Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN lực CHẤT LƯỢNG CAO NGÀNH NÔNG NGHIỆP TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.26 KB, 98 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1:

1.1.
1.2.

Chương 2:

2.1.

2.2.

Chương 3:

3.1.

3.2.

3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO NGÀNH
NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH THÁI BÌNH
Những vấn đề chung về nguồn nhân lực nông nghiệp
và nguồn nhân lực chất lượng cao ngành nông nghiệp
Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành nông
nghiệp ở tỉnh Thái Bình
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC CHẤT LƯỢNG CAO NGÀNH NÔNG


NGHIỆP Ở TỈNH THÁI BÌNH THỜI GIAN QUA
Thành tựu và hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ngành nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình
thời gian qua
Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế và những
vấn đề đặt ra trong phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ngành nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO NGÀNH NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH
THÁI BÌNH THỜI GIAN TỚI
Quan điểm cơ bản phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ngành nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình thời
gian tới
Giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ngành nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình thời
gian tới

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU

11
11

23

37


37

52

62

62

69
91
93
97


1. Lý do chọn đề tài
Nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng đối với nước ta. Theo quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát triển nông nghiệp được coi là gốc, là
mặt trận chính, mặt trận hàng đầu và là việc quan trọng nhất… Người cho
rằng: Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế lấy canh nông
làm gốc, do vậy: “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì
nước ta thịnh” [26, tr.215].
Đảng ta xác định: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược
trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực
lượng quan trọng để phát triển KT-XH bền vững, giữ vững ổn định chính trị,
đảm bảo an ninh, quốc phòng.
Để phát triển một nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền
vững, trong điều kiện KH, CN, đặc biệt là công nghệ sinh học phát triển như vũ
bão thì việc phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp là một yêu cầu tất yếu
khách quan, là khâu đột phá quyết định thành công quá trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện hoạt động sản xuất nông nghiệp từ thủ công, nhỏ lẻ, mạnh mún là chủ

yếu sang sử dụng công nghệ hiện đại, phương tiện và phương pháp tiên tiến, để
tạo ra năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, rút ngắn khoảng cách
tụt hậu về khoa học, công nghệ và năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp
nước ta so với các nước tiên tiến trên thế giới.
Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh một trong ba khâu đột phá để thực hiện
thành công Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020 là: “Phát triển và nâng
cao chất lượng NNL, nhất là NNLCLC là một đột phá chiến lược, là yếu tố
quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại
nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng
nhất bảo đảm cho phát triển nhanh và bền vững” [12, tr.130].

3


Tỉnh Thái Bình có điều kiện tự nhiên và xã hội rất thuận lợi cho phát
triển nông nghiệp. Trong những năm qua NNLCLC ngành nông nghiệp đã
phát huy tốt vai trò là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong khai thác các tiềm
năng, lợi thế, trong quản lý, nghiên cứu và ứng dụng KH, CN vào sản xuất
nông nghiệp đem lại năng suất, chất lượng cao. Do vậy, phát triển NNLCLC
nói chung và NNLCLC ngành nông nghiệp nói riêng luôn được các cấp ủy
Đảng, chính quyền Tỉnh quan tâm và xác định là một trong ba đột phá chiến
lược để tăng trưởng, phát triển kinh tế giai đoạn 2011-2020.
Tuy nhiên, phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp ở Thái Bình vẫn còn
hạn chế như số lượng và chất lượng còn thấp, cơ cấu chưa hợp lý, chính sách
thu hút và đãi ngộ nhân tài còn bất cập, việc thu hút các doanh nghiệp đầu tư
vào phát triển nông nghiệp còn ít...
Hiện nay nhu cầu sử dụng NNLCLC đang trở nên cấp thiết đối với các
ngành kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng. Phát triển NNLCLC ngành
nông nghiệp ở Thái Bình đang đặt ra những đòi hỏi cấp bách cả về lý luận và
thực tiễn để đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

và tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Vì vậy tác giả chọn nội dung phát triển
NNLCLC ngành nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình làm đề tài của luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong thời đại ngày nay, cùng với KH, CN, phát triển NNLCLC được
xem là nguồn gốc, sức mạnh của mỗi quốc gia khi hội nhập quốc tế. Vì vậy,
đây là vấn đề thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả và
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Tiêu biểu có một số công trình
nghiên cứu sau đây.
* Nhóm công trình nghiên cứu đề cập về phát triển nguồn nhân lực,
nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung
Lê Thị Hồng Điệp (2005), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để
hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế chính trị,

4


Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học Quốc gia, Hà
Nội. Luận án trình bày những khái niệm cơ bản như: NNL, NNLCLC, đặc
điểm NNLCLC của nước ta, vấn đề phát triển NNLCLC; phân tích những
vấn đề gia tăng dân số, cơ cấu NNL, tỷ lệ nhân lực KH, CN, đặc điểm, yêu
cầu của kinh tế tri thức đối với NNLCLC; đề xuất những giải pháp cơ bản
nhằm phát triển NNLCLC để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Phạm Thành Nghị, (2007), Nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, Hà Nội. Cuốn sách đã đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản về
NNL và quản lý NNL; phân tích hiệu quả quản lý NNL và những yếu tố tác
động đến quản lý NNL nước ta trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
Phạm Minh Hạc (2008), Phát triển con người, nguồn nhân lực-quan niệm
và chính sách, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây là bài tham luận
được biên tập trong cuốn Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra trong tình

hình hiện nay. Tác giả đã trình bày một số vấn đề cơ sở lý luận về phát triển con
người; đưa ra khái niệm về NNL, nhân tài, đội ngũ lao động; phân tích một số
nét thực trạng và đề xuất một số biện pháp phát triển NNL đất nước.
Nghiêm Đình Vỳ, (2008), Phát triển nguồn nhân lực ở một số nước.
Kinh nghiệm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây là bài tham luận được biên
tập trong cuốn Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra trong tình hình
hiện nay. Bài viết trình bày kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát
triển, các nước (NICs ) Châu Á về đào tạo và phát triển NNL, đi sâu đánh
giá thực trạng và những chính sách nhằm thúc đẩy mạnh phát triển NNL ở
các nước trên. Trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam, tác giả tập trung nêu lên những quan điểm chỉ đạo và một số giải
pháp đào tạo và phát triển NNL của Việt Nam hiện nay.

