Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

hính sách về di sản tư liệu từ thực tiễn tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 122 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THẢO

CHÍNH SÁCH VỀ DI SẢN TƯ LIỆU
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số

: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN THỊ AN

HÀ NỘI, NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN

Đề tài luận văn: “Chính sách về di sản tư liệu từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang”
đƣợc thực hiện bằng sự cố gắng tìm tòi, học hỏi của học viên cùng với sự hƣớng dẫn
tận tình của PGS.TS Trần Thị An – ngƣời hƣớng dẫn khoa học. Tôi xin cam đoan
những kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và không trùng lặp với các đề
tài khác trong cùng lĩnh vực. Những thông tin trích dẫn trong luận văn đều đƣợc ghi
rõ nguồn, tác giả.
Tôi xin chịu toàn bộ trách nhiệm về lời cam đoan của mình.



Hà Nội, tháng 9 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thảo


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1

Chương 1: LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH DI SẢN VÀ DI SẢN

8

TƯ LIỆU Ở VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận

8

1.2. Các vấn đề về thực trạng của di sản tƣ liệu

14

1.3. Chủ thể chính sách về di sản tƣ liệu ở Việt Nam

19


1.4. Môi trƣờng thể chế chính sách về di sản tƣ liệu ở Việt Nam

19

1.5. Các yếu tố ảnh hƣởng tới chính sách về di sản tƣ liệu ở Việt Nam

20

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VỀ DI SẢN TƯ

23

LIỆU TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG
2.1. Khái quát về di sản tƣ liệu ở Việt Nam nói chung, Bắc Giang

23

nói riêng
2.2. Chính sách về di sản tƣ liệu hiện hành tại tỉnh Bắc Giang

34

2.3. Tổ chức thực hiện chính sách về di sản tƣ liệu tại tỉnh Bắc Giang

48

Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH VỀ DI SẢN

68


TƯ LIỆU Ở VIỆT NAM
3.1. Quan điểm, mục tiêu, định hƣớng hoàn thiện chính sách về di sản

68

tƣ liệu ở Việt Nam.
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện chính sách về di sản tƣ liệu ở Việt Nam

70

3.3. Một số đề xuất chính sách

76

KẾT LUẬN

79

TÀI LIỆU THAM KHẢO

81

PHỤ LỤC

89


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BCH


Ban chấp hành

BQL

Ban Quản lý

DSTG

Di sản thế giới

DSTL

Di sản tƣ liệu

HĐND

Hội đồng Nhân dân

KHCN

Khoa học và Công nghệ

KHXHNV

Khoa học xã hội và Nhân văn

Nxb

Nhà xuất bản


TW

Trung ƣơng

UBND

Uỷ ban Nhân dân

UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc

VHTTDL

Văn hóa, Thể thao và Du lịch


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một trong những quốc gia có truyền thống văn hóa lâu đời, các giai
đoạn lịch sử đều có nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể quý báu, trong đó, có các
di sản về tƣ liệu. Cho đến năm 2016, Việt Nam có sáu di sản tƣ liệu đã đƣợc UNESCO
công nhận ở hai cấp độ.
Ở cấp độ Di sản tư liệu thế giới, Việt Nam có:
a) Mộc bản triều Nguyễn (đƣợc UNESCO công nhận ngày 31/7/2009).
b) Bia Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long (đƣợc UNESCO công nhận là Di sản tƣ liệu
thế giới vào ngày 27/7/2011).
Ở cấp độ Di sản tư liệu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam có:
a) Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm, tỉnh Bắc Giang (đƣợc UNESCO vinh danh ngày

16/5/2012).
b) Châu bản triều Nguyễn (đƣợc UNESCO vinh danh ngày 14/5/2014).
c) Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế (đƣợc UNESCO vinh danh ngày
19/5/2016).
d) Mộc bản trường học Phúc Giang (đƣợc UNESCO vinh danh ngày 19/5/2016).
Ngoài sáu Di sản tƣ liệu đƣợc UNESCO công nhận ở cấp thế giới và cấp khu vực
Châu Á – Thái Bình Dƣơng, Việt Nam còn nhiều di sản tƣ liệu có giá trị nhƣng chẳng
những chƣa đƣợc trình UNESCO công nhận mà còn chƣa đƣợc quản lý và bảo vệ tốt,
trong đó có kho mộc bản quý giá ở chùa Bổ Đà (tỉnh Bắc Giang) với gần 2000 ván in
kinh sách Phật, đƣợc khắc bằng chữ Hán, chữ Nôm và cả chữ Phạn hiện đƣợc bảo quản
trên 08 giá gỗ. Trong khi mộc bản ở chùa Vĩnh Nghiêm đƣợc bảo tồn trong các tạng kinh
tựa nhƣ ngôi nhà nhỏ có cửa khóa, mái che thì các tấm mộc bản ở chùa Bổ Đà đƣợc xếp
đều trên kệ gỗ sơ sài nên nguy cơ bị hƣ hại và thất thoát hiện vật là rất lớn. Về kỹ thuật
bảo quản, cả 02 kho mộc bản này hiện đều đƣợc bảo quản một cách khá thủ công, trong
môi trƣờng nhiệt độ, độ ẩm tự nhiên của chùa. Có thể thấy, hình thức bảo quản hiện nay
còn theo thói quen chƣa có những nghiên cứu chuyên sâu về điều kiện môi trƣờng, khí

1


hậu, các tác nhân gây hại để từ đó đề xuất giải pháp khoa học hữu hiệu cho công tác bảo
vệ di sản.
Từ những khái quát trên cho thấy, hiện nay, việc bảo tồn hai kho tƣ liệu quý là
Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và Mộc bản Chùa Bổ Đà (tỉnh Bắc Giang) đang gặp nhiều
khó khăn, trong đó, khó khăn lớn nhất là việc thiếu chính sách cụ thể về bảo quản di sản
tƣ liệu, mặc dù Luật Di sản văn hóa đã đƣợc ban hành năm 2001 và sửa đổi năm 2009.
Chúng tôi cho rằng, đây là một vấn đề rất cần bổ sung để hoàn thiện chính sách về văn
hóa ở Việt Nam.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu Chính sách về di sản tư liệu từ
thực tiễn tỉnh Bắc Giang để làm đề tài luận văn cao học chuyên ngành chính sách công.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, các nghiên cứu về di sản tƣ liệu nói chung đã có một số bài viết trên
một số báo, tạp chí, hội thảo giới thiệu về Chương trình Ký ức thế giới, về vấn đề tiềm
năng của di sản tƣ liệu, cách thức, quy trình, tiêu chí, kỹ thuật làm hồ sơ di sản tƣ liệu đệ
trình UNESCO nhƣ: Vũ Thị Minh Hƣơng (2009), Chương trình Ký ức Thế giới của
UNESCO, Tạp chí Tổ chức Nhà nƣớc, số 1/2009; Phạm Thị Khánh Ngân (2011), Một số
giải pháp về việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu thế giới tại Việt Nam, Kỷ yếu
Hội thảo khoa học của Cục Văn thƣ Lƣu trữ Nhà nƣớc; Phạm Thị Khánh Ngân (2014),
Chương trình Ký ức Thế giới và các di sản tư liệu đã được UNESCO công nhận ở Việt
Nam, Tạp chí Di sản văn hóa, số 1(46); Chiêu Minh, Nhiều tiềm năng cho Di sản tư liệu
thế giới, ngày 12/01/2013.
Các bài báo, tạp chí, bài viết khác viết về công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản
nói chung và di sản tƣ liệu nói riêng, tiêu biểu nhƣ: Nguyễn Thế Hùng (2008), Bảo tồn di
sản văn hóa bằng giấy, Một con đƣờng tiếp cận di sản văn hóa, tr. 397 - 407, Nxb Thế
giới, Hà Nội; Hồng Trang, Phát huy giá trị di sản tư liệu, />ngày 03/4/2016; Nguyễn Sửu, Khuyến nghị việc Bảo tồn và tiếp cận Di sản tư liệu dưới
dạng số, ngày 21/5/2016.
Các bài viết về chính sách về di sản tƣ liệu nói chung và chính sách về di sản tƣ
liệu Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà (Bắc Giang) nói riêng chƣa có đề tài nào
đi sâu nghiên cứu. Từ năm 2014 đến nay, Viện Nghiên cứu Tôn giáo (thuộc Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam), Viện Khoa học lâm nghiệp (thuộc Bộ Nông nghiệp và

