Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Một số bài Tóm tắt truyện lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.22 KB, 14 trang )

Đề bài: Em hãy kể tóm tắt truyện Thánh Gióng – văn
lớp 6
Truyện cổ tích Thánh Gióng, một truyện mà đã quá quen thuộc với các em
thiếu nhi, chắc hẳn ai cũng nhớ hình ảnh Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, nhổ tre
làm vũ khí để đánh giặc ngoại xâm, sau khi chiến thắng thì Gióng trở về trời.
Và một lần nữa hãy đọc lại truyện cổ tích này dưới sự tóm tắt rất hay và thú
vị dưới đây nhé !
Bài làm 1:
Truyện kể rằng: vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng, có hai vợ chồng ông
lão, tuy làm ăn chăm chỉ, lại có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một
hôm, bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân lạ, về nhà bà thụ thai: Mười hai
tháng sau bà sinh ra một cậu con trai khôi ngô tuấn tú. Nhưng lạ thay! Tới ba năm
sau, cậu bé vẫn chẳng biết nói, biết cười, cứ đặt đâu nằm đấy.
Bấy giờ, giặc Ân tràn vào bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh lắm! Vua Hùng bèn sai
người đi khắp nước rao cầu hiền tài giết giặc. Nghe tiếng rao, cậu bé bỗng cất
tiếng nói xin được đi đánh giặc. Từ đấy cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mất
cũng

chẳng

no.

Tráng sĩ Gióng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt rồi cầm roi sắt xông ra diệt giặc.
Roi sắt gẫy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường để quét sạch giặc thù.
Giặc tan, Gióng một mình một ngựa lên đỉnh núi Sóc rồi bay thẳng về trời. Ở đó
nhân dân lập đền thờ, hàng năm lại mở hội làng để tưởng nhớ. Ngày nay các ao
hồ và những bụi tre ngà vàng óng đều là dấu ấn xưa về trận đánh và là nơi ông
Gióng đã đi qua
Bài làm 2:
[Type text]


Page 1


Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu. Ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão tuy
chăm chỉ làm ăn, lại có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm bà
vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to, về thụ thai và mười hai tháng sau sinh
ra một cậu con trai khôi ngô. Điều kì lạ là tuy đã lên ba tuổi, cậu bé chẳng biết đi
mà cũng chẳng biết nói cười.
Giặc Ân xuất hiện ngoài bờ cõi, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh giặc.
Cậu lớn bổng lên. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa may xong đã chật, bà
con phải góp cơm gạo nuôi cậu. Giặc đến, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ,
mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gẫy, Gióng bèn
nhổ cả những bụi tre bên đường đánh tan quân giặc.
iặc tan, Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi rồi bay thẳng lên trời. Nhân
dân lập đền thờ, hàng năm mở hội làng để tưởng nhớ. Các ao hồ, những bụi tre
đằng ngà vàng óng đều là những dấu tích về trận đánh của Gióng năm xưa.
Bài làm 3:
Truyện kể rằng, ngày xửa ngày xưa, có một dấu chân khổng lồ in trên một tảng đá
ở thôn Gióng Mốt, xã Phù Đổng, dân gian tương truyền rằng đó dấu chân của ông
Đổng về hái cà trong đêm mưa bão. Ông Đổng cao lớn một cách lạ thường: đầu
thì đội trời, chân thì đạp đất, vai thì chạm mây, ông vun đá thì thành đồi núi, xẻ
cát thì thành sông, cào đất thì thành những cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay.
Giọng nói ông vang như tiếng sấm, bước chân ông đi lún cả đất trời, mắt ông thì
lóe sang như tia chớp, hơi thở thì phun ra mây mưa, gió bão. Những dấu tích mà
ông Đổng để lại vẫn còn đến ngày nay nơi như gò Bình Tân, núi Khám, núi Sóc
Sơn, làng Gióng Mốt. Hàng năm, cứ vào mùng 9 tháng 4 âm lịch, ông Đổng lại về
hái cà gây nên mưa, sấp chớp đùng đùng.

