNG THUẾ TỐT?
CẢI CÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM
Nhóm 7

GVHD:

Nguyễn Thị Mỹ Hạnh

Đà Nẵng, 2/2016.


I.TÍNH HIỆU QUẢ
Thuật ngữ hiệu quả của hệ thống thuế được sử dụng theo hai cách sau: (1) thuế không can
thiệp hoặc gây ảnh hưởng đến hành vi kinh tế của người nộp thuế. (2) các tổ chức hay cá
nhân phản ứng đối với thuế bằng việc thay đổi hành vi của họ
Thật vâỵ,khi chính phủ đánh thuế sẽ gây ra (1)tác động thu nhập và (2) tác động thay
thế.tác động thu nhập xuất hiện do thuế làm giảm khả năng chi tiêu của người nộp thuế.
Thuế đánh vào thu nhập tiết kiệm có thể làm giảm cung tiết kiệm,nguồn vốn tài trợ cho
các dự án đầu tư và từ đó làm giảm năng suất của công nhân và tiền lương của họ. còn tác
động ảnh hưởng thay thế xuất hiện khi thuế có gây tác động tăng giá và do đó dẫn đến
việc các cá nhân thay thế hình thức hoạt động hay tiêu dùng này sang hình thức hoạt
động hay tiêu dung khác. Nếu sự thay thế này xã hội cho rằng không đáng có thì thực sự


nó đã gây ra gánh nặng phụ trội. bỡi lẽ các cá nhân đã phải tiêu dugf những thứ hang hóa
hoặc làm những việc mà mình ít ưa thích hơn so với trước khi có thuế hoặc thuế suất cao
để tránh thuế do đó phúc lợi của họ bị giảm sút. Khi tác động thay thế càng lớn thì mất
trắng cũng càng lớn.
1.Tiêu chuẩn hiệu quả cổ điển
Theo Adam smith, khi chính phủ can thiệp vào hệ thống bằng việc đánh thuế vào các
hoạt động kinh tế ,thì sân chơi sẽ cản trở các doanh nghiệp tăng cường đầu tư. Như
vậy,hoạt động kinh doanh bị thu hẹp và kinh tế không phát triển
2.Thuế như là công cụ của chính sách tài khóa
Theo keyness,chính phủ nên sử dụng thuế để dịch chuyển nền kinh tế theo hướng mong
muốn. Nếu như một nền kinh tế đang trải qua sự tăng trưởng chậm chạp và thất nghiệp
cao,chính phủ có thể giảm thuế. Cắt giảm thuế vừa kích thích nhu cầu tiêu dung hang hóa
và dịch vụ vừa gia tăng đầu tư. Kết quả là kinh tế mở rộng và tạo ra việc làm. Ngược lại
nếu như nền kinh tế phát triển quá nóng,tiền lương và giá cả rơi vào vòng xoáy lạm


phát,chính phủ có thể tăng thuế. Khi đó thu nhập của xà hội giảm,nhu cầu hàng hóa tiêu
thụ và đầu tư giảm,sức ép tăng tiền lương và giá cả cũng giảm
3.Thuế và những thay đổi hành vi
Chính phủ hiện đại sử dụng chính sách thuế của mình để giải quyết không chỉ các vấn đề
kinh tế vĩ mô mà còn các vấn đề xã hội đặc biệt. nhiều vấn đề có thể làm dịu đi nếu như
mọi người hoặc các tổ chức bị thuyết phục thay đổi hành vi của mình. Chính phủ có thể
khuyến khích mọi gười thay đổi hành vi bằng việc ban hành luật thuế phạt những hành vi
không mong muốn hoặc thưởng hành vi mong muốn. hình thức phạt đưa ra hình thức
gánh nặng thuế cao,trong khi thưởng là một hình thức giảm thuế

II.TÍNH CÔNG BẰNG
Thuế là khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức
độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.


Trong các tiêu chuẩn xây dựng hệ thống thuế thì tiêu chuẩn công bằng là tiêu chuẩn hàng
đầu đóng vai trò vô cùng quan trọng và thể hiện rất rõ khi thuế là công cụ phân phối thu
nhập đảm bảo công bằng xã hội.
1. Vậy thế nào là công bằng trong phân phối thu nhập?
- Tính công bằng là một đòi hỏi khách quan trong tiến trình phát triển của lịch sử. Trong
một xã hội dân chủ, tính công bằng cần phải được thực hiện trước hết đối với việc phân
chia gánh nặng của thuế khóa.
- Tiêu thức để đánh giá tính công bằng của một hệ thống thuế phải dựa trên nguyên tắc
công bằng theo chiều ngang và nguyên tắc công bằng theo chiều dọc.


+ Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều ngang: nếu các cá nhân về mọi mặt
đều như nhau thì được đối xử ngang nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên,
trong thực tế nguyên tắc này ít có tính khả thi bởi vì nó không chỉ rõ tiêu thức nào để xác
định hai cá nhân như nhau, mặt khác nó cũng không nói rõ việc đối xử như nhau trong
việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế là như thế nào.
+ Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều dọc, nếu người có khả năng nộp thuế
nhiều hơn thì phải nộp thuế cao hơn những người khác.
2. Vai trò của thuế trong việc đảm bảo công bằng xã hội
- Các nguyên tắc đánh thuế đảm bảo công bằng
+ Người có thu nhập thì phải nộp thuế
+ Người có thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều, thậm chí nộp theo mức lũy tiễn
+ Người không có thu nhập thì không phải nộp thuế thậm chí còn được trợ cấp (thuế thu
nhập âm).
- Kinh tế thị trường tạo ra sự khoảng cách ngày càng lớn về thu nhập, kéo theo đó là quá
trình phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn trong xã hội.
- Để đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập, Nhà nước sử dụng các loại thuế để
điều tiết thu nhập nhận được của các tổ chức và cá nhân.
- Thông qua đánh thuế, Nhà nước thực hiện điều tiết thu nhập của những người có thu
nhập cao, nhờ đó san bằng tương đối sự chênh lệch về thu nhập giữa các cá nhân trong xã

hội.