5


Dương Văn Quảng, Bành Tiến Long, Trịnh Đức Dụ (2009), Đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ hội nhập quốc tế, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.
Cuốn sách tập hợp những bài viết về đào tạo NNL phục vụ hội nhập quốc tế,
đặc biệt là NNL chất lượng cao, nhiều bài đã phân tích, đánh giá thực trạng
NNL, chỉ ra hạn chế, bất cập của NNL nước ta trước đòi hỏi của hội nhập
quốc tế, làm rõ những vấn đề hạn chế do giáo dục đào tạo, xác định những
vấn đề cơ bản đối với giáo dục đào tạo NNL phục vụ hội nhập quốc tế.
Chu Văn Cấp (2012), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao góp
phần phát triển bền vững Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 9 (839). Bài viết
đã trực tiếp bàn về những vấn đề lý luận, thực tiễn cơ bản của việc phát triển
NNLCLC góp phần phát triển bền vững Việt Nam trong thời kỳ mới, đồng
thời kiến nghị một số giải pháp cho vấn đề này.
Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng (2012), Phát triển nguồn nhân lực đáp

ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trình bày một số khái niệm cơ bản về nhân lực,
NNL, phân tích đặc điểm của NNL Việt Nam, những vấn đề cơ bản để phát
triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Đây là cuốn
sách có giá trị tham khảo trong nghiên cứu và trong chỉ đạo thực tiễn phát
triển nguồn nhân lực nước ta hiện nay.
Đường Vĩnh Sường (2012), “Giáo dục, đào tạo với phát triển nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Cộng
sản, (833); Bài báo phân tích vai trò của NNLCLC, đánh giá thực trạng
NNL và NNLCLC ở nước ta, phân tích một số hạn chế, yếu kém của NNL
nước ta so với một số nước khác trong khu vực và thế giới, đưa ra những
giải pháp chính về giáo dục và đào tạo để phát triển NNLCLC phục vụ sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án đã cho
thấy bức tranh khá đầy đủ và toàn diện cả lý luận và thực tiễn về NNL,
NNLCLC, về phát triển NNLCLC cho phát triển KT-XH ở nước ta.

6


Nhiều công trình nghiên cứu khẳng định NNLCLC là vấn đề có tầm
quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển của các quốc gia, là động lực
phát triển KT-XH. Nhiều công trình khẳng định, mỗi giai đoạn khác nhau thì
yêu cầu về NNLCLC đặt ra có sự khác nhau, mỗi loại nhân lực chất lượng
cao có yêu cầu cụ thể riêng về tiêu chí chất lượng, phẩm chất, năng lực, phù
hợp với đặc điểm, tính chất, chức năng, nhiệm vụ của từng loại NNL. Nhiều
công trình khẳng định tính tất yếu của việc phát triển NNLCLC đáp ứng
nhiệm vụ phát triển KT-XH trong thời kỳ mới, chỉ rõ yêu cầu đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi bức thiết phải có NNLCLC
đủ sức, đủ tầm thực hiện thắng lợi sự nghiệp ấy.

* Nhóm công trình nghiên cứu đề cập về phát triển nguồn nhân lực
nông nghiệp, nông thôn ở một số địa phương và ở tỉnh Thái Bình
Nguyễn Ngọc Tú (2006), Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ kinh tế,
Học viện Chính trị. Luận văn đề cập tới yếu tố NNL ở Bắc Ninh, vị trí, vai trò
của NNL trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói chung, đồng
thời đi vào đánh giá thực trạng và đưa ra những quan điểm giải pháp phát triển
NNL trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh. Tuy
nhiên, luận văn chưa đưa ra được quan niệm riêng cũng như chưa đánh giá hết
được vai trò, tầm quan trọng của NNLCLC nói chung và NNLCLC ngành
nông nghiệp nói riêng, do vậy chưa đề xuất được những quan điểm và giải
pháp có tính đột phá để phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp trong quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Ninh.
Phí Văn Hạnh (2010), “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái Bình hiện nay” , Luận
văn thạc sỹ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị. Luận văn đã đưa ra một số
quan niệm về NNL, phát triển NNL phục vụ cho CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở tỉnh Thái Bình, đồng thời chỉ rõ thực trạng, nguyên nhân, nhu cầu
cấp thiết và đề xuất một số giải pháp để phát triển NNL ở Thái Bình. Tuy nhiên

7


luận văn cũng chưa đưa ra được quan niệm cụ thể về NNLCLC ngành nông
nghiệp, chưa chỉ ra được thực trạng cũng như quan điểm và giải pháp phát triển
NNLCLC ngành nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình trong thời gian tới.
Phạm Quang Huy (2010), “Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực nông
thôn tỉnh Thái Bình”, luận văn thạc sỹ kinh tế nông nghiệp, Trường đại học
Nông nghiệp Hà Nội. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là NNL đang sinh
sống, lao động ở khu vực nông thôn, trong đó bao gồm cả NNL nông nghiệp.

Tuy nhiên luận văn chưa đi sâu phân tích làm rõ về NNL nông nghiệp cũng chưa
đưa ra những quan điểm và giải pháp cụ thể để phát triển NNL nông nghiệp.
Phí Thị Hằng (2014), Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở Thái
Bình trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án tập trung làm rõ thực trạng chuyển dịch cơ
cấu lao động theo ngành ở tỉnh Thái Bình trong thời gian qua, chỉ ra được
nguyên nhân và đề xuất một số định hướng, dự báo về chuyển dịch cơ cấu lao
động theo ngành tại địa phương đến năm 2020 cùng các giải pháp thực hiện.
Như vậy, xét cả về đối tượng và phạm vi địa phương, các công trình
nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về NNL cho sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói chung, chưa có đề tài và công
trình nghiên cứu nào về phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp. Vì vậy
đề tài mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu hoàn toàn không trùng lặp với
các công trình, đề tài đã được công bố trước đó và đây cũng là nội dung
mới, một đòi hỏi cấp thiết cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn đối với tỉnh Thái
Bình hiện nay trong sự nghiệp phát triển ngành nông nghiệp theo hướng
hiện đại, công nghệ cao.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp
ở tỉnh Thái Bình, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển
NNLCLC ngành nông nghiệp trên địa bàn Tỉnh thời gian tới.