2


Phát triển Nông thôn), Đại học KHXHNV (thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), Viện Văn
hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam (thuộc Bộ VHTTDL) đã đƣợc Bộ KHCN giao thực
hiện cụm đề tài độc lập cấp Nhà nƣớc về Bảo tồn, phát huy giá trị di sản Mộc bản chùa
Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà, tỉnh Bắc Giang. Những kết quả nghiên cứu ban đầu của
cụm các đề tài nêu trên chƣa đƣợc công bố chính thức. Tuy nhiên, qua một số bài viết tại
các hội thảo khoa học liên quan do nhóm đề tài tổ chức đã đƣa ra những nghiên cứu về

quy trình chế tác mộc bản, về tình trạng cơ lý hóa của mộc bản, về bảo quản mộc bản và
kho chứa mộc bản...
Trong cụm 4 đề tài cấp Nhà nƣớc nêu trên, đề tài mang tên Giá trị di sản mộc bản
chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà tỉnh Bắc Giang do Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chủ trì thực hiện từ 2014 – 2016 có đặt ra
nghiên cứu một số nội dung về quản lý nhà nƣớc đối với di sản mộc bản ở hai ngôi chùa này.
Có thể kể đến một số bài viết tại Hội thảo do Viện Nghiên cứu Tôn giáo tổ chức
tháng 01/2016 đã tiếp cận vấn đề ở góc độ đề xuất công tác bảo quản di sản mộc bản, cụ
thể là:
Tạ Quốc Khánh và Đoàn Thị Hồng Minh (2016), Một vài đề xuất cho công tác
bảo quản di sản Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà (Bắc Giang), Kỷ yếu Hội
thảo khoa học Giá trị các mặt của di sản mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà tỉnh
Bắc Giang, tr.190-195; Nguyễn Quang Khải (2016), Từ việc tìm hiểu tình hình Mộc bản ở
Bắc Giang và Bắc Ninh, suy nghĩ về tình hình bảo quản Mộc bản ở ta, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học Giá trị các mặt của di sản mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà tỉnh Bắc
Giang, tr.181-189;…
Về phía tỉnh Bắc Giang, trong những năm gần đây (đặc biệt là từ khi Mộc bản
chùa Vĩnh Nghiêm đƣợc UNESCO công nhận là Di sản tƣ liệu khu vực Châu Á – Thái
Bình Dƣơng), một số văn bản mang tính chỉ đạo, quản lý nhà nƣớc của tỉnh đã đƣợc ban
hành nhằm bƣớc đầu tạo điều kiện thuận lợi cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản
văn hóa nói chung và giá trị của những kho mộc bản đƣợc lƣu giữ tại địa phƣơng nói
riêng. Tuy nhiên, những văn bản đó chƣa phải văn bản chính sách mang tính chiến lƣợc
lâu dài mà hầu hết chỉ là các Quyết định, Chƣơng trình, Kế hoạch của UBND tỉnh, của
Sở VHTTDL tỉnh, của UBND các huyện Yên Dũng, Việt Yên.

3


Đối với các tài liệu nghiên cứu về chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà hầu hết mới
khai thác ở việc nghiên cứu về giá trị của chùa và giá trị của tƣ liệu mộc bản tại chùa. Cụ

thể nhƣ sau:
Những công trình đề cập đến chùa Vĩnh Nghiêm nói chung, di sản mộc bản tại
chùa Vĩnh Nghiêm nói riêng, tiêu biểu gồm:
Nguyễn Xuân Cần (2004), Chốn tổ Vĩnh Nghiêm, Bảo tàng Bắc Giang, là cuốn
sách đƣợc biên tập sau đợt Bảo tàng tỉnh Bắc Giang tổ chức kiểm kê, in dập, phiên âm
dịch nghĩa một số tác phẩm từ mộc bản của chùa;
Ngô Văn Trụ (2011), Chùa Vĩnh Nghiêm, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Bắc
Giang, là tập sách có nội dung giới thiệu một cách khái quát nhất về những đặc trƣng của
các ngôi chùa theo Thiền phái Trúc Lâm ở Bắc Giang nói chung và những giá trị văn hóa
tiêu biểu của chùa Vĩnh Nghiêm – Đức La nói riêng;
Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2012), Chùa Vĩnh Nghiêm với Thiền phái Trúc Lâm Yên
Tử, Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội, là tập sách thứ ba viết về chùa Vĩnh Nghiêm nhƣng
có nội dung mới, thể hiện đƣợc những nét tiêu biểu, đặc sắc của chùa và những di sản văn
hóa còn đƣợc lƣu giữ bảo tồn ở vùng La nói chung, chùa Vĩnh Nghiêm nói riêng);
Ngoài ra, còn có một số công trình nhƣ: Nguyễn Đăng Văn (2000), Bước đầu tìm
hiểu kho ván in ở chùa Vĩnh Nghiêm, in trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm
1999, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Minh Lực (2003), Những tư liệu hiện vật ở chùa
Vĩnh Nghiêm, Bắc Giang, in trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2002,
Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Văn Phong (2005), Kho “mộc thư” chùa Vĩnh
Nghiêm Bắc Giang với giá trị văn hóa, Tạp chí Hán Nôm số 5/2005, Hà Nội; Nguyễn
Thị Thúy Bình (2011), Bước đầu tìm hiểu về công tác bảo quản tài liệu mộc bản kinh
Phật chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang và đề xuất một số phương hướng bảo quản trong thời
gian tới, Kỷ yếu Hội thảo Chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang và Thiền phái Trúc Lâm trong
quá trình phát triển Phật giáo Việt Nam, tr.290-294, Nxb. Thông Tấn, Hà Nội; Nguyễn
Văn Phong (2011), Nghiên cứu, tuyên truyền, bảo tồn và phát huy giá trị di sản mộc bản
chùa Vĩnh Nghiêm, Kỷ yếu Hội thảo Chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang và Thiền phái Trúc
Lâm trong quá trình phát triển Phật giáo Việt Nam, tr.329-332, Nxb. Thông Tấn, Hà Nội;
Lƣu Thế Hân (2013), Giá trị mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm nhìn từ góc độ mỹ học truyền
thống, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Bảo tồn, khai thác giá trị Mộc bản chùa Vĩnh


4


Nghiêm, tỉnh Bắc Giang; Sở VHTTDL Bắc Giang; Nguyễn Tá Nhí (2013), Từ kho ván
khắc in kinh Phật của Vĩnh Nghiêm tỉnh Bắc Giang, tìm hiểu thêm lịch sử khắc ván in
kinh Phật ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Bảo tồn, khai thác giá trị Mộc
bản chùa Vĩnh Nghiêm, tỉnh Bắc Giang…
Những nghiên cứu về chùa Bổ Đà nói chung, di sản mộc bản tại chùa Bổ Đà nói
riêng còn khá khiêm tốn so với giá trị và tầm mức của ngôi chùa này trong lịch sử cũng
nhƣ hiện tại, một số nghiên cứu tiêu biểu nhƣ: Nguyễn Hữu Tự (1992), Chùa Bổ Đà: một
trung tâm Phật giáo thời Lê, in trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1991,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Ngô Thế Thịnh (1997), Chùa Bổ Đà, Tạp chí Nghiên cứu
Phật học, số 6; Nguyễn Hồng (1998), Lịch sử xây dựng chùa Bổ Đà, Tạp chí Nghiên cứu
Phật học, số 3; Chùa Bổ Đà: sự nghiệp cứu nước của các tăng ni, Phật tử qua các giai
đoạn lịch sử, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 4/1998; Đào Ngọc Sơn (2004), Chùa Bổ
Đà - Tứ Ân trong lịch sử Phật giáo xứ Kinh Bắc, Nguyệt san Giác Ngộ, các số 101,102
và 103; Nguyễn An, Độc đáo kho mộc bản chùa Bổ Đà, ngày
02/12/2012; Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang (2015), Mộc bản chùa Bổ
Đà - Đề mục tổng quan, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, là cuốn sách giới thiệu tổng quan
toàn bộ khối mộc bản chùa Bổ Đà gồm gần 2.000 tấm gỗ khắc chữ Hán Nôm ngƣợc, với
gần 4.000 mặt khắc, tƣơng đƣơng trên 7.000 trang sách, chủ yếu là kinh Phật, có niên đại
sớm nhất từ thời Lê (1775). Nội dung tài liệu mộc bản phản ánh đời sống văn hóa của
ngƣời dân Kinh Bắc xƣa, có tính giáo dục rất cao, hƣớng con ngƣời sống thiện và làm
việc thiện...
Từ kết quả những công trình nghiên cứu, bài viết đã đƣợc tổng hợp nêu trên cho
thấy các vấn đề nghiên cứu về di sản tƣ liệu nói chung, về chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ
Đà nói chung và di sản mộc bản tại hai ngôi chùa này nói riêng mới chủ yếu dừng lại ở
việc khảo tả, đánh giá hiện trạng di tích, di vật và mộc bản đang có tại đây. Đồng thời,
các nghiên cứu đều chỉ ra và khẳng định giá trị quý báu của di tích chùa Vĩnh Nghiêm,
chùa Bổ Đà cũng nhƣ giá trị đặc biệt của hai kho mộc bản trên nhiều phƣơng diện khác

