Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

văn mẫu tính dân tộc trong bài thơ việt bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.83 KB, 20 trang )

Tính dân t ộc trong bài th ơVi ệt B ắc (T ố
Hữ
u) đượ c bi ểu hi ện c ụth ểở nh ữ
ng ph ươn g
di ện nào? Trình bày v ắn t ắt và nêu d ẫn ch ứ
ng
minh ho ạ.
Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ra ở Thừa Thiên Huế. Ông là đại biểu
suất sắc của thơ ca cách mạng và kháng chiến.
Cuối năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta thắng lợi. Trung ương
Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về thủ đơ Hà Nội sau chín năm kháng chiến gian khổ, trường
kì. Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc để ghi lại tình cảm và mối quan hệ gắn bó khăng khít, nghĩa tình sâu
nặng giữa nhân dân Việt Bắc với cán bộ và chiến sĩ cách mạng. Cũng như và hơn hẳn nhiều bài thơ
khác, bài thơ Việt Bắc mang tính dân tộc rất sâu đậm. Qua đoạn trích học trong SGK Ngữ văn 12, ta sẽ
thấy được điều đó.
Tính dân tộc chính là tất cả những đặc điểm thuần Việt, gần gũi với tâm hồn người Việt Nam. Ở
bài thơ này, tính dân tộc biểu hiện trên nhiều phương diện như: kết cấu, hình ảnh, thể thơ, giọng điệu…
Tính dân tộc của bài thơ Việt Bắc thể hiện trước hết ở kết cấu đối đáp kiểu ca dao giao duyên.
Rất nhiều bài ca dao xưa thường dùng kiểu đối đáp để diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình:
– Mình nói với ai mình hãy cịn son
Ta đi qua ngõ, thấy con mình bị …
– Mình nói với ta mình chửa có chồng
Ta đi qua ngõ mình bồng con ra …
Kiểu kết cấu đối đáp trong cao dao giao duyên là một kiểu kết cấu độc đáo để nhân vật trữ tình
có thể vừa kể lể sự việc bộc lộ cảm xúc, thể hiện thái độ tình cảm với “đối phương” hoặc đối tượng được
nói tới. Đây cũng là kiểu kết cấu tạo ra những khả năng vô hạn cho nhân vật trữ tình một “diện mạo” như
ý muốn.
Tố Hữu đã vận dụng kiểu kết cấu tuyệt vời ấy trong một bài thơ mà mục đích của nó khơng phải
để nói tới tình u của chàng – nàng, anh – em mà là một bài thơ ngợi ca mối quan hệ khăng khít gắn bó
giữa chính phủ cách mạng và quê hương cách mạng với nhân dân Việt Bắc.
– Mình về mình có nhớ ta


Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng?
– Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.