8


* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp ở tỉnh
Thái Bình.
Đánh giá thực trạng phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp ở tỉnh Thái

Bình, chỉ rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần
tiếp tục giải quyết.
Đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu phát triển NNLCLC
ngành nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu sự phát triển của NNLCLC ngành nông
nghiệp đã qua đào tạo có trình độ từ trung cấp trở lên trên các mặt số lượng,
chất lượng và cơ cấu trên địa bàn Tỉnh.
- Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2005 đến nay, đặc biệt trong thời
gian thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVIII
(2010-2015).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tác giả đứng trên lập trường duy
vật để luận giải cơ sở lý luận phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp và
đánh giá, xem xét các hiện tượng, các vấn đề thực tiễn của quá trình phát
triển NNLCLC ngành nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên đặc thù của kinh tế chính trị
Mác-Lênin (trừu tượng hóa khoa học) làm phương pháp nghiên cứu chủ

9


đạo. Kết hợp với các phương pháp khác như: Hệ thống hóa, thống kê, lôgic, so
sánh, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn và phương pháp chuyên gia để thực

hiện mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài, góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình hiện nay, đồng
thời cung cấp những cứ liệu khoa học để các cấp lãnh đạo, các cơ quan chức
năng tham khảo, hoạch định chính sách, chiến lược phát triển NNLCLC cho
phát triển ngành nông nghiệp, đáp ứng với yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp của
Tỉnh trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài còn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn kinh tế chính trị.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, đề tài kết cấu gồm 3 chương; 6 tiết, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO NGÀNH NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH THÁI BÌNH
1.1. Những vấn đề chung về nguồn nhân lực nông nghiệp và nguồn
nhân lực chất lượng cao ngành nông nghiệp
1.1.1. Nguồn nhân lực nông nghiệp
* Nguồn nhân lực
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tài liệu đưa ra những
quan niệm khác nhau về NNL.
Quan niệm của Chủ nghĩa Mác-Lênin: Tiếp cận NNL ở góc độ vai trò
của con người (lực lượng lao động) trong LLSX. C.Mác cho rằng, chỉ có lao
động của con người mới tạo ra giá trị, nguồn gốc duy nhất của mọi của cải
trong xã hội.

Ngày nay KH, CN phát triển mạnh mẽ, máy móc được sử dụng rộng rãi
và ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Tuy nhiên, không vì thế vai
trò của con người suy giảm mà ngày càng được đề cao, nhất là người lao động
có trí tuệ, có trình độ chuyên môn cao, làm chủ KH, CN.
V.I.Lênin đã khẳng định “lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là
công nhân, là người lao động” [22, tr.430].
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng “nguồn nhân lực của một quốc gia
là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động” [50, tr.4].
Theo GS.TS Phạm Minh Hạc: “nguồn nhân lực cần được hiểu là số dân
và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí
tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nó là tổng thể
NNL hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia phát
triển KT-XH của một quốc gia hay một địa phương nào đó…” [16, tr.213].
Các quan niệm trên đã chỉ ra được những nội dung tương đối toàn diện về
NNL, trong đó đầy đủ hơn cả là quan niệm của GS.TS Phạm Minh Hạc và tác

11


giả không đưa ra quan niệm riêng về NNL mà thừa nhận quan niệm trên là
quan niệm chính về NNL của luận văn.
* Nguồn nhân lực nông nghiệp
- Các quan niệm khác nhau về NNL nông nghiệp
Việc nghiên cứu NNL nông nghiệp có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển
nông nghiệp cũng như đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Cho đến nay có nhiều tài liệu và nhiều tác giả đưa ra quan niệm về NNL nông
nghiệp cụ thể như: Chuyên đề “Kinh tế sử dụng các nguồn lực trong nông
nghiệp” của Trường đại học Kinh tế quốc dân đưa ra khái niệm về NNL nông
nghiệp dưới góc độ kỹ thuật nông nghiệp đó là: Tổng thể sức lao động tham
gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, bao gồm số lượng và chất lượng của

người lao động. Về số lượng bao gồm những người trong độ tuổi (nam từ 15
đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55) và những người trên và dưới độ tuổi nói trên
tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp [14, tr.95].
Như vậy, về lượng của NNL nông nghiệp khác ở chỗ, nó không chỉ bao
gồm những người trong độ tuổi mà bao gồm cả những người trên và dưới độ
tuổi có khả năng và thực tế tham gia lao động. Về chất lượng bao gồm thể lực
và trí lực của người lao động, cụ thể là sức khoẻ, trình độ nhận thức, trình độ
chính trị, văn hoá, nghiệp vụ và tay nghề của người lao động.
Theo PGS, TS Trần Xuân Cầu, quan niệm về NNL nông nghiệp dưới
góc độ của kinh tế nguồn nhân lực: NNL nông nghiệp là những người
trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, không kể đến trạng thái có
việc làm hay không và những người ngoài độ tuổi lao động có thể cần hay
trong tương lai sẽ tham gia vào lực lượng sản xuất nông nghiệp với tất cả
những kiến thức, kỹ năng và năng lực về chuyên môn nông nghiệp có liên
quan đến sự phát triển xã hội, ngoài ra nó còn đề cập đến vấn đề thể chất,
trình độ văn hóa...[2, tr.76].