[Type text]


Page 2


Ở làng Gióng Mốt, có một bà lão đã già rồi nhưng vẫn chưa có con, bà sống một
mình trong một túp lều tranh rách nát. Hàng ngày, bà ra vườn chăm sóc luống cà
hoặc ra đồng mò cua bắt ốc rồi đem ra chợ bán để lấy tiền mua gạo, tự nuôi sống
bản thân. Trong một đêm giông bão, mưa như trút nước ông Đổng về hái cà và để
lại những dấu chân khổng lồ ngay trong vườn. Sáng hôm sau, khi bà lão ra vườn
chăm sóc luống cà thì thấy những dấu chân rất lạ, to ơi là to, bà rất ngạc nhiên,
liền đưa chân lên ướm thử và sau đó không lâu thì bà mang bầu.
Bà bỏ lên rừng Trai Mòn, sau chín tháng mười ngày thì bà sinh ra ông Đổng ngay
dưới một gốc cây lớn, trên một cái gò đất nổi lên giữa một cái đầm, bà đặt tên đứa
con trai mình là Gióng. Ngay sau hôm đấy, trời bỗng nhiên hóa thành nhiều tôm,
cua, cá để bà ăn lấy nhiều sữa nuôi con, hóa đá thành bồn để bà tắm cho con, hóa
thành chõng tre để ru con ngủ. Trong ba năm liền, ông Đổng cứ nằm yên trên
chõng tre, không nói không cười. Đến khi đất nước bị giặc Ân sang xâm chiến thì
ông Đổng liền bước ra khỏi chõng tre, vươn vai và biến thành một chàng trai cao
to khỏe mạnh và đòi mẹ đi đánh giặc Ân. Chính vì lẽ đó mà ông cha ta có câu hát ví von rằng:

Tóm tắt truyện Sọ Dừa
Có đôi vợ chồng già hiếm muộn con cái, phải đi ở cho nhà phú ông. Một hôm bà
vợ vào rừng hái củi, uống nước trong cái sọ dừa, về nhà có mang, ít lâu sau sinh
ra một đứa bé kì dị, không chân không tay, tròn như một quả dừa. Thấy đứa bé
biết nói, bà giữ lại nuôi và đặt luôn tên là Sọ Dừa.
Thương mẹ vất vả, Sọ Dừa nhận chăn đàn bò nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi,
con nào cũng béo mượt. Ba cô con gái nhà phú ông thay nhau đưa cơm cho Sọ

[Type text]

Page 3



Dừa. Hai cô chị kênh kiệu thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô út đối đãi với cậu tử
tế.
Phát hiện ra vẻ đẹp bên trong cái vẻ kì dị của Sọ Dừa, cô út đem lòng thương yêu.
Sọ Dừa nhờ mẹ đến nhà phú ông hỏi vợ. Phú ông thách cưới thật lo nhưng thấy
Sọ Dừa mang đủ đồ thách cưới đến, đành phải gả cô út cho chàng. Ngày cưới, Sọ
Dừa hiện nguyên hình là một chàng trai trẻ đẹp khiến hai cô chị vô cùng ghen tức.
Nhờ chăm chi đèn sách Sọ Dừa thi đỗ trạng nguyên và được nhà vua cử đi, sứ
nước ngoài. Trước khi đi chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai
quả trứng gà để đề phòng tai hoạ.
Sọ Dừa đi vắng, hai người chị tìm cách hãm hại cô út, đẩy cô xuống biển hòng
cướp chồng em. Nhờ có các đồ vật chồng đưa cho, cô út thoát chết, được chồng
cứu trên đường đi sứ về. Hai vợ chồng đoàn tụ. Hai cô chị xấu hổ bỏ nhà đi biệt
tích.
Bài làm 2:
Hai vợ chồng có một mụn con nhưng là một cục thịt có mắt mũi, không có tay
chân. Đặt tên là Sọ Dừa. Sọ Dừa xin đi chăn bò cho nhà phú ông để lấy tiền nuôi
cha mẹ. Phú ông đồng ý vì thấy Sọ Dừa nuôi bò giỏi. Phú ông lại sai ở trên núi để
chăn, cơm nước đã có ba cô con gái đem lên cho. Hai cô chị hắt hủi, còn cô em Út
thùy mị phát hiện Sọ Dừa không phải là người thường nên đem lòng yêu thương
và săn sóc. Cuối mùa đi ở, Sọ Dừa bảo mẹ đến hỏi con gái phú ông. Sọ Dừa đã
đáp ứng vật thách cưới, phú ông hỏi ý ba cô. Cô Út ưng chịu. Sau khi cưới Sọ
Dừa hiện thành chàng trai tuấn tú, học hành thông minh và đậu Trạng nguyên.
Khi từ giã vợ đi sứ, quan trạng đưa cho vợ hòn đá lửa, con dao và hai quả trứng
gà dặn phải dắt trong người. Hai cô chị lập mưu đẩy em xuống biển, em bị cá kình
nuốt. Nhờ con dao mà cô giết được cá rồi dạt vào đảo hoang. Cô Út đã dùng đá
[Type text]