nhau. Các bài viết và công trình nghiên cứu đều chƣa đặt ra vấn đề hoàn thiện chính sách
bảo tồn di sản tƣ liệu. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đều cung cấp những gợi
ý quý báu cho chúng tôi khi thực hiện đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

5


3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát thực trạng bảo tồn di sản tƣ liệu ở chùa Vĩnh Nghiêm và chùa
Bổ Đà, luận văn đặt mục tiêu đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện chính sách này
tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, lý thuyết cơ bản về chính sách văn hóa (cụ thể là chính
sách di sản) ở Việt Nam.
- Vận dụng lý thuyết về chính sách công để khảo sát thực tiễn thực thi chính sách
của tỉnh Bắc Giang trong bảo tồn di sản tƣ liệu ở chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà.
- Đề xuất, khuyến nghị các giải pháp hoàn thiện chính sách về di sản tƣ liệu ở Việt
Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chính sách di sản, cụ thể là chính sách về di sản tƣ liệu ở Việt Nam nói chung, ở
Bắc Giang nói riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: tỉnh Bắc Giang (giới hạn nghiên cứu tại hai kho mộc bản
chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà).
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2010 đến 2016.
Thời gian thực hiện nghiên cứu: Tháng 01/2016 đến tháng 8/2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Luận văn sử dụng cách tiếp cận liên ngành xã hội học, sử học và đặc biệt là vận
dụng phƣơng pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách
công về chu trình chính sách từ xác định vấn đề chính sách đến hoạch định, xây dựng,
thực hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Qua
thực tiễn chính sách công giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp định tính: tiến hành phỏng vấn sâu các nhà quản lý văn hóa ở
Bắc Giang, những ngƣời trông giữ chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà, các nhà nghiên
cứu di sản tƣ liệu nói chung và nghiên cứu mộc bản ở Bắc Giang nói riêng)...

6


- Phương pháp tổng hợp, thu thập số liệu
+ Các văn bản: Văn kiện Đại hội và Nghị quyết của TW Đảng, của Tỉnh ủy Bắc
Giang; Các văn bản luật và dƣới luật của Nhà nƣớc quy định về di sản ở Việt Nam; Các
báo cáo thống kê, văn bản có liên quan của cơ quan Bộ VHTTDL, UBND tỉnh Bắc
Giang, Sở VHTTDL Bắc Giang; Các quyết định, quy định, báo cáo của Bộ VHTTDL và
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Bắc Giang về di sản tƣ liệu.
+ Số liệu thứ cấp: các số liệu di sản tƣ liệu ở Việt Nam nói chung, Bắc Giang nói riêng.
+ Số liệu sơ cấp: tự thu thập qua điều tra thực tế tại chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Đề tài vận dụng, bổ sung lý thuyết khoa học chính sách công để làm rõ vấn đề
khoa học và thực tiễn của một chính sách cụ thể: chính sách về di sản tƣ liệu.
- Đề tài cung cấp những nghiên cứu, tƣ liệu, kết quả khảo sát thực tế tại Bắc
Giang, qua đó góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận của khoa học chính sách
văn hóa mà cụ thể là chính sách di sản nói riêng, chính sách công nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua thực tiễn nghiên cứu chính sách về di sản tƣ liệu tại Bắc Giang chỉ ra đƣợc

những thuận lợi, khó khăn, những vƣớng mắc, hạn chế trong việc hoạch định và thực thi
chính sách này. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp cho tỉnh Bắc Giang có
thêm cơ sở khoa học và thực tiễn để hoàn thiện và tổ chức thực hiện chính sách về di sản
tƣ liệu một cách hiệu quả hơn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục các
bảng, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn đƣợc cơ cấu theo 3 chƣơng sau:
Chƣơng 1: Lý luận về chính sách di sản và di sản tƣ liệu ở Việt Nam.
Chƣơng 2: Thực trạng thực hiện chính sách về di sản tƣ liệu từ thực tiễn tỉnh Bắc
Giang.
Chƣơng 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách về di sản tƣ liệu ở Việt Nam.

7


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH DI SẢN VÀ DI SẢN TƯ LIỆU Ở VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Chính sách công
Chính sách là công cụ quản lý nền tảng đƣợc Nhà nƣớc sử dụng để điều hành các
hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Do đó, chính sách thể hiện mối quan hệ giữa
Nhà nƣớc – công dân và khái niệm chính sách công phụ thuộc nhiều vào bản chất của
Nhà nƣớc.
Trên thế giới, lịch sử ngành chính sách công đƣợc phần lớn các nhà nghiên cứu
xác định bắt đầu vào năm 1922. Tuy nhiên, khoa học chính sách công đƣợc bắt đầu phát
triển vào cuối những năm 60 của thế kỷ 20. Từ khi ra đời đến nay, khái niệm chính sách
công đƣợc hiểu theo nhiều cách khác nhau. Tùy vào mục đích nghiên cứu, sử dụng mà
khái niệm chính sách công đƣợc hiểu theo những cách riêng nhất định.
Có thể kể đến một số khái niệm chính sách công trên thế giới nhƣ sau:
Theo James Anderson: “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo

đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm“ [19,
tr.4]. Theo Thomas R.Dye, định nghĩa về chính sách công đƣợc hiểu một cách ngắn gọn
nhƣ sau: “Chính sách công là cái mà Chính phủ lựa chọn làm hay không làm“ [19, tr.4].
Gần đây nhất, William Jenkin đƣa ra một định nghĩa về chính sách công đƣợc chấp nhận
tƣơng đối rộng rãi: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau
của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu
và các giải pháp để đạt đƣợc các mục tiêu đó“ [19, tr.6].
Tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đƣa ra những cách hiểu về chính sách
công khác nhau.
Lê Chi Mai đã tổng kết về khái niệm chính sách công với một số ý nhƣ sau: “Thứ
nhất, chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nƣớc... Chính sách công do Nhà nƣớc ban
hành nên có thể coi chính sách công là chính sách của Nhà nƣớc. Nhà nƣớc ở đây đƣợc
hiểu là cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nƣớc, bao gồm Quốc hội, Các Bộ, chính
quyền địa phƣơng các cấp“ [19, tr.9]. “Thứ hai, các quyết định này là những quyết định