12


- Quan niệm về NNL nông nghiệp
Kế thừa những quan niệm trên và tiếp cận ở góc độ kinh tế chính trị, luận
văn đưa ra quan niệm về NNL nông nghiệp như sau:
NNL nông nghiệp là một bộ phận nằm trong NNL của một quốc gia hay
một địa phương, bao gồm tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực và phẩm chất
đạo đức của lực lượng lao động đang trực tiếp hoặc có khả năng sẵn sàng
tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp để tạo ra của cải vật
chất và tinh thần phục vụ nhu cầu phát triển KT-XH.
Từ quan niệm trên, NNL nông nghiệp được hiểu là một bộ phận nằm
trong tổng thể NNL của một quốc gia hay một địa phương, bao gồm cả những

người trong độ tuổi quy định có khả năng lao động và những người ngoài độ
tuổi lao động (trên hoặc dưới độ tuổi lao động) đang tham gia vào quá trình sản
xuất (trực tiếp hoặc gián tiếp, ít nhiều, thường xuyên hoặc không thường
xuyên) và cả những người không tham gia nhưng có khả năng lao động và sẵn
sàng tham gia sản xuất nông nghiệp khi có nhu cầu. Về chất lượng, đó là tổng
hợp những yếu tố về thể lực, trí lực và phẩm chất đạo đức, tác phong làm việc,
kỷ luật lao động và những kinh nghiệm sống, làm việc của NNL nông nghiệp.
- Đặc điểm của NNL nông nghiệp
NNL nông nghiệp có quy mô lớn, đang trong giai đoạn giảm về số lượng
tương đối nhưng vẫn tăng về số lượng tuyệt đối
Việt Nam là một nước nông nghiệp, phần lớn lao động sống ở nông thôn
và làm nông nghiệp, do vậy NNL nông nghiệp ở nước ta có quy mô rất lớn.
Năm 2014 quy mô dân số của nước ta là 90,73 triệu người, đứng thứ 13 thế
giới, thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Lực lượng lao động
từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế hết năm 2014 khoảng
53 triệu người; hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước
vào tuổi lao động. Trong đó, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm
việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 46,6% tổng số lao

13


động cả nước [42, tr.42]. NNL nông nghiệp nước ta đang trong giai đoạn đẩy
nhanh quá trình CNH, HĐH nên có xu hướng giảm nhanh về mặt tương đối,
nhưng số lượng tuyệt đối vẫn tăng. Trong giai đoạn 2005-2013, tỷ trọng lao
động nông nghiệp xét về mặt tương đối, giảm từ 55,1% xuống còn 46,6%,
nhưng số lượng tuyệt đối lại tăng từ 23563,2 triệu người lên 24440,2 triệu
người [41, tr.98].
Trong những năm tới, NNL nông nghiệp có xu hướng thu hẹp về quy
mô do sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, khi quy

mô và số lượng ngày càng giảm thì yêu cầu về trình độ chuyên môn, kỹ
thuật đối với NNL nông nghiệp ngày càng cao, do khoa học kỹ thuật phát
triển và được ứng dụng rộng rãi và nhu cầu phát triển NNLCLC ngành nông
nghiệp đang trở nên bức thiết hơn bao giờ hết trong quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH ngành nông nghiệp.
NNL nông nghiệp chất lượng còn thấp cả về trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn, kỹ thuật và thể lực
Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật của NNL nông nghiệp
còn thấp thể hiện qua tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền
kinh tế đã qua đào tạo chia theo ngành kinh tế của ngành nông nghiệp năm
2013 chỉ chiếm 3,5% so với 17,9% của cả nước và tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở
lên đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo chia theo thành thị và nông
thôn, năm 2013 khu vực nông thôn chỉ chiếm 11,2% so với 33,7% ở khu vực
thành thị, phần lớn lao động khu vực nông thôn không có trình độ chuyên môn,
kỹ thuật, tỷ lệ này chiểm tới 88,5% so với 66,1% ở khu vực đô thị [41, tr.125].
Ngoài ra, thể lực và tầm vóc của NNL nói chung và NNL nông nghiệp
nói riêng trong những năm đã được cải thiện và từng bước được nâng cao, tuy
nhiên so với các nước trong khu vực (Nhật Bản, Thái Lan, Xinh-ga-po, Trung
Quốc,…) nói chung thấp hơn cả về chiều cao trung bình, sức bền, sức dẻo dai.

14


Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù, tuy nhiên
ý thức kỷ luật, năng lực làm việc theo nhóm,… còn nhiều hạn chế.
NNL nông nghiệp phân bố chưa hợp lý giữa các vùng, miền lãnh thổ
trong cả nước và giữa các tiểu ngành trong ngành nông nghiệp
Điểm nổi bật của NNL nông nghiệp là địa bàn phân bố chủ yếu ở khu
vực nông thôn, miền núi nơi có điều kiện thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp. Năm 2014, dân số của nước ta là 90,73 triệu người, thì vẫn có trên 60

triệu người sống ở khu vực nông thôn (chiếm hơn 2/3 tổng dân số). . Trong cơ
cấu ngành nông nghiệp, phần lớn NNL nông nghiệp tập trung trong lĩnh vực
trồng trọt, do đó tỷ trọng ngành trồng trọt vẫn chiếm tới trên 70% giá trị sản
xuất nông nghiệp, ngành chăn nuôi cho dù đã có nhiều nỗ lực cũng chỉ chiếm
26- 27% giá trị sản xuất nông nghiệp [42, tr.44].
1.1.2 Nguồn nhân lực chất lượng cao và nguồn nhân lực chất lượng
cao ngành nông nghiệp
* Nguồn nhân lực chất lượng cao
Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và của
Đảng ta về NNLCLC: Mặc dù C.Mác không đưa ra một quan niệm riêng về
NNLCLC, tuy nhiên trong quan niệm về lao động giản đơn và lao động phức
tạp, C.Mác đã gián tiếp nói đến yếu tố chất lượng của lao động thông qua so
sánh giữa hai loại lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Theo C.Mác lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một con người
bình thường nào cùng đều có thể làm được mà không cần phải qua đào tạo.
Còn “Lao động phức tạp chỉ là lao động giản đơn được nâng lên lũy thừa,
hay nói cho đúng hơn, là lao động giản đơn được nhân lên” [24, tr.75]. Yếu
tố “phức tạp” trong quan niệm của C.Mác đó là nhấn mạnh yếu tố chất
lượng của lao động. Lao động phức tạp là loại lao động không phải bất kỳ
một con người bình thường nào cũng có thể làm được, mà đòi hỏi phải có sự
đầu tư lớn về công sức, tiền của để đào tạo cả trong trường lớp và trong

15


thực tiễn mới có thể làm được. C.Mác viết “một lao động được coi là cao
hơn, phức tạp hơn so với lao động xã hội trung bình thì nó là biểu hiện của
một sức lao động đòi hỏi những chi phí cao hơn. Người ta phải tốn nhiều
thời gian lao động hơn để tạo ra nó và vì vậy, nó có một giá trị cao hơn so
với sức lao động giản đơn” [24, tr.225].