Page 4



lửa để nướng cá ăn qua ngày. Hai trứng nở ra hai còn gà. Khi quan trạng trên
đường đi sứ trở về, nghe tiếng gà gáy trên đảo hoang, quan trạng ghé vào đảo
rước vợ về nhà mở tiệc ăn mừng. Tiệc tan quan dẫn vợ ra, hai người chị xấu hổ
trốn

đi

mất

biệt.

Tóm tắt truyện Sơn Tinh Thủy Tinh
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹpnhư
hoa, tính nết hiền dịu. Vua Hùng muốn kén cho nàng một người chồng xứngđáng.
Đến cầu hôn có hai vị thần tài giỏi ngang nhau, đều xứng làm rể Vua Hùng
Một người là Sơn Tinh - chúa vùng non cao. Một người làThuỷ Tinh - chúa
vùngnước thẳm. Để lựa chọn được chàng rể xứng đáng, Vua Hùng bèn đặt ra
điều kiện:"Ngày mai ai mang lễ vật gồm: Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp
bánh chưng,voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi
đến trước thi ta sẽ gả con gái cho”. Hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến
truớc, cưới được Mị Nương.Thuỷ Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng
nồi giận, đem quân đuổi theo đòi cướp Mị Nương. Thần hô mưa gọi gió, dâng
nước sông lên cuồn cuộn làm cho thành Phong Châu ngập chìm trong nuớc. Sơn
Tinh không hề nao núng. Thần dùng phép bốc từng quả đồi, dời tùng dãy núi, đắp
thành dựng luỹ, ngăn chặn dòng lũ. Hai bên đánh nhau kịch liệt. Cuối cùng Thuỷ
Tinh đuốisức phải chịu thua. Từ đó, oán nặng thù sâu, hàng năm Thủy Tinh
vẫn làm mưa gió, bão lụt,dâng nước đánh Sơn Tinh nhưng năm nào cũng mang
thất bại trở về.


[Type text]