- Hệ số Gini biểu thị tác động của thuế đến việc đảm bảo tính công bằng trong phân phối
thu nhập.

3. Phương pháp đánh thuế đảm bảo sự công bằng
Để đảm bảo công bằng trong việc đánh thuế dựa trên khả năng trả thuế của đối tượng nộp
thuế, không mang tính tận thu và có xét đến điều kiện, hoàn cảnh sống của từng người là
một nguyên tắc quan trọng của pháp luật về thuế. Ở đây, đòi hỏi công bằng phải là sự
công bằng chung của xã hội, phù hợp với định hướng phát triển của nước ta và các nước
trên thế giới. Các phương pháp đánh thuế nhằm đảm bảo sự công bằng trong xã hội:
Kết hợp thuế trực thu và thuế gián thu
- Thuế gián thu là loại thuế đánh gián tiếp vào thu nhập của cá nhân thông qua giá cả
hàng hóa và dịch vụ. Thuế này mang tính chất thuế lũy thoái vì mức thuế không phụ
thuộc vào thu nhập có khả năng nhận được của người nộp thuế.
- Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế,
nó mang tính lũy tiến vì có tính đến khả năng nhận được thu nhập của người nộp thuế.
- Nếu chỉ áp dụng hoàn toàn thuế gián thu sẽ dẫn đến phân phối thu nhập không công
bằng. Vì vậy, để phát huy vai trò của từng loại thuế và đảm bảo sự phân phối thu nhập
công bằng, người ta kết hợp đánh thuế gián thu và thuế trực thu.
Sử dụng thuế thu nhập cá nhân với biểu thuế lũy tiến
- Thuế TNCN là một loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập nhận được của các cá nhân
- Để phát huy vai trò của thuế có các cách đánh thuế khác nhau nhằm đảm bảo sự công
bằng.


- Về phương thức đánh thuế
Về phương diện lý thuyết, tồn tại ba mô hình đánh thuế thu nhập:
+ Đánh thuế theo từng nguồn thu nhập

+ Đánh thuế trên tổng thu nhập
+ Đánh thuế hỗn hợp theo tổng thu nhập và theo từng nguồn
Mỗi phương pháp nêu trên đều có những ưu, nhược điểm riêng, tùy theo điều kiện kinh
tế, xã hội của từng nước, trình độ quản lý mà lựa chọn phương pháp đánh thuế thích hợp.
- Về nguyên tắc đánh thuế thu nhập cá nhân
+ Đánh thuế trên cơ sở thu nhập chịu thuế hiện hữu
+ Đánh thuế thu nhập theo phương pháp lũy tiến
+ Đánh thuế theo tình trạng cư trú và nguyên tắc đánh thuế theo nguồn phát sinh
thu nhập
- Hệ thống đánh thuế theo nguyên tắc "cư trú" được áp dụng rộng rãi trên thế giới, theo
đó một chủ thể được coi là cư trú ở một nước phải nộp thuế tại nước đó cho mọi khoản
thu nhập phát sinh từ tất cả các nước trên thế giới (tổng thu nhập toàn cầu).
- Đánh thuế theo "nguồn phát sinh thu nhập". Theo nguyên tắc này, các chủ thể chỉ phải
nộp thuế thu nhập đối với khoản thu nhập phát sinh tại nước sở tại mà không phải nộp
thuế thu nhập đối với những khoản thu nhập phát sinh ở nước ngoài.
- Nguyên tắc đánh thuế trên cơ sở thu nhập năm

Kết hợp thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập công ty


- Cùng là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập nên thuế thu nhập cá nhân và thuế thu
nhập công ty có mối quan hệ biện chứng, bổ sung cho nhau. Tuy nhiên, tính chất liên kết
giữa hai loại thuế này được thể hiện khác nhau trong các hệ thống thuế: hệ thống thuế cổ
điển và hệ thống liên kết khấu trừ:
+ Hệ thống thuế cổ điển
Thuế thu nhập công ty tách riêng thuế thu nhập cá nhân và không có sự đối chiếu giữa
hai loại thuế để xác định cơ sở tính thuế. Thuế thu nhập công ty sẽ đánh độc lập vào lợi
nhuận của công ty không phân biệt phương thức sử dụng lợi nhuận của công ty đó như
thế nào.
+ Hệ thống liên kết khấu trừ

Hệ thống liên kết khấu trừ là hệ thống đánh thuế thu nhập công ty trên cơ sở có sự liên
kết với thuế thu nhập cá nhân. Hệ thống này được thực hiện dưới dạng:
- Thuế thu nhập công ty tách riêng thuế thu nhập cá nhân nhưng có thể quy định cơ sở
tính thuế thu nhập công ty dựa trên các quy định của thuế thu nhập cá nhân hoặc ngược
lại.
- Trong hệ thống thuế thu nhập cũng quy định cơ sở tính thuế thu nhập công ty và thuế
thu nhập cá nhân có đối chiếu nhau, do đó thuế thu nhập công ty mang những quy định
của thuế thu nhập cá nhân. Điều này cũng có thể được thực hiện trên cơ sở tính thuế thu
nhập công ty và thuế thu nhập cá nhân có bổ sung những điều khoản quy định đặc biệt
dành cho công ty và cá nhân.
+ Thuế thu nhập công ty và thuế thu nhập cá nhân là hai sắc thuế quan trọng trong hệ
thống thuế trực thu có tác dụng bổ sung cho nhau và phụ thuộc nhau ở một mức độ nhất


