Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Đáp án bài thi em yêu lịch sử việt nam 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (664.69 KB, 12 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẬN THANH XUÂN
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ PHAN ĐÌNH GIÓT
------------------oOo-----------------

BÀI DỰ THI
“EM YÊU LỊCH SỬ VIỆT NAM”

Hà Nội - T9/2016
0


Câu 1 : Trong cuốn “ Việt Nam thi tập quyển “ của Dương Quảng Hàm ghi
lại bài ca dao về 36 phố Hà Nội, có câu sau:
Rủ nhau đi khắp Long Thành
Ba mươi sáu rành rành chẳng sai.
Đóng vai một hướng dẫn viên du lịch em hãy giới thiệu (khoảng 2-3 trang A4)
về lịch sử 36 phố phường của Thăng Long – Hà Nội.
BÀI LÀM:

Tôi may mắn được sinh ra và lớn lên ở thủ đô của mảnh đất cong cong hình
chữ S xinh đẹp. Ngay từ bé ước mơ của tôi là trở thành một hướng dẫn viên du
lịch và bây giờ ước mơ đó của tôi đã trở thành hiện thực. Hôm nay, tôi sẽ giới
thiệu cho các bạn về thủ đô yêu dấu của chúng ta được mọi người gọi là “ Hà
Nội 36 phố phường”.
Khu phố cổ “ 36 phố phường “ của Hà Nội được giới hạn bởi đường Hàng
Đậu ở phía Bắc, phía Tây là đường Phùng Hưng, phía Đông là đường Trần Nhật
Duật và Trần Quang Khải, phía Nam là đường Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ,
Hàng Thùng. Khu phố cổ được biết đến hiện nay được thiết kế và quy hoạch
theo phong cách kiến trúc Pháp với mạng lưới đường hình bàn cờ, nhưng dấu
vết lịch sử thì lại in đậm ở nhiều lớp văn hoá truyền thống đặc biệt bởi vì đến hết
thế kỉ XVI Thăng Long – Đông Đô – Đông Kinh vẫn là đô thị độc nhất của nhà


1


nước Đại Việt lúc ấy. “ Kẻ Chợ “ tên gọi khác của Thăng Long – Hà Nội xưa có
thành, có thị, có bến, có 36 phường buôn bán và thủ công, có chợ ô ven đô, có
các làng nghề chuyên canh và chế biến nông sản. Dân tài tứ xứ kéo về Thăng
Long – Hà Nội, họ cọ xát, đua trí, đua tài tạo nên nét tài hoa độc đáo chỉ có ở
người Hà Nội, ở đất Hà Nội, đó là cách sành mặc, sành chơi, sành ăn, sành làm.
Thương nhân và thợ thủ công sống rải rác trong tất cả các phố phường. Phố giàu
có như Mã Mây tập trung khá nhiều nhà buôn lớn, nhất là thương nhân Hoa
Kiều. Đường xá ở đây được lát sạch sẽ. Các phố được ngăn với nhau bởi những
chiếc cổng lớn xây như bức tường mà bề rộng chiếm cả mặt đường, ban đêm
được đóng một cách nghiêm ngặt. Trong mỗi phố là những dãy nhà san sát làm
theo kiểu chồng bao diêm mà hiện nay chúng ta còn thấy ở các phố Hàng Buồm,
Hàng Bạc, Hàng Ngang, Hàng Đào… Các dãy nhà này vừa là nhà ở lại vừa là
cửa hiệu. Dưới thời nhà Lý, nhà Trần, phố cổ Hà Nội bao gồm nhiều phường
trong tổng số 61 phường thời đó. Vào thời Lê, đầu thế kỉ XVI, Hà Nội trở thành
Đông Kinh, khắp nơi đổ về buôn bán làm ăn trong 36 phường lúc bấy giờ, và
dần dần, nơi đây chính là khu Phố Cổ xứng đáng được xem như là một không
gian, mà tại đó một thời đã thể hiện một dấu ấn không thể phai mờ về một cuộc
sống đô thị khá toàn diện về kinh tế, xã hội, tập quán, truyền thống.
Vào thời Lê, “ phường “ ngoài nội dung chỉ có các tổ chức của những
người cùng làm một nghề ( phường chèo, phường thợ ) thì còn một nội dung
nữa, chỉ những khu vực địa lí được coi là đơn vị hành chính cấp cơ sở ở kinh
thành Thăng Long. Sử cũ còn ghi Thăng Long đời Lê gọi là phủ Phụng Thiên.
Chia ra hai huyện Vĩnh Xương ( sau đổi ra Thọ Xương ) và Quảng Đức ( sau đổi
ra Vĩnh Thuận ). Mỗi huyện 18 phường. Như vậy, Thăng Long có 36 phường.
Suốt ba thế kỉ, nhà Lê vẫn giữ nguyên sự phân định hành chính đó. Phường là tổ
chức nghề nghiệp ( chỉ có ở kinh thành Thăng Long ) còn đơn vị tương đương
với làng xã ở vùng nông thôn. Đây là nơi sống và làm việc của những người làm