Page 5


Tóm tắt truyện cổ tích Tấm Cám.
Bài làm
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Mồ côi cha mẹ sớm, Tấm phải sống
với dì ghẻ và cô em cùng cha khác mẹ tên là Cám. Tấm vất vả, khổ cực, làm việc
luôn tay còn Cám thì được cưng chiều, chỉ biết rong chơi.
Một hôm, Tấm và Cám cùng đi hớt tép và ai hớt được nhiều sẽ có yếm đỏ. Cám
mải rong chơi, không có tép nên đã lừa trút hết giỏ tép đầy của Tấm. Tấm khóc.
Bụt hiện lên bảo xem trong giỏ có gì không. Tấm tìm thấy một con cá bống. Tấm
nuôi cá bống, mỗi ngày cho bống ăn cơm. Mẹ con Cám biết được liền lừa Tấm đi
xa để ở nhà giết thịt cá bống. Tấm lại khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm tìm xương cá
bỏ vào bốn cái lọ đem chôn dưới chân giường.
Ngày hội làng, dì ghẻ trộn gạo lẫn thóc, bắt Tấm phải ở nhà nhặt xong mới được
đi xem. Tấm tủi thân ngồi khóc. Bụt hiện lên sai chim sẻ nhặt thóc giúp Tấm rồi
bảo Tấm đào bốn cái lọ dưới chân giường lên để láy quần áo đẹp đi xem hội và
một cn ngựa để cưỡi.Tấm đi qua cầu, chẳng may đánh rơi một chiếc giày xuống
nước, mò mãi không được. Khi ngựa của vua đi qua cứ đứng lại, vua liền sai quân
lính xuống mò thì vớt lên một chiếc giày xinh đẹp. Vua truyền lệnh ai ướm vừa sẽ
cưới làm vợ. Mọi người thi nhau ướm thử, kể cả mẹ con Cám. Tới lượt Tấm,
chiếc giày vừa như in cùng với chiếc giày trong túi Tấm. Tấm trở thành hoàng
hậu.
Nhân ngày giỗ bố, Tấm xin phép vua về thăm nhà. Dì ghẻ lập mưu lừa Tấm trèo
lên cây hái cau rồi đốn cây giết Tấm để Cám vào cung thay chị. Tấm chết hóa
thành chim vàng anh ngày nào cũng ở bên vua. Mẹ con Cám liền giết vàng anh,
[Type text]


Page 6


bỏ lông ra góc vườn. Nơi ấy lại mọc lên hai cây xoan đào. Vua thích hai cây xoan
đào, liền mắc võng nằm ngủ. Mẹ con Cám liền chặt hai cây xoan đóng thành
khung cửi. Lúc Cám dệt vải, khung cửi kêu tiếng Tấm, Cám sợ hãi, đem đốt
khung cửi rồi đổ tro đi thật xa. Nơi ấy lại mọc lên một cây thị xanh tốt nhưng chỉ
có duy nhất một quả và ở tít trên cao. Bà cụ đi chợ trông thấy yêu mến quả thị liền
bảo thị về ở với bà. Quả thị trên cao rơi vào túi bà. Bà đem quả thị về nhà.Tấm từ
trong quả htij chui ra, nấu cơm, nấu nước, dọn dẹp giúp bà cụ. Bà cụ rình bắt
được, bà xé vỏ quả thị đi. Từ đó, Tấm sống với bà cụ như hai mẹ con.
Một hôm nhà vua kinh lí đi qua, thấy trầu giống Tấm têm ngày trước liền gọi hỏi.
Vua nhận ra Tấm liền rước Tấm về cung. Cám thấy chị đẹp hơn xưa, sinh lòng
ghen ghét. Tấm chỉ cho Cám cách làm da trắng. Cám làm theo và chết. Nghe tin
Cám chết, mẹ Cám cũng chết theo.

Em hãy kể tóm tắt truyện con Rồng cháu Tiên.
Ngày xưa ở Lạc Việt có một vị thần nòi rồng gọi là Lạc Long Quân, sống ở dưới
nước, thỉnh thoảng lên cạn trừ bọn yêu quái và dạy dân trồng trọt. Ở vùng núi cao
bấy giờ có nàng Âu Cơ tuyệt trần nghe tiếng miền đât Lạc thần đã tìm đến thăm.
Âu Cơ, Lạc Long Quân gặp nhau và trở thành vợ chồng. Âu Cơ có mang, sinh ra
cái bọc trăm trứng nở ra 100 người con khôi ngô khỏe mạnh. Vì không quen sống
ở cạn nên Lạc Long Quân đem 50 con xuống biển – Âu Cơ đem 50 con lên núi,
dặn nhau không bao giờ quên lời hẹn. Người con trưởng theo Âu Cơ lên làm vua
lấy hiệu Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, mười mấy đời truyền nối không
thay đổi. Bởi sự tích này mà người Việt Nam khi nhắc đến nguồn gốc của mình
thường xưng là con Rồng cháu Tiên