8


hành động, có nghĩa là chúng bao gồm cả những hành vi thực tiễn...Thứ ba, chính sách
công tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo
những mục tiêu đã xác định. Chính sách công là một quá trình hành động nhằm giải quyết
một vấn đề nhất định“ [19, tr.10]. “Thứ tƣ, chính sách công bao gồm nhiều quyết định có
liên quan lẫn nhau.... Các quyết định này có thể bao gồm cả luật, các văn bản quy phạm
pháp luật khác, thậm chí cả chƣơng trình dự án mà bản chất là giải pháp cho vấn đề chính
sách“ [19, tr.11].
Tác giả Đỗ Phú Hải đã đƣa ra định nghĩa về chính sách công nhƣ sau: “Chính sách
công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nƣớc nhằm lựa chọn
các mục tiêu cụ thể với các giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã
hội theo mục tiêu đã xác định của Đảng chính trị cầm quyền“ [20, tr.37].
Tại Việt Nam, chính sách công đƣợc thể hiện dƣới nhiều loại văn bản chính sách

khác nhau bao gồm cả Luật, Nghị định, Thông tƣ, Quyết định, Chiến lƣợc, Quy hoạch, kế
hoạch của các cơ quan trung ƣơng và địa phƣơng. Chính sách công không chỉ tập trung
giải quyết các vấn đề đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội nhằm giải quyết một hoặc một
số vấn đề có mối quan hệ biện chứng đang đặt ra trong đời sống xã hội mà còn giải quyết
mối quan hệ giữa các bên tham gia chính sách.
1.1.2. Chính sách về di sản tư liệu
1.1.2.1. Di sản và di sản tư liệu
* Di sản:
Từ điển Hán Việt Từ Nguyên định nghĩa: Di sản là của cải giá trị của đời trƣớc để
lại [28, tr.433]. Nhƣ vậy, di sản văn hóa đƣợc hiểu nhƣ là tài sản, là báu vật của thế hệ
trƣớc để lại cho thế hệ sau, gồm các tác phẩm nghệ thuật dân gian, công trình kiến trúc,
tác phẩm điêu khắc, tác phẩm văn học...
Tiến triển, vận động, thay đổi theo thời gian, ngày nay khái niệm di sản không
hoàn toàn đồng nhất với khái niệm tài sản từ quá khứ. Không phải bất cứ quá khứ nào
cũng đƣợc coi là di sản. Di sản là sản phẩm của quá khứ nhƣng đó là quá khứ đã đƣợc lựa
chọn theo nhu cầu của xã hội hiện đại. Di sản là sự lựa chọn từ quá khứ lịch sử, ký ức và
báu vật của cộng đồng thể hiện nhu cầu, nguyện vọng, mong muốn của xã hội hiện tại.
Luật Di sản văn hóa của Việt Nam đã xác định “di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa
phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn

9


hóa, khoa học, đƣợc lƣu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” [36, tr.01].
* Di sản tư liệu
Di sản tƣ liệu (thuộc Chương trình Ký ức thế giới) là sản phẩm đƣợc tạo nên từ
các kí hiệu, mật mã, âm thanh hoặc hình ảnh, ghi lại thành tựu tiêu biểu về tƣ tƣởng, lịch
sử, văn hóa và khoa học trên các vật mang tin ở nhiều dạng thức độc đáo [31, tr.66]. Là
một bộ phận của di sản văn hóa nói chung, di sản tƣ liệu có một vị trí quan trọng trong

kho tàng di sản văn hóa của Việt Nam. Dƣới góc độ khoa học, di sản tƣ liệu vừa là hiện
vật bảo tàng, vừa là tài liệu lƣu trữ quốc gia hoặc tài liệu thƣ viện.
Vì tầm quan trọng của di sản tƣ liệu mà UNESCO đã thành lập Chương trình Ký
ức thế giới vào năm 1992 nhằm mục đích tiếp cận, bảo tồn và quảng bá những bộ sƣu tập
có giá trị đang đƣợc lƣu giữ tại các cơ quan lƣu trữ, thƣ viện, bảo tàng và nhiều nơi khác
trên toàn thế giới. Đây là một trong ba sáng kiến của UNESCO nhằm bảo vệ và nâng cao
nhận thức về di sản văn hóa toàn cầu. Hai sáng kiến còn lại là Công ước bảo vệ di sản
thiên nhiên và di sản văn hóa thế giới (duy trì các giá trị nổi bật của các công trình kiến
trúc và các di sản thiên nhiên trong Danh mục Di sản thế giới) và Công ước bảo vệ di sản
văn hóa phi vật thể (nhằm thừa nhận và hỗ trợ sự sống của những phong tục và văn hóa
truyền khẩu). UNESCO cũng đề nghị các quốc gia thành viên quan tâm thành lập Ủy ban
quốc gia về Chương trình Ký ức thế giới để chỉ đạo và xây dựng các dự án, thiết lập cơ
chế trong phạm vi quốc gia, liên quốc gia cho việc bảo tồn di sản tƣ liệu.
Ký ức thế giới là những hồi ức chung đƣợc ghi lại của con ngƣời trên thế giới. Nó
cho thấy sự phát triển của ý thức, những khám phá và thành tựu của xã hội loài ngƣời.
Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO sẽ xét và công nhận Danh mục các di
sản tƣ liệu có ý nghĩa (khu vực, quốc tế) trên cơ sở mỗi quốc gia hai năm một lần đƣợc đề
cử hai hồ sơ. Chương trình Ký ức Thế giới hoạt động trên nguyên tắc phối hợp chặt chẽ,
hiệu quả giữa Ủy ban Tƣ vấn quốc tế, khu vực và các Ủy ban quốc gia.
1.1.2.2. Khái niệm chính sách về di sản tư liệu
Trên cơ sở tổng hợp những khái niệm về chính sách công trong đó lấy định nghĩa
của Đỗ Phú Hải - Học viện Khoa học xã hội [20, tr.37] làm căn bản, theo chúng tôi khái
niệm chính sách về di sản tƣ liệu đƣợc định nghĩa nhƣ sau: “Chính sách về di sản tƣ liệu
là chính sách công, là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của nhà nƣớc về

10


di sản tƣ liệu nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể, giải pháp và công cụ chính sách để giải
quyết vấn đề quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản tƣ liệu theo mục tiêu tổng thể của

Đảng và Nhà nƣớc đã xác định“.
1.1.2.3. Chính sách công trong quản lý di sản thế giới ở Việt Nam
* Văn bản quốc tế liên quan đến quản lý di sản thế giới ở Việt Nam
Để bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa và di sản thiên nhiên thế giới của
đất nƣớc, Nhà nƣớc Việt Nam đã phê chuẩn một số Công ƣớc quốc tế quan trọng của tổ
chức UNESCO nhƣ: Công ước bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới năm 1972
(phê chuẩn năm 1987); Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể năm 2003 (phê chuẩn
năm 2005). Có thể nói, Việt Nam là một trong những quốc gia tiên phong trong việc phê
chuẩn Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể năm 2003 của UNESCO và là thành
viên của ủy ban Liên Chính phủ tham gia xây dựng phƣơng hƣớng hoạt động và các
chính sách quốc tế có liên quan đến Công ƣớc này.
Đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản tƣ liệu, Việt Nam đã tham gia tích
cực vào hoạt động của Chương trình Ký ức thế giới từ năm 1996, thành lập Ban Điều
phối Chương trình Ký ức thế giới năm 2006 theo Quyết định số 209/BTK/06 của Ủy ban
Quốc gia UNESCO Việt Nam. Cục Văn thƣ và Lƣu trữ Nhà nƣớc giữ vai trò là cơ quan
thƣờng trực. Sau đó, Ban Điều phối đƣợc nâng cấp thành Ủy ban quốc gia Chương trình
Ký ức Thế giới của Việt Nam theo Quyết định số 630/QĐ-UBQG ngày 19/11/2012 của
Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam.
* Văn bản quốc gia liên quan đến quản lý di sản thế giới ở Việt Nam
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nƣớc theo hƣớng mở cửa, hội nhập
ngày càng sâu rộng, văn hóa và các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội của Việt Nam
cũng đƣợc phát triển theo hƣớng hòa nhập nhƣng vẫn đảm bảo giữ gìn đƣợc bản sắc riêng
của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò lãnh đạo duy nhất của đất nƣớc đã đề ra
những chủ trƣơng, định hƣớng cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa quốc gia
trong đó có công tác quản lý, bảo tồn và phát huy các di sản thế giới. Hội nghị Trung
ƣơng 5 khóa VIII đã ban hành Nghị quyết về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó có chủ trƣơng: “Kết hợp hài hòa việc bảo vệ, phát huy
các di sản văn hóa với hoạt động phát triển kinh tế du lịch“. Tiếp tục phát triển Nghị