cùng một nghề thủ công. Trong số các nghề mà sau đó phát triển ở Hà Nội là
nghề nhuộm, dệt, làm giấy, đúc đồng, rèn và gốm. Ở đây còn có nghề đúc tiền (
sắt và đồng ), đóng thuyền, làm vũ khí và xe kiệu. Khi xưa, khu 36 phố phường
2


phát triển trong môi trường có nhiều ao hồ. Khu này được sông Tô Lịch và sông
Hồng gặp nhau. Cửa sông Tô Lịch là bến cảng và có nhiều có rất nhiều con kênh
nhỏ nằm rải rác trong khu Phố Cổ. Từ thế kỉ XV, khu Kinh Thành gọi là phủ
Trung Đô gồm 2 huyện với tổng số 36 phường. Trong thời kì này đa phần huyện
Thọ Xương, hầu hết các phố đều là nơi buôn bán, rất nhiều đền và chùa cũng
được xây vào thời kì này. Đến khoảng giữa thế kỉ XIX, hai huyện Thọ Xương,
Vĩnh Thuận vẫn y nguyên 13 tổng nhưng con số các phường, thôn, trại. Như
vậy, nhà Lê cho Thăng Long hưởng một quy chế riêng ( gọi là Phủ, trực thuộc
trung ương và suốt ba thế kỉ chỉ gồm có 36 phường ). Ngược lại, nhà Nguyễn đã
đánh đồng Thăng Long với các phủ khác, phải lệ thuộc vào tỉnh và cũng có
tổng, có thôn, có trại như mọi nơi. Trên thực tế không có cái gọi là “ Hà Nội 36
phố phường “. Chỉ có Thăng Long thời Lê có 36 phường hoặc là Hà Nội thời
Minh Mạng có 239 phường, thôn, trại và Hà Nội thời Tự Đức với 153 phường,
thôn, trại.
Phố khác hẳn phường. Nếu phường nguyên nghĩa là một khu vực hành
chính thì phố nguyên nghĩa là chỗ bán hàng, nơi bày hàng ( tức là như ta nói
ngày nay là cửa hàng, cửa hiệu ). Phố có thể là một ngôi nhà,một chỗ trống lấy
làm nơi bày hàng hoá để buôn bán.Ví dụ như cụm từ “phố Hàng Trống” nguyên
nghĩa là một ngôi nhà ,một cửa hàng bán trống.Phố Hàng Chiếu vốn chỉ là một
nhà bày bán chiếu…..Các “phố” tập trung ken sát nhau thành một dãy nên được
gọi tắt là phố.
Đặc điểm chung của các phố cổ Hà Nội là nhiều tên phố bắt dầu bằng từ
Hàng ,tiếp đó là một từ chỉ một nghề nghiệp nào đó . Thí dụ : Hàng Đào ,Hàng
Đường, Hàng Mã, Hàng Thiếc…..Từ đời Lê, nhiều ngừơi Trung Quốc được cư

trú ở Thăng Long, họ rủ nhau đến làm ăn buôn bán ở phố Hàng Ngang.Do đó
thành tên Hàng Ngang.
Như tên gọi Hàng Đường có rất nhiều cửa hàng bán đường , mứt bánh kẹo .Sát
chợ Đồng Xuân là phố Hàng Mã chuyên bán các mặt hàng truyền thống làm
bằng các loại giấy màu. Từ đầu phố Hàng Mã sang phố Hàng Chiếu dài 276m là
3