Cái tạo nên sự khác biệt, cái giá trị được nhân lên giữa lao động giản
đơn và lao động phức tạp đó chính là giá trị lao động mà hai loại lao động
đó tạo ra “thành thử một lượng lao động phức tạp nhỏ hơn thì tương đương
với một lượng lao động giản đơn lớn hơn” [24, tr.75].
Ngoài ra, C.Mác còn chỉ rõ: “Muốn nâng sản xuất công nghiệp và
nông nghiệp lên đến mức độ cao… mà chỉ có phương tiện cơ giới và hóa
học phụ trợ thì không đủ. Còn cần phải phát triển một cách tương xứng
năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó nữa” [25, tr.474].
Khi đề cập đến vai trò của NNL đặc biệt là NNL có chất lượng để xây
dựng CNXH và chủ nghĩa cộng sản V.I.Lênin xác định cần phải có một NNL
chất lượng, NNL đó chính là những con người mới XHCN. Đó là những con
người có tinh thần làm chủ tập thể, có năng lực trình độ, hăng say lao động,
coi trọng sản xuất, có kỷ luật tự giác cao, có tri thức khoa học, có khả năng
tiếp thu những thành tựu mới nhất của nền văn minh hiện đại.
Theo V.I.Lênin: “… việc điện khí hóa không thể do những người mù chữ
thực hiện được, mà chỉ biết chữ không thôi cũng không đủ… Họ phải hiểu
rằng điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại, và
nếu họ không có nền học vấn đó, thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là một
nguyện vọng mà thôi” [23, tr.364-365].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xây dựng thành công CNXH thì phải
có những con người XHCN, đó là những con người vừa “hồng” vừa
“chuyên”, vừa có đức vừa có tài, những con người phát triển toàn diện về
đức, trí, thể, mỹ.

16


Thuật ngữ NNLCLC lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006), thể hiện trong quyết tâm phấn đấu
để giáo dục và đào tạo cùng với KH, CN thực sự là quốc sách hàng đầu

“thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam” [11, tr.34].
Đến Đại hội XI phát triển NNLCLC được Đảng xác định là một trong ba
khâu đột phá chiến lược để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, trong
đó Đảng ta xác định “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất
là nguồn nhân lực chất lượng cao… Coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, cán bộ lành nghề…” [12, tr.36]
Theo nhà báo Hữu Thọ trong bài “phải chăng nguồn nhân lực lãnh đạo,
quản lý là quan trọng nhất” cho rằng: “Đảng ta đã chỉ rõ phải xây dựng đồng
bộ 4 loại nhân lực chất lượng cao, đó là:
Các nhà lãnh đạo, quản lý có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong
sáng, một lòng vì nước, vì dân, có kiến thức kịp thời đại, có tư duy đổi mới, có
tầm nhìn xa, có khả năng đoàn kết, tập hợp lực lượng tổ chức thực hiện thành
công đường lối, định hướng chiến lược phát triển các chủ trương, chính sách.
Các nhà văn hóa, khoa học tài năng, có kiến thức sâu rộng, trở thành các
chuyên gia có sức sáng tạo, góp phần thúc đẩy khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế.
Các doanh nhân tâm huyết với đất nước, có tầm nhìn xa và rộng, có khả
năng quản lý doanh nghiệp để tạo ra những sản phẩm hàng hóa đủ sức cạnh
tranh, xây dựng thương hiệu có uy tín ở trong nước và quốc tế…
Đông đảo những người lao động có tay nghề cao, có khả năng sử dụng
công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại, có khả năng ứng dụng và sáng tạo trong
lao động” [28, tr.59].

17


Theo tác giả Trần Mai Ước thì “NNLCLC được hiểu là bộ phận lao động
xã hội có trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao, có kỹ năng lao động
giỏi và có khả năng thích ứng nhanh với những biến đổi nhanh chóng của công

nghệ sản xuất, có sức khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo
những tri thức, những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất
nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao” [49, tr.14].
Như vậy, mặc dù các tác giả đứng ở nhiều góc độ khác nhau khi quan
niệm về NNLCLC, song đều đi đến thống nhất trên các nội dung cơ bản đó
là: NNLCLC là bộ phận lao động ưu tú, tiêu biểu nhất trong NNL, đã qua
đào tạo, có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ thuật cao, có kỹ năng nghề
nghiệp thành thạo, có sức khỏe và phẩm chất đạo đức tốt, thích ứng nhanh
với yêu cầu của công việc và KH, CN, vận dụng tốt kiến thức đã học vào
quá trình lao động, tạo ra năng suất, chất lượng cao. Trong số các quan niệm
về NNLCLC đã nêu, quan niệm của tác giả Trần Mai Ước là đầy đủ và toàn
diện hơn cả và tác giả không đưa ra quan niệm riêng về NNLCLC mà thừa
nhận đó là quan niệm của luận văn.
* Quan niệm nguồn nhân lực chất lượng cao ngành nông nghiệp
Cho đến nay chưa có quan niệm cụ thể nào về NNLCLC ngành nông
nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế lực lượng lao động này đã tồn tại và có những
đóng góp to lớn cho nông nghiệp nước nhà, hiện nay đang phát triển nhanh về
số lượng, chất lượng cũng như cơ cấu ngày càng đa dạng cùng với quá trình
đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và phát triển nông
nghiệp theo hướng toàn diện, hiện đại, bền vững.
Trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng KH, CN trên các lĩnh vực
cơ khí, hóa học, sinh học, mà trực tiếp là cuộc cách mạng xanh trong nông
nghiệp đã làm biến đổi toàn diện về chất các yếu tố trong LLSX nông nghiệp,
đòi hỏi lực lượng lao động trong nông nghiệp với tư cách là những chủ thể
sáng tạo và sử dụng công cụ lao động, phương tiện lao động, nhân tố xét đến