11


quyết TW5 khóa VIII, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành TW Đảng khóa XI đã chỉ rõ:
“Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với
phát triển kinh tế - xã hội“.
Từ những chủ trƣơng, định hƣớng của Đảng, Nhà nƣớc đã xây dựng hệ thống văn
bản pháp lý nhằm quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích nói chung, di sản thế
giới nói riêng. Luật Di sản văn hóa đƣợc Quốc hội ban hành năm 2001 và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa vào năm 2009 là văn bản pháp lý quan
trọng nhất để các cấp, các ngành thực thi các biện pháp quản lý nhà nƣớc cũng nhƣ
chuyên môn nghiệp vụ đối với di sản thế giới. Luật Di sản văn hóa đã thực sự đi vào đời
sống, trở thành cơ sở pháp lý quan trọng giúp tăng cƣờng nhận thức và hành động cho
toàn xã hội trong việc bảo vệ và phát huy kho tàng di sản văn hóa của dân tộc.
Một số văn bản dƣới Luật liên quan tới việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa
và thiên nhiên đã đƣợc Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan ban hành gồm:
Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Di sản văn hóa;
Quyết định số 1706/2001/QĐ-BVHTT ngày 24/7/2001 của Bộ trƣởng Bộ Văn hóa
– Thông tin (nay là Bộ VHTTDL) về phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy
giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh đến năm 2020;
Quyết định số 86/2008/QĐ-BVHTTDL ngày 30/12/2008 của Bộ trƣởng Bộ
VHTTDL ban hành quy chế khai quật khảo cổ;
Chỉ thị số 79/CT-BVHTTDL ngày 22/5/2009 của Bộ trƣởng Bộ VHTTDL về việc
tổ chức triển khai thực hiện Chiến lƣợc phát triển văn hóa đến năm 2020;
Thông tƣ số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30/6/2010 của Bộ VHTTDL quy định
việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể
để đƣa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia;
Thông tƣ số 13/2010/TT-BVHTTDL ngày 30/12/2010 của Bộ VHTTDL quy định

trình tự, thủ tục đề nghị công nhận bảo vật quốc gia;
Thông tƣ số 09/2011/TT-BVHTTDL ngày 14/7/2011 của Bộ VHTTDL quy định
nội dung hồ sơ khoa học để xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh;

12


Thông tƣ số 18/2012/TT-BVHTTDL ngày 14/7/2012 của Bộ VHTTDL quy định
chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích;
Nghị định số 70/2012/NĐ-CP ngày 18/9/2012 của Chính phủ quy định thẩm
quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích
lịch sử văn hóa;
Thông tƣ số 18/2012/TT-BVHTTDL ngày 28/12/2012 của Bộ VHTTDL quy định
chi tiết về một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích;
Thông tƣ số 17/2013/TT-BVHTTDL ngày 30/12/2013 của Bộ VHTTDL hƣớng
dẫn xác định chi phí lập quy hoạch, dự án, báo cáo kinh tế - kỹ thuật bảo quản, tu bổ,
phục hồi di tích;
Nghị định số 62/2014/NĐ-CP ngày 25/6/2014 của Chính phủ quy định về xét tặng
danh hiệu "Nghệ nhân nhân dân", "Nghệ nhân ƣu tú" trong lĩnh vực di sản văn hóa phi
vật thể.
* Văn bản pháp lý liên quan đến di sản tư liệu
Mộc bản triều Nguyễn là di sản tƣ liệu đầu tiên của Việt Nam đƣợc vinh danh ở
cấp độ thế giới vào năm 2009. Bên cạnh việc chịu sự điều chỉnh chung theo Luật Di sản
văn hóa, các loại tƣ liệu quý, hiếm còn chịu sự điều chỉnh của Luật Lưu trữ (đƣợc Quốc
hội khóa XIII ban hành ngày 11/11/2011).
Tại Điều 26 (Chƣơng III) của Luật lưu trữ có nêu rõ:
“Điều 26. Quản lý tài liệu lưu trữ quý, hiếm
2. Tài liệu lƣu trữ quý, hiếm không phân biệt hình thức sở hữu đƣợc đăng ký với
cơ quan quản lý nhà nƣớc về lƣu trữ ở trung ƣơng và cấp tỉnh, được lựa chọn để đăng ký
vào chương trình, danh hiệu của khu vực và thế giới. [37, tr.10].

Năm 2016, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 209/QĐ-TTg ngày
03/02/2016 phê duyệt Đề án bảo quản và phát huy giá trị tài liệu Mộc bản triều Nguyễn –
Di sản tư liệu thế giới. Đây có thể coi là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nƣớc đối với
một di sản tƣ liệu cụ thể đã đƣợc vinh danh trong Chương trình Ký ức thế giới. Sau đó
không lâu, Châu bản triều Nguyễn cũng đƣợc đƣa vào đề án bảo quản thông qua Quyết
định số 933/QĐ-TTg ngày 30/5/2016 của Thủ tƣớng Chính phủ về phê duyệt Đề án bảo
quản và phát huy giá trị tài liệu Châu bản triều Nguyễn – di sản tư liệu thuộc Chương
trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

13


1.2. Các vấn đề về thực trạng của di sản tư liệu
Theo Đỗ Phú Hải, “xác định vấn đề chính sách công là giai đoạn khởi đầu nằm
trong chu trình chính sách bao gồm từ bƣớc khởi đầu phát hiện ra những mâu thuẫn nảy
sinh trong đời sống xã hội cần đƣợc giải quyết bằng chính sách cho đến khi hoàn thành
những mục tiêu của chính sách công“. [19, tr.59].
Vậy các vấn đề về thực trạng của di sản tư liệu hiện nay là gì?
Di sản tƣ liệu là những tài sản quan trọng của quốc gia mà qua đó có thể hiểu đƣợc
về lịch sử, văn hóa, kinh tế- chính trị và các lĩnh vực xã hội của cả nƣớc hay từng vùng,
miền, dân tộc, ngành nghề… Bên cạnh một lƣợng lớn di sản tƣ liệu đang đƣợc lƣu giữ ở
các dòng tộc, gia đình và tại không ít di tích đình, đền, chùa,… phần lớn các di sản tƣ liệu
quý đang đƣợc các cơ quan lƣu trữ của Nhà nƣớc bảo quản. Tuy nhiên, việc bảo vệ và
phát huy các giá trị của “kho tàng lịch sử” này đang còn nhiều bất cập. Do nhiều nguyên
nhân khác nhau từ trong lịch sử mà hệ thống di sản tƣ liệu của Việt Nam đã bị mất mát,
thất lạc, thiếu hụt khá nhiều.
Mặc dù di sản tƣ liệu của Việt Nam đƣợc lƣu giữ khá tập trung trong hệ thống cơ
quan chuyên môn từ trung ƣơng đến địa phƣơng nhƣng đến nay vẫn chƣa có một nghiên cứu,
khảo sát hay thống kê thật sự đầy đủ, chính xác về số lƣợng các tƣ liệu quý của Việt Nam.
Bên cạnh đó, công tác bảo quản các di sản tƣ liệu (trong đó có những di sản tƣ liệu

đã đƣợc UNESCO vinh danh trong Chương trình Ký ức thế giới) vẫn mang tính chất “độc
lập“ theo hệ thống chuyên ngành. Mối quan hệ giữa các cơ quan lƣu trữ với bảo tàng, thƣ
viện và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác liên quan trong việc hợp tác về kỹ thuật bảo
quản di sản tƣ liệu còn hạn chế. Đặc biệt, việc bảo quản di sản tƣ liệu ở các di tích vẫn là
một mối lo lớn khi mà chúng đã và đang đƣợc giao phó hoàn toàn cho cộng đồng địa
phƣơng quản lý nhƣ: Bia Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long; Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm, tỉnh
Bắc Giang; Mộc bản chùa Bổ Đà, Bắc Giang…
Trừ các kho lƣu trữ, thƣ viện và bảo tàng ở trung ƣơng thì hệ thống kho lƣu trữ
của nhiều bảo tàng, thƣ viện ở địa phƣơng, ở các khu di tích… vẫn đang trong tình trạng
thiếu thốn trang thiết bị. Kiến trúc của các nhà kho bảo quản tài liệu không đạt theo quy
chuẩn. Việc nâng cấp hệ thống nhà kho lƣu giữ tài liệu là một mục tiêu phải phấn đấu
trong thời gian tới của các bảo tàng và thƣ viện trên cả nƣớc. Trong số 06 di sản tƣ liệu đã
đƣợc công nhận danh hiệu của Chương trình Ký ức Thế giới, chỉ có 02 di sản tƣ liệu là