đến Ô Quan Chưởng di tích khá nguyên vẹn của một trong 36 phố phường
Thăng Long xưa hay phố nghề rất điển hình :Hàng Thiếc. Mỗi nghề còn dữ lại
trên tên phố Hà Nội nay đã qua bao thay đổi, đén nay đã có hơn sáu mươi phố
bắt đầu bằng chữ Hàng như Hàng Đào ,Hàng Tre, Hàng Sắt ,Hàng Mành,Hàng
Bún ,Hàng Bè….Trong các phố của Hà Nội hiện nay,có các phố nguyên chữ
hàng nhưng đã được mang tên mới như: Hàng Cỏ (phố Trần Hưng Đạo), Hàng
Đẫy (Nguyễn Thái Học), Hàng Giò (Bà Triệu), Hàng Lọng (Lê Duẩn), Hàng
Nâu (Trần Nhật Duật), Hàng Kèn (Quang trung),Hàng Bột ( Tôn Đức Thắng).

4


Câu 2: Hãy nêu những thắng lợi tiêu biểu của Lực lượng vũ trang thủ đô từ
khi thành lập đến nay. Cảm nhận của em về một trong những thắng lợi đó.
Hãy kể một câu chuyện (nhân vật hoặc sự kiện) em biết, có liên quan đến
chiến thắng đó.
BÀI LÀM

Từ những đội tiền thân ra đời trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, lực
lượng nhỏ, lẻ, trình độ học vấn thấp, chưa được trang bị kiến thức quân sự, vũ
khí thô sơ, nhưng với lòng yêu nước, quyết tâm đi theo Đảng Cộng sản, chiến
đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, LLVT Thủ đô Hà Nội qua đấu tranh cách

mạng đã nhanh chóng phát triển về mọi mặt: Tổ chức, quân số, trang bị vũ khí,
kỹ thuật, trình độ kỹ, chiến thuật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đấu tranh giành
chính quyền và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Thủ đô Hà nội trong từng thời kỳ lịch
sử.
Từ sau Cách mạng tháng Tám, LLVT Thủ đô Hà Nội cùng các tầng lớp
nhân dân mưu trí, ngoan cường, kiên quyết đấu tranh đập tan mọi âm mưu, thủ
5


đoạn và hoạt động chống phá của tập đoàn đế quốc và các thế lực thù địch, phản
cách mạng trong và ngoài nước, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, đưa
cách mạng Việt Nam thoát khỏi tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”, vững bước đi
vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, oanh liệt và vẻ vang,
Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, ngày 19 tháng 10
năm 1046, Chiến khu XI - tổ chức hành chính quân sự thống nhất của các LLVT
Thủ đô Hà Nội được thành lập. Chiến khu XI đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
Trung ương. Ngày 25 tháng 7 năm 1947, trước yêu cầu của cuộc kháng chiến
Trung ương quyết định mở rộng địa bàn hoạt động của Chiến khu XI bao gồm:
Hà Nội, Hà đông và Sơn Tây. Từ kết quả phân tích, đánh giá khách quan, khoa
học sự ra đời, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, sự phát triển, trưởng thành,
chiến đấu, chiến thắng của Chiến khu XI, qua các cuộc Hội thảo khoa học, ngày
31 tháng 5 năm 2010, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 1850/QĐ-QP
công nhận ngày 19 tháng 10 năm 1946 là Ngày truyền thống của Lực lượng vũ
trang Thủ đô Hà Nội.
Suốt chặng đường 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, LLVT Thủ
đô Hà Nội đã kiên trì trụ vững, bám dân, bám đất, xây dựng cơ sở, dựa vào dân
chiến đấu và lập nên bao chiến công hiển hách, vẻ vang. Nhiều trận đánh tiêu
biểu, hiệu quả, góp phần tạo ra bước ngoặt quan trọng, để lại kinh nghiệm quý
về chiến tranh nhân dân, làm phong phú nghệ thuật quân sự đặc sắc của dân tộc
Việt Nam và Thăng Long - Hà Nội. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