[Type text]


Page 7


Bài làm : Em hãy kể tóm tắt truyện Sự tích Hồ Gươm
Bài 1:
Giặc Minh đô hộ nước ta, chúng gây ra nhiều bạo ngược, Lê Lợi dựng cờ tụ nghĩa
tại Lam Sơn nhưng ban đầu yếu thế, lực mỏng nên thường bị thua. Đức Long
Quân quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần để giết giặc.
Một người đánh cá tên là Lê Thận ba lần kéo lưới đều gặp một thanh sắt, nhìn kỹ
hóa ra một lưỡi gươm. Sau đó ít lâu, Lê Lợi bị giặc đuổi, chạy vào rừng bắt được
chuôi gươm nạm ngọc trên cây đa, đem tra vào lưỡi gươm ở nhà Lê Thận thì vừa
như in, mới biết đó là gươm thần.
Từ khi có gươm thần, nghĩa quân đánh đâu thắng đấy, cuối cùng đánh tan quân
xâm lược.
Một năm sau khi thắng giặc, Lê Lợi đi thuyền chơi hồ Tả Vọng : Long Quân sai
Rùa Vàng lên đòi lại gươm thần. Từ đó, hồ Tả Vọng được đổi tên thành hồ Hoàn
Kiếm.
-------------------------------------------Bài 2:
Vào thời giặc Minh đặt ách đô hộ ở nước Nam, chúng coi dân ta như cỏ rác, làm
nhiều điều bạo ngược.
Nghĩa quân Lam Sơn nhiều lần chống giặc nhưng đều bị thua. Thấy vậy Long
Quân quyết định cho nghĩa quân mượn Gươm thần đề đánh giặc.

[Type text]

Page 8


Lê Thận làm nghề đánh cá ở Thanh Hóa. Một đêm, Thận thả lưới trên bến vắng,

ba lần kéo lưới lên đều thấy một thanh sắt nhận ra đó là lưỡi gươm liền đem nó về
cất xó ở nhà. Sau đó Lê Thận đã hăng hái gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Một
hôm, chủ tướng Lê Lợi cùng tùy tùng đến nhà Thận, hôm đó thanh gươm tự nhiên
sáng rực lên. Lê Lợi cầm lên thấy có hai chữ “Thuận Thiên”.
Một lần đi qua khu rừng, thấy chuôi gươm nạm ngọc trên ngọn cây đa, Lê Lợi
giắt vào lưng đem về. Ba ngày sau, Lê Lợi gặp lại mọi người đã kể lại chuyện bắt
được chuôi gươm, Lê Thận đem gươm ra tra vào chuôi thì vừa như in. Lê Thận
nâng gươm trao cho Lê Lợi vào nói rằng đây là trời có ý phó thác cho minh công
làm việc lớn. Lê Lợi với gươm báu trong tay, cùng nghĩa quân nhuệ khí ngày càng
lớn mạnh. Trên các trận địa, quân Minh kinh hồn bạt vía. Uy danh của nghĩa quân
vang khắp nơi. Chiến lợi phẩm thu về ngày càng nhiều, Đời sống của nghĩa quân
khá hơn, Thế chủ động tấn công ngày một cao, chẳng mấy chốc đất nước ta quân
thù sạch bóng. Một năm sau khi đuổi giặc Minh, vua Lê Lợi cưỡi thuyền rồng dạo
quanh hồ Tả Vọng. Nhân đó Long Quân sai rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần.
Thuyền rồng tiến ra giữa hồ, thấy con rùa lớn xuất hiện, vua ban lệnh cho thuyền
chậm lại. Rùa vàng tiến về phía vua và nói: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long
Quân”. Nghe rùa vàng nói vua hiểu ý, rút gươm trả cho rùa vàng. Rùa vàng lập
tức há miệng đớp lấy thanh gươm và lặn xuống nước.
Gươm và rùa đã chìm xuống nước, người ta thấy vật gì sáng loáng dưới mặt hồ
xanh. Từ đó hồ Tả Vọng bắt đầu mang tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm. .
Tóm tắt truyện cổ Thạch Sanh rất ngắn gọn và hay