định. Hệ thống liên kết khấu trừ xử lý mối quan hệ này một cách tốt hơn, thể hiện sự tinh
xảo cao hơn về mặt chính sách.
4.Thực tế Việt Nam sử dụng thuế để phân phối thu nhập đảm bảo công bằng xã hội
như thế nào?
Đánh giá thực trạng hệ thống thuế thu nhập cá nhân hiện hành
Trên thực tế khi áp dụng thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ở nước ta trong
những năm qua chưa thực sự đảm bảo tính công bằng trong phân phối thu nhập. Ví dụ
như thuế nhà đất – việc đánh thuế các căn biệt thự của những người giàu không bao giờ
có thể tạo ra sự bình đẳng giữa họ với những người nghèo sống trong các căn nhà cấp 4
được, hay một giám đốc lương cao ở nhà đẹp còn công nhân lương thấp ở nhà xấu, vì thế
việc đánh thuế vào căn biệt thự và thu nhập của ông giám đốc trên cũng là một nhiệm vụ
của bộ máy Nhà nước. Chỉ một phần nhỏ số tiền thu được từ thuế là được dành cho các
mục đích an sinh xã hội, mục đích xây dựng cơ sở hạ tầng, mục đích phúc lợi xã hội mà
người hưởng lợi là các tầng lớp dưới, làm giảm bớt phần nào sự bất bình đẳng đó. Có thể
nói, thuế chủ yếu nhằm duy trì sự bất bình đẳng xã hội, hơn là xóa bỏ nó. Bất bình đẳng
xã hội là sản phẩm của xã hội ở giai đoạn phát triển nhất định, trong những điều kiện nhất

định. Nó chỉ có thể bị xóa bỏ để tạo ra sự bình đẳng thực sự bằng con đường nào đó khác,
chứ không phải thông qua thuế nên nó vẫn còn tồn tại các hạn chế để tạo ra sự công bằng
thật sự trong xã hội. Và hạn chế này được biểu hiện thông qua các điểm sau:
- Không công bằng giữa các đối tượng nộp thuế
- Không công bằng giữa các loại thu nhập chịu thuế và thu nhập không chịu thuế
- Không công bằng giữa các cá nhân có thu nhập nhưng nộp thuế theo những luật thuế có
cơ sở đánh thuế khác nhau.


- Không công bằng khi chưa thực hiện điều tiết với toàn bộ các nguồn thu nhập của cá
nhân: có loại thu nhập bị điều tiết bởi thuế thu nhập cao có loại thu nhập lại chưa thực
hiện điều tiết
- Bất bình đẳng khi phân biệt mức nộp thuế giữa thu nhập thường xuyên và thu nhập
không thường xuyên

Định hướng áp dụng thuế thu nhập cá nhân để đảm bảo phân phối thu nhập công bằng ở
nước ta trong thời gian tới
- Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao bao gồm:
+ Công nhân Việt Nam ở trong nước hoặc đi công tác, lao động ở nước ngoài có thu
nhập.
+ Cá nhân là người không mang Quốc tịch Việt Nam nhưng định cư không thời hạn tại
Việt Nam có thu nhập.
+ Người nước ngoài có thu nhập ở Việt Nam bao gồm: Người nước ngoài làm việc tại
Việt Nam trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội, các văn phòng
đại diện, các chi nhánh công ty nước ngoài tại Việt Nam, các cá nhân hành nghề đốc lập
tại Việt Nam. Người nước ngoài tuy không hiện diện tại Việt Nam nhưng có thu nhập
phát sinh tại Việt Nam.
- Thu nhập chịu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao gồm: thu nhập thường
xuyên và thu nhập không thường xuyên;



+ Thu nhập thường xuyên: là các khoản thu nhập phát sinh có tính chất đều đặn và ổn
định trong năm của cá nhân và có thể dự tính được, bao gồm: tiền lương, tiền công, tiền
thù lao, tiền thưởng tháng, quý, năm, thưởng đột xuất nhân dịp ngày lễ, tết, ngày thành
lập ngành từ các nguồn, dưới các hình thức: tiền, hiện vật, các khoản thu nhập ổn định
mà các cá nhân thu được do tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... và các
khoản thu nhập khác mà các cá nhân được hường từ cơ quan chi trả thu nhập.
- Thu nhập không thường xuyên: là các khoản thu nhập phát sinh riêng lẻ, không thường
xuyên, không có tính chất đều đặn và khó có thể dự tính được, bao gồm: thu nhập về
chuyển giao công nghệ (trừ trường hợp biếu, tặng). Trúng thưởng xổ số dưới các hình
thức, kể cả trúng thưởng khuyến mại.
- Thu nhập không chịu thuế: là các khoản thu nhập mà cá nhân nhận được sẽ không phải
tính vào thu nhập chịu thuế
- Căn cứ tính thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là: thu nhập chịu thuế và thuế
suất
+ Thu nhập chịu thuế ở nước ta được xác định theo tiêu thức thu nhập thường xuyên và
thu nhập không thường xuyên
Đối với thu nhập thường xuyên: khoản thu nhập này được xác định bằng tổng thu nhập
thường xuyện thu được trong năm (không kể thu được trong hay ngoài nước) chia cho 12
tháng. Sau khi xác định được thu nhập thường xuyên bình quân tháng, đối chiếu với biểu
thuế để xác định mức thuế phải nộp
Đối với thu nhập không thường xuyên: là số thu nhập mà các cá nhân nhận được có giá
trị lớn hơn 15 triệu đồng theo từngb lần phát sinh thu nhập.