nước, LLVT Thủ đô Hà Nội vừa sản xuất, vừa tăng cường chi viện cho các
chiến trường, đồng thời dũng cảm kiên cường, mưu trí, sáng tạo, phối hợp chặt
chẽ với lực lượng Phòng không - Không quân quốc gia đánh thắng hai cuộc
chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, đỉnh cao là
Chiến dịch phòng không bảo vệ Thủ đô Hà Nội trong 12 ngày đêm cuối tháng
12 năm 1972, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội Kỳ tích của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, để Hà Nội trở thành “Thủ đô
lương tri và phẩm giá con người”. Thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
6


thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, LLVT Thủ đô Hà Nội luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng,
vượt mọi khó khăn, vừa tăng cường chi viện cho các mặt trận bảo vệ biên giới,
làm nhiệm vụ quốc tế, vừa là lực lượng nòng cốt góp phần cùng các tầng lớp
nhân dân Thủ đô là thất bại âm mưu, thủ đoạn, hoạt động “diễn biến hòa bình”,
bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc
thành quả cách mạng, tham gia xây dựng kiến thiết Thủ đô ngày càng văn minh,
hiện đại.

7


Câu 3: Bằng những kiến thức lịch sử chọn lọc, hãy kahửng định quá trinh
xác lập và thực thi chủ quyền 1 cách liên tục của Việt Nam đối với 2 quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Em cần làm gì để góp phần bảo vệ chủ quyền biển,
đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
BÀI LÀM

Từ thế kỷ XVII đến nay, Việt Nam là quốc gia đầu tiên, duy nhất xác lập
chủ quyền và quản lý liên tục, hòa bình hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Việt Nam có vùng biển rộng, với hơn 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ và hai quần
đảo ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa. Trong đó, quần đảo Hoàng Sa nằm
trong khu vực biển có vị trí từ 15o45’ đến 17o15’ độ vĩ Bắc và 111o đến 113o độ
kinh Đông, cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) khoảng 120 hải lý; Quần đảo Trường
Sa nằm trong khu vực biển ở vị trí từ 6o50’ đến 12o vĩ Bắc và 111o30’ đến
117o20’ độ kinh Đông, cách đảo Phú Quý (Bình Thuận) khoảng 203 hải lý. Đây
là hai quần đảo tiền tiêu của Tổ quốc; là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ
Việt Nam.
Theo nhiều cứ liệu lịch sử, đến đầu thế kỷ XVII, Hoàng Sa và Trường Sa
vẫn là hai quần đảo vô chủ. Đến nửa đầu thế kỷ XVII, Chúa Nguyễn đã tổ chức
8


“đội Hoàng Sa” (lấy người từ xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi) ra
quần đảo Hoàng Sa (với khoảng thời gian từ 6 đến 8 tháng mỗi năm) để thu
lượm hàng hóa trôi dạt trên biển, đánh bắt hải sản quý hiếm; đồng thời, đo vẽ sơ
đồ, hải trình, trồng cây và dựng mốc trên quần đảo. Cũng với nhiệm vụ này, vào
nửa đầu thế kỷ XVIII, Chúa Nguyễn tổ chức thêm “đội Bắc Hải” (lấy người từ
thôn Tứ Chính và xã Cảnh Dương, phủ Bình Thuận) để tiến ra quần đảo Trường
Sa. Theo hiểu biết địa lý lúc bấy giờ, địa danh quần đảo Hoàng Sa liền một dải,
bao gồm cả Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa,
Thực tế này đã được các tài liệu của Việt Nam và nhiều nước trên thế giới
lưu giữ dưới dạng: tư liệu, sách cổ, văn bản pháp lý của Nhà nước cùng các bản
đồ thể hiện việc thực thi chủ quyền của các nhà nước phong kiến Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điểnhình là Toản tập Thiên Nam tứ
chí lộ đồ thư (năm 1686) của Đỗ Bá; Phủ biên tạp lục (năm 1776) của Lê Quý
Đôn; Lịch triều hiến chương loại chí (năm 1821) của Phan Huy Chú; Hải ngoại
ký sự (băn 1696) của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán và An Nam đại quốc
họa đồ của giám mục người Pháp Lu - ít Ta - bơ,...
Đặc biệt, Việt Nam còn có các Châu bản triều Nguyễn mà các quốc gia