[Type text]

Page 9


Thạch Sanh vốn là con của Ngọc Hoàng được phái xuống trần gian làm con của
một vợ chồng nông dân nghèo khổ nhưng tốt bụng. Vợ chồng nông dân kia sớm
qua đời, để lại Thạch Sanh sống lủi thủi dưới gốc đa, hằng ngày phải hái củi kiếm

sống.
Một người hàng rượu tên là Lí Thông thấy Thạch Sanh khỏe mạnh nên giả vờ kết
nghĩa anh em để lợi dụng. Thạch Sanh không hề hay biết bụng dạ của Lí Thông
nên chấp nhận. Không may cho Lí Thông là đến dịp y phải vào đền để cúng mạng
cho chằn tinh. Lí Thông bèn lừa
Thạch Sanh đi thay mình. Không ngờ Thạch Sanh giết được chằn tinh. Lí Thông
lại lừa Thạch Sanh bỏ trốn để đem đầu chằn tinh dâng vua lập công. Vua phong Lí
Thông làm Quận công. Thạch Sanh trở về với chốn cũ.
Chẳng may cho nhà vua, người con gái đến tuổi lấy chồng bị đại bàng khổng lồ
bắt mất. Khi bay qua gốc đa, nơi Thạch Sanh trú ẩn, đại bàng bị Thạch Sanh bắn
trúng. Thạch Sanh lần theo vết máu, biết được nơi đại bàng giấu công chúa. Nhà
vua sai Lí Thông đi tìm công chúa, hứa gả công chúa và truyền ngôi cho ai tìm
được công chúa. Lí Thông lại nhớ đến Thạch Sanh. Y nhờ Thạch Sanh cứu công
chúa rồi nhốt chàng dưới hang sâu.
Thạch Sanh giết đại bàng và cứu được con vua Thủy Tề vốn bị đại bàng bắt giam
từ lâu. Thạch Sanh được xuống thăm thủy cung, được vua Thủy Tề phong thưởng
rất hậu nhưng chàng chỉ xin một cây đàn rồi trở về gốc đa sinh sống.
Công chúa trở về cung nhưng chẳng nói chẳng rằng, nhà vua càng buồn thảm.
Hồn chằn tinh và đại bàng trả thù Thạch Sanh khiến chàng bị bắt giam vào ngục.
Trong ngục, Thạch Sanh đem đàn thần ra gảy. Tiếng đàn đến tai công chúa, giúp
nàng khỏi bệnh câm. Theo lời công chúa, nhà vua cho gọi Thạch Sanh. Gặp nhà
vua, Thạch Sanh kể lại mọi việc. Nhà vua sai xử tử mẹ con Lí Thông nhưng

[Type text]

Page 10


Thạch Sanh tha bổng cho họ. Trên đường về, hai mẹ con độc ác bị sét đánh chết
và hóa thành bọ hung.