- Thuế suất: đựoc thiết kế theo biểu luỹ tiến từng phần và cho từng đối tượng nộp thuế
đối với thu nhập thường xuyên, và có sự phân biệt loại thu nhập đối với thu nhập không
thường xuyên và ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt
+ Đối với thu nhập thường xuyên: Bảng thuế luỹ tiến từng phần đối với công dân Việt
Nam và cá nhân định cư tại Việt Nam:

Đơn vị tính: 1000 đồng

Bậc

Thu nhập bình quân tháng/người

Thuế suất (%)

1

Đến 5.000

0

2

Trên 5.000 đến 15.000

10

3

Trên 15.000 đến 25.000

20

4

Trên 25.000 đến 40.000


30

5

Trên 40.000

40

Biểu thuế luỹ tiến từng phần đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và công
nhân Việt Nam lao động, công tác tại nước ngoài:
Đơn vị tính: 1000 đồng

Bậc

Thu nhập bình quân tháng/người

Thuế suất (%)

1

Đến 8.000

0

2

Trên 8.000 đến 20.000

10


3

Trên 20.000 đến 50.000

20


4

Trên 50.000 đến 80.000

30

5

Trên 80.000

40

- Đối với người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam thì thuế suất áp dụng thống nhất là
25% trên tổng thu nhập.
- Đối với công nhân Việt Nam nếu trong năm tính thuế vừa có thu nhập ở trong nước, vừa
có thu nhập ở nước ngoài thì thuế suất áp dụng đối với thời gian ở trong nước theo biểu
thuế đối với người Việt Nam, thời gian ở nước ngoài theo biểu thuế đối với người nước
ngoài nêu trên.
+ Đối với thu nhập không thường xuyên:
Thu nhập không thường xuyên của từng cá nhân nhận đượn từng lần từ chuyển giao công
nghệ có mức thuế suất thống nhất là 5% trên tổng thu nhập.
Thu nhập không thường xuyên của từng cá nhân nhận được từng lần từ trúng thưởng xổ
số có mức thuế suất thống nhất là 10% trên tổng thu nhập.

- Miễn, giảm thuế: Đối tượng được giảm thuế, miễn thuế là cá nhân người nộp thuế gặp
khó khan do thiên tai, địch hoạ, tai nạn làm thiệt hại đến tài sản, thu nhập, ảnh hưởng đến
đời sống bản than thì được xét giảm thuế, miễn thuế trong năm tuỳ theo mức độ thiệt hại.
Số thuế được xét miễn, giảm bằng tỷ lệ giữa số tiền thiệt hại so với thu nhập chịu thuế
trong năm nhưng không vượt qua số tiền thuế phải nộp cả năm. Trong trường hợp đặc
biệt, nếu việc nộp thuế của cá nhân làm ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội
của quốc gia thì được miễn, giảm thuế.


Với định hướng hướng áp dụng thuế thu nhập cá nhân để đảm bảo phân phối thu nhập
công bằng trong thời gian tới Việt Nam mong muốn sử dụng thuế nhằm đảm bảo công
bằng xã hội.
III.TÍNH LINH HOẠT CỦA THUẾ
Tính linh hoạt của thuế thể hiện ở sự dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ quản lý, tăng khả năng thu
nộp thuế vào ngân sách nhà nước và khả năng thích ứng của thuế, phù hợp với sự thay
đổi của từng hoàn cảnh kinh tế (sự ổn định).
Bên cạnh tính hiệu quả và công bằng của thuế thì tính linh hoạt cũng là một tiêu thức để
xây dựng một hệ thống thuế. Tính chất này thường thuộc về kỹ thuật xây dựng văn bản
pháp luật thuế sao cho mạch lạc, rõ ràng từng nội dung và đảm bảo tính hệ thống chặt
chẽ, các từ dùng trong văn bản phổ thông dễ hiểu và hiểu đúng từng quy định mới thống
nhất và dễ kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành luật thuế trong thực tiễn.
Tính linh hoạt này được thể hiện trong các quy định về thủ tục đăng ký, kê khai, nộp
thuế,…..và khả năng quả lý của cơ quan thuế. Khi năng lực quản lý thuế còn hạn chế,
phương tiện quản lý còn chủ yếu là thủ công và phương thức quản lý thuế lạc hậu thì vừa
gây khó khăn cho người nộp thuế và gây cực nhọc cho cán bộ thuế mà kết quả lại không
cao. Vì vậy để nâng cao khả năng quản lý và khả năng thu nộp thuế vào ngân sách nhà
nước cần áp dụng công nghệ tin học vào việc quản lý và thu nộp thuế. Việc áp dụng công
nghệ tin học vào cách thức thu nộp thuế và quản lý giúp cho can bộ thuế cũng như người
nộp thuế giảm được khó khăn về thuế.
Ngoài việc, giải quyết sự khó khăn trong việc quản lý và thu nộp thuế thì trong quá trình

xây dựng một hệ thống thuế không thể thiếu việc xem xét khả năng thích ứng của thuế
phù hợp với sự thay đổi của từng hoàn cảnh kinh tế. Để xây dựng một hệ thống thuế hoàn
chỉnh rất là khó và được áp dụng trong một thời gian dài đòi hỏi người xây dựng phải có
một cái nhìn toàn diện và dài hạn nhằm đón trước được xu hướng vận động của nền kinh
tế quốc dân, để khi luật thuế được ban hành ra sẽ thích ứng với từng hoàn cảnh kinh tế
trong thời gian dài đây cũng được xem như là sự ổn định của thuế. Vì vậy,khả năng thích