14


Mộc bản triều Nguyễn và Châu bản triều Nguyễn thuộc sự quản lý của Trung tâm Lƣu trữ
quốc gia nên có hệ thống kho tàng bảo quản với trang thiết bị cơ sở vật chất khá đầy đủ.
Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế nằm trong quần thể di tích cố đô Huế đã đƣợc
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới (hay nói khác đi là di sản trong di sản) nên
cũng có những thuận lợi nhất định trong công tác bảo quản, quảng bá, phát huy di sản tƣ
liệu đã đƣợc vinh danh. Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm, tỉnh Bắc Giang hiện đang đƣợc bảo
quản một cách hoàn toàn tự nhiên và thủ công tại dãy nhà hành lang phía phải của Chùa,
không có trang thiết bị phòng chống cháy nổ, hỏa hoạn. Từ khi đƣợc vinh danh là Di sản
tƣ liệu khu vực Châu Á – Thái Bình Dƣơng (2012) đến nay, phòng lƣu trữ Mộc bản của
chùa Vĩnh Nghiêm mới chỉ đƣợc trang bị thêm một vài máy hút ẩm, hút bụi. Đối với Bia
Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long có nhà che bia và mới đây nhất đã có thêm hệ thống rào
chắn đơn giản bằng sắt để ngăn du khách tới ngồi lên bia, sờ bia hoặc xoa đầu rùa đội bia.
Mộc bản trường học Phúc Giang đƣợc lƣu tại nhà thờ của dòng họ Nguyễn Huy (Hà

Tĩnh) nên các trang thiết bị bảo quản tài liệu hầu nhƣ không có gì.
Kỹ thuật để bảo tồn di sản tƣ liệu còn sơ sài. Chúng ta chƣa có công trình nào thực
sự đi sâu nghiên cứu các đặc điểm riêng của các loại chất liệu tạo nên tài liệu (giấy, gỗ,
đá…) ở Việt Nam. Trong thực tế, việc bảo quản, tu sửa các di sản tƣ liệu lại rất cần chính
loại vật liệu truyền thống cũng nhƣ cách thức, quy trình đã làm nên di sản đó. Vì vậy, vấn
đề bảo tồn nghề giấy truyền thống, nghề chạm khắc gỗ (mộc bản) hay nghề khắc bia đá…
trở thành vấn đề có liên quan chặt chẽ với bảo tồn di sản tƣ liệu. Việc sử dụng các di sản
tƣ liệu gần nhƣ đã chấm dứt trong xã hội hiện đại trong khi những chủ thể từng sáng tạo
ra nó đều đã lui về quá khứ. Vì vậy, việc bảo tồn những ngành nghề truyền thống này
không dễ thực hiện chút nào khi có nhiều nghề dƣờng nhƣ đã thất truyền (ví dụ nghề khắc
in mộc bản ở làng Liễu Tràng – Hải Dƣơng).
Ở cả Trung ƣơng và địa phƣơng, chúng ta chƣa có một phòng thí nghiệm thực sự
để phục vụ việc nghiên cứu, bảo quản hiện vật bảo tàng (trong đó có di sản tƣ liệu).
Việc chọn lựa, đề cử xếp hạng các tài liệu có giá trị, đảm bảo theo các tiêu chí quy
định để tham gia Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO ở từng cấp độ còn có những
lúng túng, bị động. Hầu hết các di sản tƣ liệu đƣợc UNESCO vinh danh trong thời gian
qua là do sự chủ động, nỗ lực tìm kiếm và đề xuất xây dựng hồ sơ đề cử từ phía Ủy ban
Quốc gia UNESCO Việt Nam và Ủy ban Điều phối Quốc gia Chƣơng trình Ký ức thế

15


giới. Các đơn vị có tài liệu đƣợc tƣ vấn đề cử xếp hạng tự làm hồ sơ dƣới sự hƣớng dẫn
của chuyên gia UNESCO theo cách vừa làm vừa học hỏi, rút kinh nghiệm của những hồ
sơ đã làm trƣớc đó. Vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nƣớc liên quan trong việc làm hồ
sơ đề cử xếp hạng di sản tƣ liệu còn mờ nhạt, chủ yếu chỉ là đứng tên trong hồ sơ về mặt
pháp lý. Trong số 06 di sản tƣ liệu đã đƣợc UNESCO xếp hạng, chúng ta chỉ có 02 di sản
tƣ liệu ở cấp độ thế giới là Mộc bản triều Nguyễn và Bia Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long.
Tuy nhiên, 02 di sản tƣ liệu này chỉ có Mộc bản triều Nguyễn là thành công ngay ở lần đề
cử đầu tiên. Bia Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long lần đầu chỉ đề cử ở cấp độ khu vực Châu

Á – Thái Bình Dƣơng (năm 2010) với tên gọi trong hồ sơ là Bia đá các khoa thi Tiến sĩ
triều Lê và Mạc (1442-1779) nhƣ một bƣớc đi thận trọng, mang tính thử nghiệm. Sau
thành công ở cấp khu vực, hồ sơ Bia đá các khoa thi Tiến sĩ triều Lê và Mạc (1442-1779)
đƣợc bổ sung, xây dựng lại với tên gọi Bia Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long để mang đi đấu
trƣờng quốc tế và đƣợc công nhận là di sản tƣ liệu thế giới vào năm 2011. Ngƣợc lại với
Bia Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long, cùng thời điểm năm 2011, mộc bản chùa Vĩnh
Nghiêm đã đƣợc đề cử xếp hạng ở cấp thế giới với tên gọi trong hồ sơ là Các mộc bản
kinh phật Thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm, tỉnh Bắc Giang. Tuy nhiên, lần đề cử
này của mộc bản kinh phật chùa Vĩnh Nghiêm đã thất bại do không bảo vệ đƣợc đầy đủ
các tiêu chí mà UNESCO đề ra trong Chương trình Ký ức thế giới. Theo ý kiến tƣ vấn
của các chuyên gia UNESCO, hồ sơ về mộc bản kinh phật chùa Vĩnh Nghiêm đƣợc xây
dựng lại (thay đổi tên hồ sơ là Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm, tỉnh Bắc Giang, bổ sung nhấn
mạnh các nội dung cần thiết khác) để đề cử ở cấp độ khu vực Châu Á – Thái Bình
Dƣơng. Việc ghi danh lần thứ hai ở cấp độ khu vực đối với mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm
thành công vào năm 2012.
Vấn đề quản lý, bảo tồn và quảng bá, phát huy các giá trị của di sản tƣ liệu (nhất là
đối với di sản tƣ liệu đã đƣợc UNESCO công nhận ở cấp độ thế giới và khu vực) đang
gặp những khó khăn. Thực tế cho thấy các di sản văn hóa hoặc di sản thiên nhiên nhƣ
Vịnh Hạ Long, Phố cổ Hội An, Vƣờn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng... luôn có lực hút
lớn về du lịch và đủ sức tạo ra những tác động trực tiếp để phát triển kinh tế cũng nhƣ thu
hút đầu tƣ tại địa phƣơng. Ngƣợc lại, ngay với loại hình di sản phi vật thể nhƣ ca trù, hát
xoan, ví dặm..., chúng ta đã gặp khó khăn trong việc khai thác tiềm năng chứ chƣa nói tới
di sản tƣ liệu vốn dĩ mới chỉ vào Việt Nam vài năm nay và còn khá xa lạ với cộng đồng.