Thạch Sanh trở thành phò mã. Các nước chư hầu tức giận đem quân sang đánh
nước ta. Thạch Sanh lại lấy đàn thần ra gảy làm cho quân giặc phải quy hàng.
Thạch Sanh khao quân giặc một niêu cơm nhỏ nhưng chúng ăn không hết, chúng
càng kính phục và chấp nhận rút quân về nước.
Thạch Sanh được nhà vua nhường cho ngôi báu.
Bài làm 2:
Thạch Sanh vốn là thái tử (con Ngọc Hoàng), được phái xuống làm con vợ chồng
người nông dân nghèo khổ nhưng tốt bụng. Chàng sớm mồ côi cha mẹ, sống lủi
thủi dưới gốc đa, hái củi kiếm sống qua ngày.
Lí Thông - một người hàng rượu - thấy Thạch Sanh khỏe mạnh hắn giả vờ kết
nghĩa anh em để lợi dụng. Đúng dịp Lí Thông đến lượt phải vào đền cho chằn tinh
hung dữ ăn thịt, hắn bèn lừa Thạch Sanh đến nộp mạng thay cho mình. Thạch
Sanh đã giết chết chằn tinh. Lí Thông lại lừa cho Thạch Sanh bỏ trốn rồi đem đầu
chằn tinh vào nộp cho vua để lĩnh thưởng, được vua phong làm Quận công.
Nhà vua có công chúa đến tuổi kén chồng. Trong ngày hội lớn, công chúa bị đại
bàng khổng lồ quắp đi. Qua gốc đa chỗ Thạch Sanh đang ở, nó bị chàng dùng
cung tên bắn bị thương. Thạch Sanh lần theo vết máu, biết được chỗ đại bàng ở.
Vua mất công chúa, vô cùng đau khổ, sai LíThông đi tìm, hứa gả con và truyền
ngôi cho. Lí Thông lại nhờ Thạch Sanh cứu công chúa rồi lừa nhốt chàng dưới
hang sâu.
Thạch Sanh giết đại bàng, lại cứu luôn thái tử con vua Thủy Tề bị đại bàng bắt
giam trong cũi cuối hang lừ lâu. Theo chân thái tử, chàng xuống thăm thuỷ cung,

[Type text]

Page 11


được vua Thuỷ Tề khoản đãi rất hậu, tặng nhiều vàng bạc nhưng chàng chỉ xin
cây đàn thần rồi lại trở về gốc đa.

Từ khi được cứu về, công chúa không cười không nói. Hồn chằn tinh và đại bàng
trả thù, vu vạ cho Thạch Sanh khiến chàng bị nhốt vào ngục. Chàng đánh đàn,
công chúa nghe thấy liền khỏi bệnh câm. Thạch Sanh được vua cho gọi lên.
Chàng kể lại rõ mọi việc. Vua giao cho chàng xử tội mẹ con Lí Thông. Được
chàng tha bổng nhưng hai mẹ con trên đường về đã bị sói đánh chết, hoá kiếp
thành bọ hung.
Thạch Sanh được nhà vua gả công chúa cho. Các nước chư hầu tức giận đem
quân sang đánh. Thạch Sanh lại lấy đàn ra gảy khiến quân địch quy hàng. Ăn
không hết niêu cơm nhỏ của Thạch Sanh, quân sĩ mười lăm nước kính phục rồi
rút hết. Nhà vua nhường ngôi báu cho Thạch Sanh.

Tóm tắt truyện Bánh Trưng, Bánh dày
Vua Hùng Vương thứ sáu muốn tìm trong số hai mươi người con trai một người
thật tài đức để nối ngôi nên đã ra điều kiện: không nhất thiết là con trưởng, ai làm
vừa ý nhà vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.
Các lang đua nhau sắm lễ thật hậu, thật ngon. Lang Liêu, người con trai thứ mười
tám, rất buồn vì nhà nghèo, chỉ quen với việc trồng khoai trồng lúa, không biết
lấy đâu ra của ngon vật lạ làm lễ như những lang khác. Sau một đêm nằm mộng,
được một vị thần mách nước, chàng bèn lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm
thành hai thứ bánh, loại hình tròn, loại hình vuông dâng lên vua cha. Vua thấy
bánh ngon, lại thể hiện được ý nghĩa sâu sắc nên lấy hai thứ bánh ấy lễ Trời, Đất
và lễ Tiên vương, đặt tên bánh hình tròn là bánh giầy, bánh hình vuông là bánh
chưng và truyền ngôi cho Lang Liêu.