ứng của thuế được hiểu như là sự ổn định của thuế tức là hệ thống thuế được ban hành và
thực thi trong thực tiễn trong một thời gian thích hợp, hạn chế việc sửa đổi, bổ sung từng
luật thuế một cách thường xuyên, ban hành thuế mới phải thông báo trước và có thời gian
chuẩn bị thích hợp.
Sự ổn định của hệ thống thuế (khả năng thích ứng của hệ thống thuế) là một đòi hỏi chính
đáng từ phía người thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và yêu cầu ổn định kinh tế vĩ mô. Đây
cũng là điều kiện quan trọng để ổn định môi trương đầu tư, kinh doanh, đảm bảo điều
kiện đề các cá nhân, tổ chức lựa chọn kinh doanh và quyết định đầu tư.
Vậy, các tiêu thức hiệu quả, công bằng, linh hoạt là rất cấp thiết và quan trọng trong việc
xây dựng hệ thống thuế cho một quốc gia. Và điều đó đã được chứng minh trong thực
tiễn áp dụng hệ thống thuế. Vì vậy các quốc gia trên thế giới luôn nghiên cứu cải cách
hoàn thiện hệ thống thuế nước mình ngày càng tối ưu.
IV.TÍNH ĐƠN GIẢN
Hệ thống thuế phải đơn giản về hành chính để dễ dàng quản lí và tiết kiệm chi phí. Chi
phí liên quan đến việc quản lí thuế bao gồm:
+chi phí quản lí hành chình thuế(chi phí trực tiếp)
+chi phí tuân thủ( chi phí gián tiếp)
Từ quan điểm của chính phủ,một hệ thống thuế tốt phải thuận lợi cho người quản lí
thu.đặc biệt là chình phủ nên có phương pháp thu thuế thật đơn giản để cho tất cả người
nộp thuế có thể hiểu,qua đó họ hợp tác trong việc thi hành thuế
Phương pháp thu thuế không nên quá xoi mói tính riêng tư của người nộp thuế
Sử dụng phương pháp ở khâu kinh doanh sẽ giúp cho cơ quan thuế thu thuế gián thu dễ

hơn,trong đó xác lập trách nhiệm rõ ràng của các doanh nghiệp trong việc nộp thuế hơn
là so với những người tiêu dung


Ngoài ra tính đơn giản của một hệ thống thuế còn thể hiện ở sự dễ hiểu,dễ thực hiện,dễ
quản lí…
NÓI CHUNG: một hệ thống thuế tốt nên tiết kiệm chi phí hành thu cho chính phủ và tiết
kiệm thời gian,chi phí cho người nộp thuế.
LỢI ÍCH: một hệ thống thuế đơn giản góp phần khắc phục đáng kể tình trạng trốn thuế và
tránh thuế.
V. CÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM
Thuế là một công cụ tài chính vô cùng quan trọng, gắn liền với sự tồn tại và
phát triển của nhà nước. Đánh thuế không đơn thuần để tạo ngân sách chính phủ
mà còn mang nhiều ý nghĩa quan trọng về kinh tế, chính trị và xã hội. Một hệ thống
thuế hữu hiệu không chỉ củng cố nguồn lực tài chính công, kích thích tăng trưởng
kinh tế của quốc gia mà còn góp phần tăng cường khả năng cạnh tranh và hội nhập
của nền kinh tế.

Cải cách hệ thống chính sách thuế là một việc làm cần thiết của Chính phủ và gắn
liền với đời sống kinh tế - xã hội của một đất nước nhằm đưa hệ thống thuế tương thích
với thông lệ của cộng đồng thế giới và điều chỉnh thuế phù hợp với những thay đổi căn
bản trong từng giai đoạn thực tiễn của nền kinh tế.
Nhận thức được tầm quan trọng này, cùng với xu thế hội nhập, liên kết phát triển kinh tế
trong khu vực và tiến tới toàn cầu hóa kinh tế, ngay từ những năm 1986, cùng song hành
với đường lối đổi mới, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều nỗ lực trong việc cải cách
chính sách, đặc biệt là chính sách thuế. Từ đó đến nay, hệ thống thuế Việt Nam đã liên tục
được cải cách để dần dần hoàn thiện và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trong bài viết này, chúng tôi không nhắm tới mục tiêu phân tích chính sách thuế mà chỉ
phác thảo những nét cơ bản về các bước cải cách thuế Việt Nam thời gian vừa qua cũng
như chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011-2020, trong nỗ lực của Chính phủ về việc

định hình hệ thống thuế khóa Việt Nam theo hướng hiện đại.


1. Cải cách Thuế giai đoạn 1990 – 1995 (Cải cách Thuế bước I)
Từ năm 1990 trở về trước, chính sách thuế chỉ được ban hành chủ yếu thông qua
Pháp lệnh hoặc Nghị định, chưa phù hợp với tính chất pháp lý theo quy định trong Hiến
pháp về thuế. Do đó, yêu cầu đổi mới hệ thống chính sách thuế trong giai đoạn này
là phải lần lượt xây dựng và ban hành thành một hệ thống các Luật thuế, áp dụng thống
nhất trong cả nước.
Trên tinh thần này, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã có Quyết định số 05-CT ngày
12/01/1989 thành lập "Tổ chỉ đạo soạn thảo dự án luật mới về các loại thuế" để chuẩn bị
cho công tác nghiên cứu, soạn thảo các luật thuế mới. Công việc nghiên cứu được khẩn
trương triển khai, các dự án thuế đã được đưa ra bàn bạc, thảo luận và thông báo công
khai để tranh thủ ý kiến tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân. Kết quả được thể
hiện qua các Luật thuế và các Pháp lệnh thuế trình lên Chính phủ, Hội đồng Nhà nước và
Quốc hội xem xét, lần lượt thông qua và ban hành trong giai đoạn này:

Ngày ban hành
Sắc thuế

1
2
3
4
5
6
7
8

Luật thuế doanh thu

Luật thuế tiêu thụ đặc biệt
Luật thuế lợi tức
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp
Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất
Pháp lệnh thuế tài nguyên
Pháp lệnh thuế thu nhập đối với

người có thu nhập cao
9 Pháp lệnh thuế nhà đất

Hình thức

Hình thức

Luật

Pháp lệnh

30/06/1990
30/06/1990
30/06/1990
26/12/1991
10/03/1993
01/07/1994
30/03/1990
27/12/1990
31/07/1992



Riêng về thuế vốn, thực chất trước mắt là khoản thu trên vốn Ngân sách Nhà nước
cấp, chỉ áp dụng trong phạm vi hẹp đối với khu vực quốc doanh, không phải là thuế nên
Hội đồng Nhà nước giao cho Chính phủ ban hành dưới hình thức Nghị định.
Kết thúc cải cách bước I, hệ thống thuế Việt Nam về cơ bản bao gồm 12 sắc thuế lớn và
một số loại phí, lệ phí; trong đó, nguồn thu chủ lực là thuế doanh thu, thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế lợi tức.
Cải cách Thuế bước I đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, được nhận định rằng:
Thuế bước đầu đã phát huy vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo nguồn thu ngày càng to
lớn cho Ngân sách Nhà nước. Cải cách Thuế bước I đã làm cho thuế có cơ sở pháp luật
vững chắc, áp dụng bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thay
thế hẳn hệ thống thu cũ (Hồ Xuân Phương và Nguyễn Công Nghiệp_Viện Nghiên cứu Tài
chính_Bộ Tài chính_2001).
Kết quả sau 5 năm thực hiện cải cách Thuế bước I

Năm
1991
1992
1993
1994
1995

Số thu thuế
(Tỷ đồng)
9.844
18.516
29.233
37.206
53.374

% thuế trong

tổng thu
NSNN
95
88
90
89
94

% tăng thuế

% tăng

thu NSNN

GDP

169,6
188,1
157,9
127,3
134,9

6,0
8,6
8,1
8,8
9,5

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu Bộ Tài chính
Hệ thống thuế giai đoạn này tuy được coi là có những tiến bộ đáng kể: Tạo khuôn

khổ pháp lý vững chắc cho các hoạt động của nền kinh tế và tài khóa quốc gia, thuế
chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu Ngân sách nhà nước, tốc độ tăng trưởng của GDP
lẫn thuế thu đều cao. Tuy nhiên, vẫn còn những bất cập nhất định: Chưa bao quát các


nguồn thu phát sinh trong nền kinh tế thị trường; hệ thống chính sách thuế còn chưa phù
hợp với thông lệ quốc tế, chưa đảm bảo được tính tương thích với các nền kinh tế thị
trường trong khu vực; các sắc thuế dù đã được sửa đổi, bổ sung vẫn chưa đạt được mục
tiêu đơn giản và rõ ràng.
2. Cải cách Thuế giai đoạn 1996 – 2004 (Cải cách Thuế bước II)
Những bất cập của cải cách Thuế bước I, cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng
của nền kinh tế là tiền đề đưa Việt Nam bước vào cuộc cải cách hệ thống Thuế bước II.
Mục tiêu của đợt cải cách này là củng cố hiệu lực thu bằng cách tăng cường quản lý và
chống thất thu; xây dựng nền ngân sách dựa vào nội lực; chuẩn bị hội nhập kinh tế khu
vực.
Để đạt được mục tiêu này, cần phải xây dựng các sắc thuế tương thích với cộng đồng thế
giới; đồng thời điều chỉnh, bổ sung các sắc thuế hiện hành để phù hợp với tình hình phát
triển kinh tế.
Chính sách thuế trong giai đoạn này có nhiều thay đổi đáng lưu ý:
- Ban hành Luật thuế giá trị gia tăng số 02/1997/QH9 (thay thế cho Luật thuế doanh thu)
và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 57-L/CTN (thay thế cho Luật thuế lợi tức) có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/1999 (theo Nghị quyết Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 11 ngày
10/05/1997). Đây là hai luật thuế cơ bản quan trọng điển hình cho hai loại thuế: Thuế
gián thu (thuế giá trị gia tăng) và thuế trực thu (thuế thu nhập doanh nghiệp). Phạm vi
điều chỉnh của hai sắc thuế này khá rộng, tác động đến nhiều mặt kinh tế xã hội. Đây có
thể coi là bước đột phá quan trọng nhất của công cuộc cải cách Thuế bước II.
- Ban hành Pháp lệnh thuế tài nguyên (sửa đổi) số 05/1998/PL-UBTVQH (ngày
16/04/1998) thay thế Pháp lệnh thuế tài nguyên ban hành ngày 30/03/1990.
Đồng thời cải cách Thuế bước II cũng thực hiện sửa đổi, bổ sung một số nội dung các
luật thuế hiện hành như:

- Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao được sửa đổi, bổ sung
hai lần (ngày 06/02/1997 và ngày 30/06/1999).
- Luật thuế xuất nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt (theo Nghị quyết Quốc hội khoá X,
kỳ họp thứ 3, ngày 20/05/1998, có hiệu lực từ ngày 01/01/1999).


- Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất (theo Lệnh số 03L.CTN, kỳ họp thứ 6, Quốc hội
khoá X ngày 04/01/2000).
Bên cạnh đó là các quy định chung về lệ phí, phí: Ngoài các khoản thuế, lệ phí và
phí do Chính phủ ban hành chính thức, nhân dân còn phải đóng góp nhiều khoản do các
ngành, các cấp tuỳ tiện đặt ra, với tên gọi khác nhau, mức thu quy định tuỳ tiện và không
sử dụng chứng từ do Bộ Tài chính quy định nhằm giấu nguồn thu, tránh sự kiểm tra, kiểm
soát, dẫn đến tiêu cực, lãng phí, làm giảm lòng tin của dân vào chính sách động viên
đóng góp của Nhà nước. Do đó, ngày 28/07/1992, Hội đồng Bộ trưởng đã có Quyết định
số 276/CT giao cho Bộ Tài chính thống nhất quản lý các khoản lệ phí và phí, nhờ vậy, đã
bảo đảm được thêm nguồn thu về lệ phí và phí tập trung vào Ngân sách Nhà nước.
Giai đoạn II của chiến lược cải cách thuế được tiến hành trong bối cảnh tình hình kinh tế
có nhiều thay đổi, lúc này Việt Nam đã bắt đầu tham gia vào các Hiệp định thương mại
quốc tế và song phương. Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, trong đó có
chính sách mở cửa hợp tác kinh tế với các nước để góp phần nâng cao khả năng cạnh
tranh, nâng cao năng lực sản xuất, khả năng xuất khẩu và hiệu quả phát triển kinh tế, Việt
Nam bắt đầu tiến hành đàm phán các thỏa thuận quốc tế về thuế:
Hiệp định tránh đánh thuế hai lần
Có thể nói đây là nội dung cơ bản đầu tiên để hình thành những chế định về thuế quốc tế
ở Việt Nam. Mục tiêu của các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần nhằm loại bỏ việc đánh
thuế trùng, bên cạnh đó, Hiệp định còn tạo khuôn khổ pháp lý cho việc hợp tác và hỗ trợ
lẫn nhau giữa cơ quan thuế Việt Nam và các nước trong công tác quản lý thuế quốc tế
nhằm ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và vào tài sản.
Hiệp định tránh đánh thuế hai lần đầu tiên của chúng ta là ký kết với Autralia ngày
13/10/1992 và cho đến nay (năm 2012), Việt Nam đã ký kết hiệp định này với hơn 60

quốc gia trên thế giới.
Cam kết về giảm thuế nhập khẩu với ASEAN
Đây là thỏa thuận quốc tế cam kết với ASEAN với nội dung giảm thuế nhập khẩu theo
Hiệp định về chương trình ưu đãi về thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) kể từ khi Việt
Nam trở thành thành viên của ASEAN ngày 28/07/1995.


Các thoả thuận quốc tế khác về thuế
Tiếp tục thực hiện chủ trương của Đảng về mở cửa, hội nhập kinh tế với khu vực và thế
giới, Tổng cục thuế đã nghiên cứu xây dựng trình Bộ Tài chính và Chính phủ những
phương án cam kết giảm thuế với các tổ chức quốc tế và quốc gia, tiêu biểu là:
- Chương trình hành động của quốc gia (IAP) để thực hiện tự do hoá thương mại vào năm
2000 với mức thuế nhập khẩu là 0% theo cam kết để trở thành thành viên của Diễn đàn
hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) ngày 14/11/1998.
- Những cam kết ràng buộc các mức thuế nhập khẩu và giảm dần theo hướng mở cửa thị
trường khi gia nhập WTO.
Mức độ cam kết của các thỏa thuận này là khác nhau, nhưng đều có điểm chung là cắt
giảm hàng rào thuế quan để hướng tới mục tiêu tự do hoá thương mại.
Nhìn chung, cải cách Thuế bước II về cơ bản đã đạt được những mục tiêu đề ra ban đầu.
Tuy nhiên, hệ thống chính sách thuế vẫn chưa thực sự phát huy được sức mạnh của một
công cụ quản lý và điều tiết chủ đạo của nhà nước đối với nền kinh tế. Những nhược
điểm chủ yếu tập trung vào mặt kỹ thuật và quy trình quản lý thu thuế; bên cạnh đó, Việt
Nam đang bước những bước chủ động trên hành trình hội nhập quốc tế, đây chính là tiền
đề bắt đầu chặng đường cải cách Thuế bước III.
3. Cải cách Thuế giai đoạn 2005 – 2010 (Cải cách Thuế bước III)
Chương trình cải cách thuế giai đoạn này được thực hiện trong bối cảnh thế giới đi
vào kỷ nguyên công nghệ thông tin, khoảng cách giữa các nước được thu lại gần nhau
hơn trong một thị trường rộng mở, điều này tất yếu có nhiều tác động đến chính sách thuế
của từng nước. Do đó, xu hướng vận động của hệ thống thuế thế giới buộc chính sách
thuế Việt Nam phải cải cách để duy trì sự ổn định. Bên cạnh đó, những chủ trương của