Ở đây 2 chữ “mình – ta” biến hóa chỉ là sự phân đôi của một chủ thể. Cái “tôi” trữ tình của nhà
thơ tự tách mình ra, một phần tâm hồn đã “thấm đất Việt Bắc” đang tâm tình với người cán bộ về xi.
Nhân vật trữ tình đã bộc lộ tâm trạng nớ thương, tình cảm ân nghĩa thủy chung giữa cán bộ cách mạng
và mảnh đất Việt Bắc. Mình – ta cùng nhớ về những ngày tháng đồng cam cộng khổ: “Bát cơm sẻ nửa,
chăn sui đắp cùng”, nhớ những ngày tháng reo ca lớp học i tờ; nhớ những ngày liên hoan vang ngân núi
rừng; nhớ những tiếng mõ rừng chiều, nhớ tiếng chày đêm nện cối, nhớ người mẹ nắng cháy lưng, cô
em gái hái măng một mình, nhớ người đan nón, nhớ những đuốc sáng từng đoàn quân điệp điệp trùng
trùng tiến bước nhau ra trận địa… Các tiếng mình – ta, các tiếng gọi, hỏi, đáp cứ liên tiếp, xoắn xuýt lấy
nhau, gối lên nhau, liên tiếp như những đợt sóng cảm xúc khơng ngừng nghỉ.
– Mình về mình có nhớ khơng
– Mình đi có nhớ những ngày
– Mình về có nhớ chiến khu
– Mình về, rừng núi nhớ ai
– Mình đi, có nhớ những nhà…
“Mình – ta” điệp khúc đan xen tạo ra âm hưởng từ những đợt sóng hồi niệm, những vùng kí ức
tươi đẹp về sống động như vừa mới diễn ra. Tất cả tỉ mỉ, cụ thể tới mức người đọc có thể hình dung và
tái hiện từng đường nét, dáng vẻ của mảnh đất Việt Bắc và con người nơi đây.
Kiểu kết cấu đối đáp mình – ta được Tố Hữu vận dụng một cách độc đáo, sáng tạo. Nó tạo nên
giọng điệu tâm tình ru vỗ lúc như thủ thỉ, tâm tình, lúc lắng sâu vào nỗi nhớ, niềm thương, lúc trào dâng
như những đợt sóng cảm xúc ào ạt, dạt dào. Sử dụng kiểu đối đáp trong ca dao, người đọc cứ tự nhiên
bước vào tác phẩm mà không bị vướng cản bởi câu chữ, ngôi từ. Giọng điệu ru vỗ tha thiết của bài thơ
cứ tự nhiên khiến hồn người đọc hòa chung vào dòng cảm xúc của “mình-ta” lúc nào khơng hay.
Có thể nói, đối đáp đã trở thành một kiểu kết cấu mở, có khả năng bộc lộ, mời gọi cảm xúc hết
lớp này đến lớp khác tưởng chừng như khơng có điểm dừng. Đây là kiểu kết cấu giúp cho nhân vật trữ
tình có khoảng rộng để bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của mình. Và với mỗi người Việt Nam ln tìm thấy

cho mối liên hệ rất gần gũi khi bắt gặp kiểu kết cấu đối đáp này khi thưởng thức bài thơ Việt Bắc như họ
đã từng được nghe trong những bài ca dao, từ thuở xa xưa.
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc còn biểu hiện ở thể thơ lục bát và tiết tấu mềm mại, nhịp
nhàng của câu thơ.
Thể thơ lục bát là thể thơ gắn bó với dân tộc Việt Nam, được người Việt Nam sử dụng phổ biến
nhất. Thể thơ này thường có tác dụng đặc biệt khi diễn tả tình cảm tha thiết, những nối nhớ triền miên,
dai dẳng, và khi bộc lộ nghĩa tình sâu nặng giữa các đối tượng và chủ thể trữ tình. Bởi vậy, ta khơng hề
ngạc nhiên khi ca dao, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm … đều rất thành công khi sử dụng thể thơ này.
Tố Hữu đã sử dụng thể thơ lục bát như một cách đắc địa, và đặc biệt thành cơng khi diễn tả
nghĩa tình sâu sắc của cán bộ cách mạng với quê hương kháng chiến. Giả sử Tố Hữu dùng thể thơ ngũ
ngôn, lục ngơn, hay thơ tám chữ trong bài thơ này thì chắc chắn cái vị ngọt ngào tình nghĩa của con
người Việt Bắc, cái đằm thắm nhớ thương của những cán bộ cách mạng … sẽ thật khó thể hiện.
Người đọc cảm nhận được nỗi xúc động, nghẹn ngào thực sự của “người đi – kẻ ở”:
“Ta với mình, mình với ta


Lịng ta sua trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”.
Những câu thơ lục át khoa thai, nhịp nhàng đã có tác dụng đặc biệt trong việc khơi gợi cảm xúc
của người đọc. Người đọc tự nhieenn hòa nhịp cùng dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình, sống với nó,
cùng thổn thức với nó. Từ rừng nứa, bờ tre, mái đình, cây đa; từ hoa chuối, hoa mơ, Ngịi Thia, sông Đáy
đến Phủ Thông, đèo Giàng…, tất cả đã làm cho con người nhớ thương da diết. Những hình ảnh ấy đã ăn
sâu vào tâm khảm, trở thành “cõi nhớ” trong lịng mỗi người, đã từng gắn bó với Việt Bắc.
Chính thể thơ lục bát đã quyết định giọng điệu, tiết tấu của bài thơ. Tiết tấu của mỗi câu thơ trong
Việt Bắc viết nhịp nhàng, thường có nhịp 2/2/2; 3/3; 2/2/2/2; 4/4. Chẳng hạn:
– Ở đâu u ám quân thù (2/2/2)
Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi (4/4)
– Mình đi mình lại nhớ mình (2/2/2)
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu (4/4)