khác không thể có được. Đó là các văn bản hành chính chính thức của triều đình
nhà Nguyễn (thế kỷ XVII - XVIII) về cử các đội thuyền của Việt Nam đi khảo
sát, đo đạc, khai thác và tuần phòng tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Các văn bản này dưới dạng chỉ dụ, đều có bút phê và đóng dấu son của nhà Vua.
Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định, từ thế kỷ XVII, Nhà nước
phong kiến Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền cần thiết đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Trong thời kỳ Pháp thuộc, với tư các đại diện cho Việt Nam về đối ngoại
theo Hiệp ước Pa - tơ - nốt (năm 1884), Chính quyền thuộc địa Pháp đã có nhiều
hoạt động cụ thể củng cố chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và
Trương Sa. Từ năm 1925 đến năm 1927, Pháp đã tổ chức điều tra về khí hậu,
thổ nhưỡng, nghiên cứu mỏ và duy trì tuần tra trên quần đảo Hoàng Sa. Liên tục
9


trong các năm 1930 - 1933, Pháp đã đư quân đội ra đóng giữ ở quần đảo Trường
Sa. Để tiện quản lý, năm 1933, Pháp đã sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh
Bà Rịa (Nam Kỳ); thành lập đơn vị hành chính ở Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa
Thiên (năm 1938). Cũng trong thời gian này, Pháp còn cho đặt cột mốc, xây
ngon hải đăng và các trạm: khí tượng, vô tuyến điện trên hai quần đảo. Trong
quan hệ quốc tế, Pháp đã nhiều lần lên tiếng phản đối các đòi hỏi chủ quyền của
Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa. Ngày 14/10/1950, Pháp đã chính thức
trao việc quản lý quần đảo Hoàng Sa cho chính phủ Bảo Đại. Đặc biệt, tại Hội
nghị Xan Phan-xít-xcô (năm 1951), trước đại diện của 51 quốc gia (trong đó có
Trung Quốc), đại diện của chính phủ Bảo Đại đã khẳng định chủ quyền từ lâu
đời của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp
phải bất cứ sự phản đối nào của các nước tham dự Hội nghị.
Năm 1975, cùng với tiến trình giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,
Hải quân nhân dân Việt Nam đã giải phóng các đảo do quân đội Sài Gòn đóng
giữ như: đảo Trường Sa, Sơn Ca, Nam Yết, Song Tử Tây, Sinh Tồn và An

Bang,... thuộc quần đảo Trường Sa. Đồng thời, Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Liên tục từ đó đến nay,
Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật khẳng định
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ
Việt Nam và Việt Nam có đầy đủ chủ quyền đối với hai quần đảo này, phù hợp
với các quy định của luật pháp và thực tiễn quốc tế. Để tiếp tục thể hiện các hoạt
động chủ quyền trên thực tế, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành lập huyện
đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc tỉnh
Quảng Nam - Đà Nẵng (năm 1982). Hiện nay, huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc
thành phố Đà Nẵng; huyện đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Khánh Hòa với một
thị trấn và hai xã đảo.
Từ những phân tích trên cho thấy, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng pháp
lý, lịch sử để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
10


Trường Sa. Đồng thời, Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất đã chiếm hữu thật sự
và quản lý hai quần đảo này một cách liên tục, hòa bình, phù hợp với các quy
định của luật pháp quốc tế.
Thanh thiếu niên học sinh, sinh viên Việt Nam luôn đi đầu trong việc tích
cực tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cộng đồng về quản lý, bảo vệ và phát
triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam. Đồng thời tranh thủ các nguồn lực và
sự ủng hộ từ hợp tác quốc tế với các nước bè bạn và các tổ chức quốc tế trên
mọi lĩnh vực.
Tăng cường học tập, nghiên cứu, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý,
bảo vệ và phát triển bền vững biển, đảo.
Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cộng đồng về khai thác, sử dụng
bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường vùng ven biển, hải đảo.
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến kiến thức phòng ngừa, ứng phó, kiểm

soát và khắc phục hậu quả thiên tai, sự cố môi trường biển.
Xây dựng và quảng bá thương hiệu biển Việt Nam.
Góp phần tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị thế quốc gia biển và hội
nhập quốc tế trong quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển, đảo.

11



×