18


cùng quyết định sự vận động, phát triển của ngành nông nghiệp theo hướng

hiện đại, công nghệ cao phải là những người lao động có tri thức, kinh
nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo lao động. Từ đó xuất hiện lực lượng lao động có
trình độ cao trong nông nghiệp như: Các nhà lãnh đạo, quản lý nông nghiệp,
các nhà khoa học, chuyên gia, kỹ sư, kỹ thuật viên trong nông nghiệp, những
người lao động (chủ trang trại, gia trại, công nhân nông nghiệp trong các
doanh nghiệp) có trình độ cao, lao động sản xuất giỏi.
Trên cơ sở quan niệm về NNLCLC và thực tiễn hoạt động của NNLCLC
ngành nông nghiệp. Tiếp cận dưới góc độ của kinh tế chính trị, tác giả đưa ra
quan niệm về NNLCLC ngành nông nghiệp như sau:
NNLCLC ngành nông nghiệp là một bộ phận của NNL nông nghiệp
tiêu biểu, ưu tú nhất, có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn, kỹ
thuật cao, có thể chất, phẩm chất đạo đức tốt, thích ứng nhanh và làm
chủ được những thành tựu của KH, CN, đáp ứng tốt yêu cầu hoạt động
quản lý, nghiên cứu, sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, năng
suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao.
Từ quan niệm cho thấy, NNLCLC ngành nông nghiệp chỉ là một bộ phận
trong tổng thể NNL của một quốc gia, địa phương nói chung và là một bộ phận
của NNL nông nghiệp nói riêng. Giữa NNL nông nghiệp và NNLCLC ngành
nông nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó NNLCLC là bộ phận
cấu thành đặc biệt quan trọng, là bộ phận tiêu biểu, ưu tú nhất, có trình độ học
vấn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, có kỹ năng lao động giỏi và có phẩm
chất đạo đức tốt, có lòng yêu nghề, gắn bó, tâm huyết và say mê với nông
nghiệp, đồng ruộng, có tính kỷ luật và có trách nhiệm với công việc. Ngoài
ra, NLLCLC ngành nông nghiệp có khả năng thích ứng nhanh, làm chủ được
thành tựu của KH, CN đáp ứng tốt yêu cầu hoạt động quản lý, nghiên cứu và
sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, năng suất, chất lượng và đem lại
hiệu quả kinh tế cao.

19



* Tiêu chí đáng giá NNLCLC ngành nông nghiệp
Tiêu chí đánh giá NNLCLC nói chung đã được nhiều công trình khoa học,
nhiều luận án, đề án nghiên cứu công bố, đánh giá toàn diện bộ trên các mặt về
trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức,
thể chất…. NNLCLC ngành nông nghiệp là một bộ phận nằm trong NNLCLC
của cả nước và mỗi địa phương, khi đánh giá cũng phải trên cơ sở các tiêu chung
như đã xác định. Tuy nhiên, trên cơ sở các tiêu chí chung, nội dung các tiêu chí
đánh giá chất lượng NNLCLC ngành nông nghiệp phải phù hợp với các văn bản
quy phạm pháp luật được Nhà nước, Bộ NN&PTNT, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động,
Thương binh và xã hội thông qua về NNL, về quản lý, đánh giá chất lượng cán
bộ, công chức, viên chức về người lao động trong ngành nông nghiệp…; phản ánh
được tính chất đặc thù của lao động trong ngành nông nghiệp, đáp ứng được yêu
cầu công tác tuyển dụng lao động của các cơ quan, đơn vị sử dụng NNLCLC
trong lĩnh vực nông nghiệp và từ yêu cầu của quá trình hội nhập và sự phát triển
của KH, CN đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Nội dung các tiêu chí cụ thể:
- Có trình độ học vấn cao
NNLCLC ngành nông nghiệp phải là những người lao động lành nghề,
có trình độ học vấn từ trung cấp, cao đẳng, đại học trở lên. Đây là tiêu chí đầu
tiên phản ánh chất lượng về NNLCLC ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, mỗi
giai đoạn khác nhau và mỗi đối tượng lao động cụ thể thì yêu cầu về trình độ
học vấn có sự khác nhau.
Cụ thể, đối với bộ phận cán bộ, công chức, viên chức thuộc biên chế Nhà
nước phải là những người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên. Ngoài ra, lực
lượng này còn phải đáp ứng được những tiêu chí cơ bản về trình độ học vấn
theo quy định của Luật cán bộ, công chức, viên chức đã quy định.
Đối với bộ phận ngoài biên chế, phải là những người lao động đã qua đào
tạo, đáp ứng được những tiêu chí về trình độ học vấn do nhà tuyển dụng đặt ra
và phải là lao động lành nghề, có trình độ từ trung cấp trở lên.