16


Kể từ khi Việt Nam có các tài liệu đƣợc UNESCO công nhận là di sản tƣ liệu, các
cơ quan quản lý đã có nhiều hoạt động tuyên truyền quảng bá và phát huy giá trị các di
sản tƣ liệu nhƣ tổ chức triển lãm, trƣng bày, xuất bản sách... Cục Văn thƣ và Lƣu trữ Nhà

nƣớc cũng đề nghị đƣa di sản tƣ liệu trở thành một bộ môn trong giáo dục các cấp nhằm
giúp học sinh, sinh viên hiểu biết, trân trọng các giá trị văn hóa của dân tộc mình. Có thể
nói, kể từ khi Chương trình Ký ức thế giới đƣợc triển khai ở Việt Nam vào năm 2006,
Ban Điều phối, nay là Ủy ban Quốc gia Chương trình Ký ức thế giới Việt Nam do Cục
Văn thƣ và Lƣu trữ Nhà nƣớc tham gia điều phối đã thực hiện nhiều hoạt động có ý nghĩa
thiết thực nhằm nâng cao nhận thức của xã hội. Qua đó, đã quảng bá về sự tồn tại và giá
trị của các di sản tƣ liệu, đồng thời tham gia có hiệu quả vào các hoạt động của Chương
trình Ký ức thế giới ở cấp khu vực và quốc tế.
Tuy nhiên, việc quảng bá, phát huy giá trị di sản tƣ liệu sau khi đƣợc vinh danh để
danh hiệu không chỉ là cái tên mà còn thực sự có ý nghĩa trong việc gìn giữ, phát triển
nền văn hóa đất nƣớc nói riêng, phát triển kinh tế xã hội nói chung một cách bền vững,
đảm bảo giá trị vốn có của di sản cũng nhƣ đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên liên
quan đến di sản vẫn còn nhiều bất cập. Khi Việt Nam chính thức có thêm hai di sản tƣ
liệu khu vực Châu Á – Thái Bình Dƣơng (Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế; Mộc
bản trường học Phúc Giang) vào tháng 5/2016 vừa qua, một câu hỏi thực tế đã đƣợc
nhiều ngƣời đặt ra: loại hình di sản này sẽ mang lại những nguồn lợi nào cho chúng ta
ngoài vấn đề “danh xƣng tầm thế giới”? Bên cạnh đó, vấn đề nguồn nhân lực thực hiện
công tác quản lý, công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản tƣ liệu phần lớn còn thiếu
và yếu cả về số lƣợng cũng nhƣ chất lƣợng, đặc biệt là với các cơ quan ở địa phƣơng, các
khu di tích…
Nguyên nhân các vấn đề về thực trạng của di sản tư liệu nêu trên là gì?
Thứ nhất, việc mất mát, thất lạc tài liệu có giá trị do các nguyên nhân từ lịch sử để
lại nhƣ chiến tranh, thiên tai và do cả hạn chế về nhận thức của con ngƣời gây nên. Ngoài
ra, “sự thay thế của triều đại này bằng một triều đại khác cũng có thể là nguyên nhân làm
cho một số di sản văn hóa bằng giấy bị tiêu hủy” [25, tr.399]. Một nguyên nhân quan
trọng khác làm cho di sản tƣ liệu bị hủy hoại là do điều kiện tự nhiên (thời tiết, côn trùng,
nấm mốc…) của Việt Nam với kiểu khí hậu ẩm ƣớt, nắng nóng. Đây là môi trƣờng lý

17



tƣởng cho sự phát triển của các loại côn trùng, vi sinh vật gây hại, đồng thời cũng là tác
nhân làm cho tài liệu dễ bị hủy hoại hơn.
Thứ hai, các cơ quan có chức năng bảo tồn di sản văn hóa nói chung trong đó có
những nơi lƣu giữ di sản tƣ liệu nói riêng đƣợc thành lập, cải tạo, mở rộng và nâng cấp
thành một hệ thống cơ quan chuyên môn khá đa dạng về loại hình hoạt động nhƣ: hệ
thống trung tâm lƣu trữ từ trung ƣơng đến địa phƣơng, lƣu trữ trong các cơ quan, đơn vị;
hệ thống bảo tàng quốc gia và bảo tàng địa phƣơng (hiện đang phát triển cả các loại hình
bảo tàng ngoài công lập); hệ thống thƣ viện quốc gia, thƣ viện địa phƣơng, thƣ viện trong
cơ quan nghiên cứu và thƣ viện trong trƣờng học; tài liệu lƣu ở các khu di tích trên cả
nƣớc; tài liệu ở các bộ sƣu tập tƣ nhân... Sự đa dạng này là nguyên nhân khiến cho việc
thống kê, phân loại di sản tƣ liệu trong cả nƣớc không dễ dàng.
Thứ ba, cùng với Luật Di sản văn hóa thì Luật Lưu trữ và Pháp lệnh Thư viện là
những văn bản pháp lý chuyên ngành, giúp cho những ngƣời làm công tác quản lý và
chuyên môn có thể thực thi quyền hạn của mình trong việc bảo vệ di sản văn hóa nói
chung, di sản tƣ liệu nói riêng. Tuy nhiên, trong hệ thống hành lang pháp lý đã ban hành
(nhất là đối với Luật Di sản văn hóa) chƣa có những điều khoản quy định cụ thể về di sản
tƣ liệu. Nội dung hệ thống văn bản Luật và dƣới luật đã có hoàn toàn thiếu những quy
định về trách nhiệm, quyền hạn của các bên liên quan đến di sản tƣ liệu, xác định thủ tục,
quy trình xếp hạng, quản lý di sản tƣ liệu…
Thứ tư, bộ máy cơ quan quản lý di sản tƣ liệu ở nƣớc ta chƣa đƣợc xác định rõ nên
thời gian qua đang có sự chồng chéo, không rõ ràng về trách nhiệm, quyền hạn. Trƣớc
đây, cơ quan đƣợc giao trọng trách điều phối hoạt động của Ủy ban Quốc gia Chương
trình Ký ức Thế giới Việt Nam là Cục Văn thƣ và Lƣu trữ Nhà nƣớc (thuộc Bộ Nội vụ) do
TS.Vũ Thị Minh Hƣơng – Cục trƣởng là chủ tịch ủy ban. Việc đứng ra đề cử xếp hạng di
sản tƣ liệu với UNESCO là trách nhiệm của Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam (Bộ
Ngoại giao). Hiện nay, TS.Vũ Thị Minh Hƣơng đã nghỉ quản lý, Cục trƣởng mới của Cục
Văn thƣ và Lƣu trữ Nhà nƣớc không biết nhiều về Chƣơng trình này nên không muốn
đứng ra tiếp tục nhận trách nhiệm đầu mối liên hệ của Ủy ban Quốc gia Chương trình Ký
ức Thế giới Việt Nam. Vì vậy, thời gian vừa qua di sản tƣ liệu ở trong tình trạng “cha

chung không ai khóc”, không có chủ thể quản lý. Tỉnh nào có di sản tƣ liệu đề cử thì tỉnh
đó chịu trách nhiệm liên hệ với Uỷ ban Quốc gia UNESCO Việt Nam để đi đăng ký. Sở