Đảng và Nhà nước hướng đến thiết lập tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
cũng ảnh hưởng nhiều đến bước cải cách thuế lần này.
Ngày 06/12/2004 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 201/2004/QĐ-TTg về
việc phê duyệt chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010. Mục tiêu của cải
cách thuế giai đoạn này là: “Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp
lý phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với hiện đại hoá


công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân, đảm bảo
nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần
thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội và chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế”.
Ở giai đoạn này, nền kinh tế đã có những bước phát triển đặc biệt, việc thực hiện các cam
kết quốc tế đa phương và song phương dẫn đến sự cắt giảm đáng kể nguồn thu từ thuế
nhập khẩu, hiện chiếm tỷ trọng khoảng 30% trên tổng số thu về thuế, nên nội dung cụ thể
của cải cách Thuế bước III hướng đến việc sửa đổi các sắc thuế hiện hành và ban hành
những loại thuế mới như thuế thu nhập cá nhân, theo xu hướng tăng dần tỷ trọng thuế
trực thu, tương ứng giảm dần tỷ trọng thuế gián thu; phù hợp với giai đoạn hội nhập và
thực hiện các cam kết quốc tế.
Theo đó, hệ thống chính sách thuế trong giai đoạn này có những bước cải cách
như sau:
Công tác quản lý thuế:
Luật quản lý thuế ra đời, có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 (Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ
10 ngày 29/11/2006) quy định đầy đủ các nội dung của công tác quản lý thuế, có phạm vi
điều chỉnh thống nhất đối với toàn bộ các loại thuế (thuế nội địa và thuế đối với hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu), các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước do cơ quan quản lý
thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật.
Thuế giá trị gia tăng:
Ban hành Luật thuế giá trị gia tăng ngày 03/06/2008 (số 13/2008/QH12), có hiệu lực từ
ngày 01/01/2009 trên cơ sở thống nhất các văn bản luật trước đây (Luật thuế giá trị gia
tăng năm 1997, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng năm 2003,

Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia
tăng năm 2005) và đưa ra một số quy định mới nhằm phù hợp với thực tiễn nền kinh tế
trong giai đoạn này.
Thuế thu nhập doanh nghiệp:
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 được ban hành ngày 03/06/2008, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/04/2009 thay thế cho Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm
2003; có nhiều điểm mới phù hợp với thông lệ quốc tế.


Thuế thu nhập cá nhân:
Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ra đời ngày 21/11/2007, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2009 bãi bỏ Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
trước đây, tạo khuôn khổ pháp luật vững chắc thực hiện thuế thu nhập cá nhân.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 ngày 14/06/2005, có
hiệu lực từ ngày 01/01/2006, thay thế cho Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2001
để phù hợp với các cam kết quốc tế về cắt giảm thuế nhập khẩu.
Thuế tiêu thụ đặc biệt:
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 27/2008/QH12 ngày 14/11/2008, có hiệu lực từ ngày
01/04/2009 được ban hành thay thế cho Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1998 và các văn
bản có liên quan, tạo cơ sở pháp lý thống nhất và hoàn thiện hơn để thực hiện sắc thuế
này.
Thuế tài nguyên:
Ban hành Luật thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 ngày 25/11/2009, có hiệu lực từ ngày
01/07/2010, thay thế cho Pháp lệnh thuế tài nguyên trước đây, đây là khuôn khổ pháp lý
vững chắc để thuế tài nguyên được thực hiện.
Như vậy, trong giai đoạn này, chương trình cải cách thuế đến năm 2010 cơ bản hoàn
thành định hướng ban hành những loại thuế mới; và sửa đổi, bổ sung các sắc thuế chủ
yếu hiện hành để phù hợp với giai đoạn hội nhập kinh tế, thực hiện các cam kết quốc tế
hướng đến thương mại tự do thông qua tỷ trọng các loại thuế trực thu trong tổng thu thuế.

4. Cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020
Ngày 17/05/2011 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 732/QĐ-TTg về việc phê
duyệt chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020. Mục tiêu tổng quát của
chiến lược được xác định là: “Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất,
công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong
những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước. Xây


dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; công tác quản lý thuế, phí và lệ
phí thống nhất, minh bạch, đơn giản,dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản:
thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học
phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính; ứng dụng công
nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao.”
Trong giai đoạn này, có hai sắc thuế mới bắt đầu hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2012:
- Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7 ngày
17/06/2010 thông qua.
- Luật thuế bảo vệ môi trường được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 ngày 15/11/2010
thông qua. Đây là loại thuế mới trong hệ thống thuế hiện hành, thay thế cho việc áp dụng
một số loại phí (như phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, phí bảo vệ môi trường đối
với chất thải rắn,…).
Hệ thống chính sách thuế bao gồm các sắc thuế, phí và lệ phí:
(1) Thuế giá trị gia tăng
(2) Thuế tiêu thụ đặc biệt
(3) Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
(4) Thuế thu nhập doanh nghiệp
(5) Thuế thu nhập cá nhân
(6) Thuế tài nguyên
(7) Thuế sử dụng đất nông nghiệp

(8) Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
(9) Thuế bảo vệ môi trường
(10) Các khoản phí và lệ phí
Yêu cầu cụ thể về cải cách thuế giai đoạn 2011-2020:
- Ban hành mới Luật phí, lệ phí thay thế cho Pháp lệnh phí, lệ phí hiện hành; chuyển thuế
môn bài thành một khoản thu lệ phí quản lý hoạt động kinh doanh hàng năm.


- Hoàn thiện các chế độ, chính sách thu ngân sách nhà nước từ tài nguyên, khoáng sản
quốc gia như: thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thu đấu giá quyền khai thác khoáng
sản từ thu dầu khí.
- Sửa đổi bổ sung Luật quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành luật.
- Cải cách theo nội dung cụ thể đối với từng sắc thuế như: Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu
thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập
cá nhân, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp, thuế bảo vệ môi trường, các khoản thu từ đất, các khoản thu từ thăm dò, khai thác
và sử dụng tài nguyên, phí, lệ phí.
Sau trên hai mươi năm thực hiện cải cách, trải qua nhiều lần điều chỉnh, sửa đổi và
bổ sung để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, đến nay, các luật thuế nhìn chung đã
phát huy cao tác dụng. Trong chủ trương hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam,
ngành thuế vẫn tiếp tục hành trình cải cách để xây dựng hệ thống thuế khóa Việt Nam
theo hướng hiện đại và phù hợp với thông lệ quốc tế.



×