20


Hiện nay, xác định trình độ học vấn như trên là phù hợp so với mặt bằng
học vấn chung của đất nước và của NNL ngành nông nghiệp. Trình độ học
vấn được biểu hiện theo các cấp giáo dục: Phổ thông, giáo dục nghề nghiệp,
đại học, sau đại học. Đây là tiêu chí cứng, tuy nhiên không phải ai có trình độ
học vấn như trên thì nghiễm nhiên được gọi là NNLCLC, mà còn phải đáp
ứng các tiêu chí khác.
- Có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao hơn mức trung bình của NNL
nông nghiệp. Tiêu chí này phản ánh trình độ đào tạo, hiểu biết, kỹ năng thực
hành chuyên môn, kỹ thuật của NNLCLC ngành nông nghiệp về các chuyên
ngành nông-lâm-thủy sản, cơ khí nông nghiệp, công nghệ sinh học, công nghệ
gen, các chuyên ngành về kinh tế nông nghiệp….Theo Đề án Nghiên cứu tổng
thể về giáo dục, đào tạo và phân tích NNL Việt Nam do Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO), Chương trình Phát
triển Liên Hợp Quốc (UNDP) và Bộ Giáo dục, đào tạo thực hiện đã phân loại
trình độ chuyên môn, kỹ thuật gồm: Trên đại học, đại học và cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật có bằng, công nhân kỹ thuật không
bằng. Trình độ chuyên môn, kỹ thuật của người lao động là tiêu chí có ý
nghĩa trực tiếp quyết định đến chất lượng NNL; đối với NNLCLC ngành
nông nghiệp, tiêu chí này phải cao hơn mức trung bình của NNL nông nghiệp.
- Tiêu biểu về kỹ năng lao động: NNLCLC ngành nông nghiệp phải là
những người tiêu biểu về kỹ năng lao động, năng lực sáng tạo, linh hoạt, nhạy
bén trong quản lý, nghiên cứu và sản xuất, có khả năng thích ứng nhanh và
làm chủ KH, CN, đáp ứng tốt yêu cầu hoạt động thực tiễn, về khả năng vận
dụng kiến thức, kinh nghiệm vào quản lý, nghiên cứu, sản xuất nông nghiệp.
Kỹ năng lao động của NNLCLC được phản ánh thông qua các kỹ năng tiếp
cận công nghệ thông tin, kỹ năng tin học, ngoại ngữ,…
- Có thể lực, tầm vóc tốt: NNLCLC ngành nông nghiệp phải là lực lượng

có tình trạng sức khoẻ, tầm vóc tốt và được phản ánh bằng một hệ thống các

21


chỉ tiêu cơ bản về sức khoẻ như: Chiều cao, cân nặng, tuổi thọ, các chỉ tiêu về
tình hình bệnh tật, các chỉ tiêu về cơ sở vật chất và các điều kiện về bảo vệ và
chăm sóc sức khoẻ. Có sức chịu đựng dẻo dai, đáp ứng quá trình sản xuất liên
tục, kéo dài và luôn tỉnh táo, sảng khoái về tinh thần.
- Tiêu biểu về phẩm chất, đạo đức và ý chí, nghị lực vượt khó vươn lên
thực hiện nhiệm vụ: NNLCLC ngành nông nghiệp phải là những người tiêu
biểu về nhân cách, phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, có phương pháp, tác
phong công tác tốt, có kỷ luật lao động, ý thức tự giác cao, có niềm say mê
nghề nghiệp, lối sống đúng mực, hòa đồng. Ngoài ra, NNLCLC ngành nông
nghiệp phải có ý chí bền bỉ, dẻo dai, có nghị lực tiêu biểu, có tinh thần chủ
động khắc phục khó khăn để vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Tiêu biểu về chất lượng, hiệu quả công việc: NNLCLC ngành nông nghiệp
phải là những người tiêu biểu về kết quả hoàn thành nhiệm vụ so với lực lượng
còn lại. Đây là tiêu chí quan trọng nhất trong đánh giá NNLCLC ngành nông
nghiệp, vì xét đến cùng tất cả những yếu tố về thể lực, trí lực và phẩm chất
đạo đức, kỹ năng lao động và ý chí vượt khó của NNLCLC ngành nông
nghiệp đều hướng đến mục đích là tạo ra năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh
tế cao, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng, phát triển của cơ quan, đơn vị
sử dụng lao động và toàn xã hội.
Chất lượng, hiệu quả công việc của NNLCLC ngành nông nghiệp được thể
hiện thông qua kết quả phân loại, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, viên
chức hằng năm ở các mức hoàn thành xuất sắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đối
với cán bộ kết quả hoàn thành nhiệm vụ của bản thân còn phải gắn với kết
quả hoàn thành nhiệm vụ của tập thể, đơn vị mình phụ trách; kết quả đánh giá
và bình chọn công nhân, nông dân (chủ trang trại, gia trại) lao động, sản xuất

giỏi hằng năm.
- Có cơ cấu hợp lý theo yêu cầu phát triển KT-XH nói chung và ngành
nông nghiệp nói riêng. Đây là tiêu chí nói về toàn bộ NNLCLC ngành nông

22


nghiệp. Toàn bộ cơ cấu về độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, trình độ chuyên
môn, kỹ thuật, các lĩnh vực hoạt động.
Trên đây là những tiêu chí cơ bản để đánh giá NNLCLC ngành nông
nghiệp, mỗi tiêu chí có vị trí, vai trò khác nhau và để trở thành NNLCLC
ngành nông nghiệp phải đáp ứng tổng hòa các tiêu chí trên, khi đánh giá cũng
phải toàn diện trên tất cả các tiêu chí, đồng thời cũng phải xem xét từng
trường hợp cụ thể. Trong đó tiêu chí về chất lượng, hiệu quả công việc được
xem là nội dung quan trọng nhất.
1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ngành nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình
1.2.1. Quan niệm về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành
nông nghiệp ở Thái Bình
* Quan niệm về phát triển NNL
Cho đến nay, do xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, nên có nhiều
cách hiểu khác nhau về phát triển NNL.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO)
sử dụng khái niệm phát triển NNL theo nghĩa hẹp và cho rằng phát triển NNL
là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp yêu cầu phát
triển của đất nước.
Còn theo Tổ chức Lao động Thế giới (ILO), phát triển NNL bao hàm
phạm vi rộng hơn, không chỉ là sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề hoặc vấn đề
đào tạo nói chung, mà còn là sự phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó vào
việc làm có hiệu quả, cũng như thoả mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân.