Nhipjf thơ cũng chính là nhịp điệu cảm xúc, giúp cho những kỉ niệm được gợi dậy, vang ngân
trong lòng người đi – kẻ ở và trong cả người thưởng thức. Những cặp lục bát bắt vần, thả nhịp đều đặn
thiết tha. Cứ mỗi cặp lục bát lại điểm một nốt nhạc cảm xúc “có nhớ”. Những tiếng ấy lại liên hồi xô đuổi,
dồn dập như những đợt sóng thương nhớ cồn cào:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Việt Bắc hiện ra trong bức tranh tồn cảnh: con người nhiều dáng vẻ, khơng gian rộng lớn, thời
gian bốn mùa được chắt lọc, dồn nén nổi bật sắc thái núi rừng Việt Bắc. Một cặp lục bát vẽ một bức tranh
“hoa cùng người”. Bốn cặp lục bát kết thành bộ tự bình cân xứng cổ điển.
Bức tran thiên nhiên được dệt bằng nỗi nhớ. Nỗi nhớ thấm đượm trên từng dáng người, từng
màu hoa. Bức tranh được đệt bằng màu sắc của núi rừng tươi đẹp. Cảnh làm nền cho con người xuất
hiện, bóng dáng con người lặng lẽ là điểm sáng sinh động trên các phịng thiên nhiên tươi thắm, hữu
tình. Hoa và người hòa quyện vào nhau làm cho cảnh thêm tươi sáng. Bức tranh mùa đông đặc trưng
bởi hoa chuối đỏ tươi, giữa thảm rừng trên đèo cao tỏa nắng, bóng dáng con người xuất hiện với nét
riêng của vùng cao. Hình ảnh “dao gài thắt lưng” tô đậm một nét rất đặc trưng của người Việt Bắc. Bức
tranh mùa xuân được dệt bằng thảm hoa mơ và dáng người đan nón mềm mại đang “chuốt từng sợi


giáng”. Bức tranh mùa hạ thêm long lanh bởi tiếng ve cùng hình ảnh lặng lẽ của “cơ em gái hái măng một
mình”. Và bức tranh mùa thu ấn tượng bởi ánh trăng thu hịa bình n ả cùng tiếng hát ân tình thủy
chung ngọt ngào. Chính thể thơ lục bát đã làm nên linh hồn bộ tranh tứ bình Việt Bắc. Nói sao cho hết
những cảm xúc, nỗi nhớ niềm thương của con người được gửi gắm vào đó.
Bên cạnh đó, cấu trúc tiểu đối đồng loạt ở các câu hát đã tạo ra một bè trầm của âm hưởng
thương nhớ trong lòng người đi, kẻ ở. Cấu tạo đối vừa tô đậm ý cho từng vế vừa mở ra ý ở ngoài lời.

Những câu thơ cùng với tiết tấu của nó đã tạo ra ý nghĩa ở ngay khoảng trống giữa các từ, các câu hay
giữa các đoạn thơ.
Có thể nói rằng, tính dân tộc là đặc điểm nổi bật ở Việt Bắc. Chính đặc điểm này đã tạo nên sức
hấp dẫn của bài thơ. Tính dân tộc của bài thơ đã giúp nhà thơ chuyển tải được tư tưởng hiện đại, tiên
tiến. Đây là một tác phẩm thành công nhất của Tố Hữu, một tác phẩm đã ngợi ca những ngày hào hùng
vẻ vang của dân tộc, những ngày mà tồn dân nơ nức ra trận, những ngày mà mảnh đất Việt Bắc in dấu
bao thời khắc, chiến công hào hùng, tươi đẹp của dân tộc… Tất cả đều được tái hiện trong một hình thức
đặc biệt phù hợp mà Tố Hữu đã lựa chọn và sử dụng. Rõ ràng, bài thơ Việt Bắc đã mang tinh thần và tư
tưởng của thời đại nhưng người ta có thể ngân ngợi như những bài ca dao.

b) Phân tích tâm tr ạng c ủa tác gi ả khi nh ớ
v ề mi ền Tây B ắc B ộ và nh ững ng ườ i đồ ng độ i
trong nh ững bài th ơ sau:
Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khủyu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đềm đêm Mường Hịch cọp trêu người
nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi.