18


VHTTDL của các tỉnh chịu trách nhiệm về mặt pháp lý đối với hồ sơ và giữ bản quyền hồ
sơ di sản tƣ liệu đƣợc đề cử. Sau khi đƣợc UNESCO công nhận danh hiệu, di sản tƣ liệu
chƣa biết thuộc sự quản lý của bên nào. Hiện nay, Bộ VHTTDL, Cục Di sản văn hóa
thuộc Bộ không quản lý việc này.
Thứ năm, kinh phí giành cho công tác bảo quản, phát huy giá trị di sản tƣ liệu còn
hạn chế so với tiềm năng và nhu cầu thực tế của di sản.
Thứ sáu, nếu nhƣ di sản văn hóa thế giới và thiên nhiên thế giới, di sản văn hóa
phi vật thể đại diện của nhân loại đƣợc điều chỉnh và chịu sự ràng buộc theo các điều ƣớc
cụ thể trong 02 bộ Công ƣớc quốc tế liên quan thì di sản tƣ liệu mới chỉ là Chƣơng trình.
Vì vậy, mức độ ràng buộc, chịu trách nhiệm cũng nhƣ mức độ ảnh hƣởng của di sản tƣ
liệu có những hạn chế so với 02 đàn anh đi trƣớc.
Thứ bảy, các di sản tƣ liệu quý có giá trị hiện nay của nƣớc ta phần lớn là tài liệu
đƣợc thể hiện bằng chữ Hán - Nôm. Đây chính là một khó khăn, trở ngại lớn cho những
ngƣời làm công tác bảo tồn di sản cũng nhƣ công chúng khi tiếp cận với di sản tƣ liệu.
Nếu không biết, không giỏi chữ Hán - Nôm thì cán bộ chuyên môn cũng nhƣ độc giả
không thể đọc trực tiếp để hiểu nội dung tài liệu gốc, từ đó không thể bóc tách, xác định
đƣợc chính xác các lớp giá trị bên trong nội dung tài liệu đã phản ánh.
Thứ tám, công tác đào tạo nguồn nhân lực làm công tác bảo quản, phục chế tại các
trƣờng Đại học của Việt Nam còn nặng về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn. Do đó, khi vào
làm việc thực tế tại các bảo tàng, thƣ viện, lƣu trữ sẽ khó bắt nhịp kịp thời với thực tiễn
công việc và phải mất một thời gian làm quen, thậm chí các cơ quan phải đào tạo bổ sung
cho cán bộ mới của mình.
1.3. Chủ thể chính sách về di sản tư liệu ở Việt Nam
Chủ thể chính sách đối với di sản tƣ liệu ở Việt Nam gồm các cơ quan nhà nƣớc có

thẩm quyền nhƣ: Quốc hội, Chính phủ, Bộ VHTTDL, Bộ Nội vụ, Hội đồng di sản văn hóa
quốc gia, Ủy ban quốc gia chƣơng trình Ký ức thế giới, Ủy ban quốc gia UNESCO Việt
Nam; chính quyền địa phƣơng các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, các sở ngành liên
quan (Sở VHTTDL, Bảo tàng tỉnh, Ban quản lý di tích, Sở Nội vụ), những huyện thị có di
sản tƣ liệu và đặc biệt là chính các cơ quan, tổ chức cá nhân có di sản tƣ liệu.
Bảng 1.1. Phân tích chủ thể chính sách về di sản tư liệu ở Việt Nam (xem phụ lục).
1.4. Môi trường thể chế chính sách về di sản tư liệu ở Việt Nam

19


Thể chế giúp cho mọi hoạt động của đời sống xã hội diễn ra có trật tự theo một hệ
thống nhất định. Do đó, chính sách về di sản tƣ liệu cũng cần có hệ thống thể chế thống
nhất từ Trung ƣơng đến địa phƣơng. Thể chế của chính sách về di sản tƣ liệu phải tuân
thủ thể chế chung về quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Quá trình xây
dựng, thẩm định, phê chuẩn và ban hành phải tuân theo luật định.
Thể chế chính sách về di sản tƣ liệu có nhiều loại khác nhau và đƣợc nhiều cơ
quan quản lý Nhà nƣớc các cấp ban hành theo thẩm quyền quy định, cụ thể là:
- Thể chế do cấp Trung ƣơng quản lý: gồm các văn bản Luật do Quốc hội ban hành,
văn bản pháp quy dƣới Luật do Chính phủ và các Bộ ngành ở Trung ƣơng ban hành.
- Thể chế do cấp địa phƣơng quản lý: gồm các văn bản quy phạm pháp luật do Hội
đồng Nhân dân, UBND và cơ quan chức năng các cấp ở địa phƣơng ban hành.
Bảng 1.2. Môi trường thể chế chính sách về di sản tư liệu (xem phụ lục).
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới chính sách về di sản tư liệu ở Việt Nam
Khi hoạch định chính sách đối với di sản tƣ liệu, bên cạnh các tiêu chí để xây
dựng chính sách phải tính đến các yếu tố ảnh hƣởng nhƣ:
1.5.1. Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị của Việt Nam là một thể thống nhất, gắn bó chặt chẽ, bao gồm:
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, các tổ chức
chính trị xã hội. Hệ thống chính trị xã hội Việt Nam là thể chế một đảng lãnh đạo duy

nhất, không tồn tại các đảng phái chính trị khác nhau, gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Toàn bộ hệ thống chính trị của Việt Nam đƣợc tổ chức
và hoạt động trên nền tảng tƣ tƣởng chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
Trong hệ thống chính trị có thể chia ra các yếu tố nhỏ hơn nhƣ yếu tố văn hóa
chính trị, Hiến pháp, thể chế chính trị:
- Văn hóa chính trị là những giá trị mang tính tƣơng đồng, ổn định, phản ánh nhận
thức và các hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị. Hành vi ứng xử
của đội ngũ công chức, viên chức trong hệ thống cơ quan nhà nƣớc có ảnh hƣởng quan
trọng đến chu trình chính sách quản lý các di sản tƣ liệu.
- Hiến pháp là luật gốc quy định quyền, nghĩa vụ của công dân, cơ cấu tổ chức,
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nƣớc trong đó có các cơ quan lập pháp.

20


Vì vậy, mọi chính sách đƣợc ban hành phải dựa trên Hiến pháp. Chính sách về di sản tƣ
liệu không thể có ngoại lệ để nằm ngoài quy định này.
- Thể chế chính trị tác động vào quá trình xây dựng, hoạch định chính sách quản lý
các di sản tƣ liệu. Thể chế chính trị thúc đẩy các tổ chức chính trị, doanh nghiệp và ngƣời
dân tham gia thảo luận chính sách, lập chính sách giúp chính sách đạt chất lƣợng cao hơn.
1.5.2. Các yếu tố truyền thông, kinh tế, xã hội
Bên cạnh hệ thống chính trị thì chính sách về di sản tƣ liệu ở nƣớc ta còn chịu tác
động bởi các yếu tố khác nhƣ: công luận, truyền thông, các giá trị xã hội và kinh tế.
- Vai trò của công luận và truyền thông thể hiện trong các góp ý, phản hồi của
ngƣời dân, doanh nghiệp, nhà khoa học cũng nhƣ phản ánh các hiện tƣợng xã hội ảnh
hƣởng đến chính sách về di sản tƣ liệu.
- Các giá trị xã hội có vai trò định hƣớng khi các tổ chức, các thành phần trong xã
hội tham gia vào quá trình chính sách. Các giá trị xã hội hết sức đa dạng trong các khía
cạnh của đời sống xã hội nhƣ: văn hóa, tôn giáo, nghề nghiệp, thành phần xã hội, các
nhóm lợi ích...

- Yếu tố kinh tế là yếu tố quan trọng tác động mạnh đến việc xây dựng chính sách
đối với di sản tƣ liệu. Quá trình phát triển kinh tế kéo theo hàng loạt các vấn đề xã hội
nảy sinh đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải tính toán xây dựng chính sách đảm
bảo vừa phát triển kinh tế vừa bảo tồn các giá trị di sản và bảo vệ môi trƣờng.
Ngoài ra, các yếu tố nhƣ năng lực của chủ thể lập chính sách, năng lực phân tích,
năng lực dự báo, năng lực phát hiện vấn đề, khả năng chính trị hóa các vấn đề xã hội
đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện chính sách văn hóa nói chung,
chính sách về di sản tƣ liệu nói riêng.
1.5.3. Các yếu tố quốc tế
Việc xây dựng, hoạch định chính sách đối với di sản tƣ liệu còn chịu ảnh hƣởng từ
các yếu tố quốc tế. Đó là những quy định của Chương trình Ký ức thế giới, các Công ƣớc
quốc tế khác liên quan đến di sản vật thể/phi vật thể bởi việc bảo tồn, phát huy di sản tƣ
liệu chắc chắn phải đƣợc đặt trong không gian bảo tồn của một khu di tích cụ thể hoặc
một không gian văn hóa nào đó. Đồng thời, các tổ chức của UNESCO có sự giám sát đối
với những di sản thế giới đã đƣợc công nhận ở Việt Nam nhƣ: Ủy ban Quốc gia
UNESCO tại Việt Nam, Ủy ban Quốc gia về chương trình Ký ức thế giới...

21


×