Liên hiệp quốc thì nghiêng về sử dụng khái niệm phát triển NNL theo nghĩa
rộng, bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy
phát triển KT-XH và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Theo PGS, TS Vũ Văn Phúc phát triển NNL là sự biến đổi về số lượng
và chất lượng trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng và tinh thần cùng với quá

23


trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nhân lực. Nói một cách khái quát
nhất, phát triển NNL chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện
của con người, vì sự tiến bộ KT-XH [28, tr.12].
Như vậy, mặc dù có sự diễn đạt khác nhau, song các quan niệm đều
cho rằng phát triển NNL là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức
nhằm tạo ra sự biến đổi về số lượng, chất lượng và tạo ra cơ cấu theo
hướng tiến bộ, hợp lý. Nâng cao năng lực của con người về mọi mặt để
tham gia một cách hiệu quả vào quá trình phát triển KT-XH.
* Quan niệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành nông
nghiệp ở tỉnh Thái Bình
Thái Bình là một trong 3 tỉnh có diện tích đất nông nghiệp lớn nhất vùng
Đồng bằng sông Hồng, có ưu thế lớn trong phát triển trồng trọt, chăn nuôi quy
mô lớn và được xác định là Tỉnh sản xuất nông nghiệp trọng điểm, vựa lúa của
Đồng bằng sông Hồng và của cả nước.
Không chỉ có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển nông nghiệp,
Thái Bình còn là tỉnh có dân số đông, NNL nông nghiệp dồi dào. Người lao
động Thái Bình cần cù, chịu khó, có khả năng tiếp thu, tiếp cận nhanh với tiến
bộ khoa học- kỹ thuật, nguồn lao động nông nghiệp có trình độ thâm canh cao
so với cả nước vì đây là mảnh đất của nghề trồng lúa nước và các sản phẩm
chăn nuôi. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đang tăng dần qua các năm, NNLCLC
ngành nông nghiệp ngày càng phát triển tạo lợi thế cơ bản cho phát triển nông

nghiệp nói riêng và phát KT-XH nói chung.
Từ những quan niệm về phát triển NNL đã nêu, từ thực tiễn ngành
nông nghiệp và NNL nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình, đứng trên góc độ của
kinh tế chính trị, xét cụ thể trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX, tác
giả đưa ra quan niệm về phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp như sau:

24


Phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình là tổng thể
các hoạt động có mục đích, có tổ chức của các chủ thể, bằng các hình
thức, biệp pháp phù hợp, nhằm tạo ra những điều kiện, động lực để gia
tăng về số lượng, nâng cao chất lượng và tạo ra cơ cấu NNLCLC ngành
nông nghiệp hợp lý, góp phần phát triển ngành nông nghiệp Thái Bình
theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững.
Quan niệm phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình chỉ ra:
- Mục đích phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp nhằm phát triển
nông nghiệp Thái Bình theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp “theo hướng nâng cao
chất lượng, giá trị gia tăng và phát triển bền vững” gắn với phát triển kinh
tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Từ đó góp phần “phát triển kinh
tế của Tỉnh nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân; tạo nền tảng để xây dựng tỉnh Thái Bình sớm có nền nông
nghiệp, công nghiệp theo hướng hiện đại” [7, tr.5].
- Chủ thể phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp là cấp ủy, chính quyền
các cấp, các sở, ban, ngành chức năng có liên quan, các đơn vị sử dụng lao động
trong sản xuất nông nghiệp ở Tỉnh.
- Đối tượng phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp phải toàn diện trên
các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, bao gồm:
Phát triển lực lượng gián tiếp sản xuất nông nghiệp gồm: Những cán

bộ, công chức, viên chức đang công tác tại các cơ quan thuộc biên chế
Nhà nước ở cấp tỉnh, thành phố, huyện và cấp xã, phường, thị trấn; ngoài
ra, họ còn là những cán bộ quản lý nông nghiệp ở những đơn vị sự nghiệp
ngoài biên chế Nhà nước, những hợp tác xã, tổng công ty và công ty sản
xuất nông nghiệp trong Tỉnh.

25


Lực lượng nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, kỹ thuật nông
nghiệp gồm: Những nhà khoa học, chuyên gia, giáo viên, kỹ sư, kỹ thuật viên
nông nghiệp thuộc biên chế và ngoài biên chế.
Phát triển lực lượng trực tiếp sản xuất nông nghiệp: Lực lượng này bao
gồm những công nhân nông nghiệp ở những tổng công ty, công ty sản xuất
nông nghiệp, những chủ gia trại, trang trại.
Ngoài ra, với tư cách là chủ thể chi phối sức lao động của chính bản thân
mình, người lao động hoàn toàn tự do sở hữu năng lực lao động và thân thể của
mình, vì vậy bản thân người lao động vừa là chủ thể đồng thời cũng là đối tượng
của quá trình tự phát triển để trở thành NNLCLC ngành nông nghiệp, thông qua
việc tự giác học tập, nghiên cứu, lao động sản xuất, tích lũy kinh nghiệm nâng
cao trình độ, vươn lên trở thành những người lao động có chất lượng cao.
Phương thức phát triển: Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển,
trong đó đặc biệt quan tâm về cơ chế, chính sách, tín dụng, cơ sở vật chất,
thời gian… Lấy lợi ích kinh tế và sự thăng tiến trong sự nghiệp làm động
lực để phát triển NNLCLC ngành nông nghiệp.
Cách thức và biện pháp được sử dụng để phát triển NNLCLC ngành
nông nghiệp phải phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng đối tượng.
Cụ thể: Thông qua các hình thức giáo dục, đào tạo, đào tạo lại (với nhiều
loại hình khác nhau như đào tạo chính quy, tại chức, từ xa, chuyên tu, tại chỗ,
liên kết đào tạo trong và ngoài nước, thăm quan, học hỏi kinh nghiệm từ các

mô hình làm ăn hiệu quả…), thông qua bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ,
chuyển giao KH, CN, kỹ thuật nhằm nâng cao kiến thức, trình độ chuyên
môn, kỹ năng lao động cho NNL nông nghiệp và NNLCLC ngành nông
nghiệp. Kết hợp với đó là thông qua thực tiễn công tác, nghiên cứu và lao
động, sản xuất để phát triển toàn diện NNLCLC ngành nông nghiệp.

26


×