[Type text]

Page 12


Từ đó, việc gói bánh chưng và bánh giầy cúng lễ tổ tiên trở thành phong tục

không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt Nam.
Tóm tắt truyện Cây khế
Ngày xưa, gia đình nọ có hai anh em phải ra ởriêng do cha mất sớm và người anh
đã có vợ.
Vợ chồng người anh tham lam, giành hết của cải với lí do phải lo hương hỏa cho
cha. Họ chỉ chia cho em khoảnh đất nhỏ có trồng một cây khê. Người em hiền
lành và siêng năng, ngày ngày chăm chút cho cây. Đến ngày thu hoạch, người em
buồn rầu vì một đàn chim lạ đến ăn gần hết những quả khế ngọt mà chàng đã dày
công vun trồng. Đang ngồi bó gối ủ rũ, giọt ngắn giọt dài khóc lóc cho sô" phận
hẩm hiu của mình, người em nghe văng vẳng tiếng nói phát ra từ trên cành khế:
“Chúng tôi không phải chim thường đâu. Ăn khế trả vàng. May túi ba gang, mang
theo mà đựng”.
Y lời hẹn, sáng sớm hôm sau, Chim Thần dịu anh trên lưng và bay ra một hòn đảo
xa tít ngoài khơi. Trên đảo không một bóng người, không có dấu hiệu của sự
sống, chỉ toàn vàng bạc châu báu. Bản chất thật thà, người em làm đúng lời dặn
của Chim Thần. Chim mang chàng về nhà với túi ba gang đầy vàng bạc đủ sống
cả đời.
Cuộc sống người em thay đổi. vẫn lao động chăm chỉ, thêm của cải trời cho,
chẳng bao lâu, người em trở nên giàu có nhất vùng. Người anh hay tin tìm đến để
rõ ngọn nguồn.
Sau khi nghe em kể đầu đuôi câu chuyện, người anh đề nghị đổi cả gia tài để lấy
mảnh đất nhỏ có cây khế. Người anh cũng gặp và được Chim Thần hứa trả vàng
sau khi ngồi khóc than, kể lể. vốn tính tham lam, thêm nghe lời vợ xúi, người anh
đã may ba bao, mỗi bao dài bảy gang, trái hẳn với lời dặn của Chim Thần. Dọc
[Type text]

Page 13


đường bay về, vì số của cải quá nặng, Chim Thần kêu người anh bỏ bớt nhưng vì

tham lam, tiếc của, hắn không nghe. Kết quả, chim đuối sức, chao cánh và kẻ
tham lam bị rơi xuống biển cùng số của cải.
Kẻ tham lam và tàn nhẫn với máu mủ ruột thịt có một kết cục bi đát. Một câu
chuyện thật hay, để lại cho chúng ta một bài học quý giá trong cuộc đời, đó là
“Tham thì thâm”.
Tóm tắt truyện ngắn Cô bé bán diêm An-déc-xen
Trong đêm giao thừa, trời rét mướt, có một cô bé đầu trần, chân đi đất, bụng đói
đang rầu rĩ đi bán diêm trong bóng tối. Cô bé bán diêm ấy đã mồ côi mẹ và cũng
đã mất đi người thương yêu em nhất là bà nội. Em không dám về nhà vì sợ bố sẽ
đánh em. Vừa lạnh vừa đói, cô bé ngồj nép vào một góc tường rồi khẽ quẹt một
que diêm để sưởi ấm. Que diêm thứ nhất cho em có cảm giác ấm áp như ngồi bên
lò sưởi. Em vội quẹt que diêm thứ hai, em được thấy một bàn ăn thịnh soạn hiện
lên. Rồi em quẹt que diêm thứ ba và được thấy cây thông Nô-en. Quẹt que diêm
thứ tư: bà nội hiền từ của em hiện lên đẹp đẽ, gần gũi và phúc hậu biết mấy.
Nhưng ảo ảnh đó nhanh chóng tan đi sau sự vụt tắt của que diêm. Em vội vàng
quẹt hết cả bao diêm để mong níu bà nội lại. Cô bé bán diêm đã chết trong giá rét
khi mơ cùng bà bay lên cao mãi.

[Type text]

Page 14



×