Bài làm

Ai đã từng là người lính, ai đã từng đi qua một thời trận mạc trong lòng thường lưu giữ những kỉ niệm
khó quên. Kỉ niệm ấy thao thức và sống dậy mỗi khi nhắc nhớ. Quang Dũng cũng vậy. Những năm tháng
gắn bó với binh đồn Tây Tiến anh hùng của người lính – nhà thơ này đã thôi thúc ông viết Tây Tiến –
một bài thơ với những vần thơ đậm chất anh hùng ca bay lên từ hiện thực khốc liệt. Đoạn đầu bài thơ
chính là đoạn ghi lại những kỉ niệm những kỉ niệm đầy ắp và nỗi nhớ của nhà thơ về những ngày tháng
gắn bó cùng binh đồn:
Sơng Mã xa rồi Tây Tiến ơi!…
..,Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Hai câu thơ mở đầu đã tạo ngay ấn tượng về nỗi nhớ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Thì ra đã có một khoảng lùi xa thời gian để thành ám ảnh, đê thành nỗi nhớ và tiếc nữa. Những
tiếng “xa rồi Tây Tiến ơi” thốt lên từ trong lòng nhà thơ như một niềm nuối tiếc.Tiếng lòng đó cất lên sao
mà tha thiết đến thế, đồng thời như có tiếng vọng đáp lại vào vách núi, ngân nga không dứt trong không
gian bởi Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi.”. Những hình ảnh thiên nhiên như đột ngột hiện lên trong khơng
gian. Đó là con sơng Mã kì vĩ và kiêu hãnh chảy từ thượng Lào về đất Việt, đó là rừng, là núi điệp trùng,
những nơi đã in dấu chân của binh đoàn Tây Tiến một thời trận mạc, thế mà giờ đây đã xa rồi thì làm sao
tránh khỏi nỗi nhớ dâng lên trong lịng người chiến sĩ Tây Tiến năm xưa. Nỗi nhớ ấy có địa chỉ, địa danh
như đã bắt rễ trong lịng người, nỗi nhớ ấy lại trong một trạng thái thật chơi vơi, mơ hồ như một thống
buồn xa xơi… Có lẽ nhà thơ đã đạt được cái tài cái tình ấy trong câu thơ “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi!”.
Từ hai câu thơ khơi nguồn ấy, mạch chảy dòng tâm sự hoài niệm của nhà thơ mở ra lan toả như
một chuỗi kỉ niệm giờ đây thức dậy, lay động và xơn xao trong lịng. Và đây, hình ảnh đoàn quân mỏi
giữa Sài Khao sương lấp –rất ấn tượng. Sự chân thực sinh động của hình ảnh thơ khiến ta như hình
dung thấy tư thế, dáng vẻ của đồn quân trong gian lao, cơ cực của những ngày phải đương đầu với
trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Chân thực song cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân
mỏi lại được miêu tả trong một khung cảnh đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Những tiếng sương lấp, đêm
hơi… khiến cho toàn bộ cảnh thực chợt nhoà đi, gây được ấn tượng nhiều chiều trong tâm trí người đọc.
Cũng với hình ảnh đồn qn cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Tố Hữu lại mở ra
một trường liên tưởng khác:
Những đường Việt Bắc của ta,

Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Thiên nhiên như cùng hát lên, cùng âm điệu với khúc qn hành của người lính ra trận.
Cịn với Quang Dũng, bối cảnh thiên nhiên hiện ra trong kí ức và tâm trạng là những hình ảnh
sóng đơi của sự trái ngược:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,


Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Bước hành quân gian lao của người lính vệ quốc mở ra trong không gian nhiều chiều. Ta như
nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chinh gian lao của người lính qua câu thơ đầy những
vần trắc: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thắm”. Ta cũng thấy hiển hiện một lộ trình đầy gian lao, đầy bất
ngờ, khi Quang Dũng viết: Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống. Đặc biệt hơn nữa, hình ảnh “Heo hút
cồn mây, súng ngửi trời“ thì câu thơ khơng phải chỉ diễn tả bước gian lao trên đường hành quân đánh
giặc mà ta còn thấy cả chất của lính, tính của lính qua sự liên tường bất ngờ mà thú vị: súng ngửi trời.
Biết bao nhiêu gian lao thử thách, vừa như muốn quật ngã người lính cách mạng, lại vừa như
kích thích họ đi tới, dẫn tới của sự chinh phục. Cảnh rừng núi hiểm trở với dốc lên khúc khuỷu, với hun
hút cồn mây, với độ cao thấp đến choáng ngợp của “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, thế mà hình
ảnh của sự sống vẫn chợt hiện ra như tạo nên thế cân bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi’. Bên cái
hiểm trờ dữ dội của thiên nhiên là sự sống thanh bình của con người khiến cho giọng điệu và tâm tình
trong thơ Quang Dũng chợt như mềm lại, tạo nên sự linh hoạt đã thành rất đỗi tài hoa trong bút pháp thể
hiện:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi.
Với những kỉ niệm về binh đồn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút pháp hồi

niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho nhau, Quang
Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây
Tiến.
Những chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người đó như những thước phim vừa chân thực sinh
động vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa đã góp phân tạo nên thành công cả về nội dung và nghệ
thuật của đoạn trích.
Có người nhận định rằng với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng nên bức tượng đài bằng
thơ về hình tượng ngựời lính đánh Pháp trong cuộc kháng chiến gian lao mà dũng cảm và cũng đầy chất
thơ của nhân dân ta.
Đọc đoạn thơ, ta hiểu thêm về người lính Tây Tiến, hiểu thêm những điều ẩn phía sau của “đồn
binh khơng mọc tóc” và hiểu hơn về nguồn cội của sức mạnh mà người lính đem vào trận chiến. Yêu
quý, khâm phục, tự hào là những dư vang tha thiết trong lòng người đọc khi biết về binh đoàn Tây Tiến
qua những vần thơ của Quang Dũng.
Bài viết số 3 lớp 12 đề 2:


a) V ẻ đẹ p bi tráng cùa hình t ượ ng ng ườ i
lính trong bài th ơ Tây Ti ến c ủa Quang D ũng.
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng
vơ danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn
người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc
trong suốt trường kỳ lịch sử. ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như
vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta.
Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm
gian khổ ấy bất tử cùng thời gian
“Tây Tiến đoàn quân khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hnội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
“Tây Tiến” của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của
nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những
người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên
cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế QDũng khơng chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đồn binh Tây Tiến
trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà “đời vẫn cứ tươi” như ở 14 dòng thơ đầu tiên.
Và QDũng cũng khơng chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức
phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. QDũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng
tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngơn ngữ giàu
hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh
để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước,
của dtộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng
ta đã thấy trong các câu thơ
“Tây Tiến đoàn quân ….. khúc độc hành”
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét nhằm tô
đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong
đồn qn mỏi trong câu:
” Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi ”
hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì
ở đây là hình ảnh đồn binh khơng mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của QDũng


đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt
rét
rừng làm tóc họ khơng thể mọc được (chứ khơng phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho
dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh
màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy
họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ

dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của QDũng là mơ tả người lính với những nét khắc khổ tiều
tuỵ nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ “Tây Tiến đồn binh khơng
mọc tóc” với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”, “mọc tóc”. Nhờ những thanh
trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ cịn là cả một đồn binh. 2 chữ “đồn
binh” âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ “Tây Tiến”
mở đầu câu thơ khơng chỉ cịn là tên gọi của đồn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đồn binh dù đầu
khơng mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà QDũng sử dụng ở
câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà
cịn thấm sâu màu sắc văn hố của dân tộc. ở đây, nhà thơ khơng chỉ muốn nói rằng những người lính
Tây Tiến như chúa sơn lâm, khơng phải muốn “động vật hố” người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức
mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca
ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ
“Hồnh sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thơn ngưu” Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết
“Nghĩa binh tráng khí thơn ngưu đẩu Thể diện sài long xâm lược qn”
Có thể nói QDũng đã sử dụng một mơtíp mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm
vang của lsử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dtộc. Đọc câu
thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đơng á.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi QDũng bổ sung vào bức tượng
đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lịng ln hướng về Tquốc, hướng về Thủ đơ. Người lính dẫu ở
nơi biên cương hay viễn xứ xa xơi mà lịng lúc nào cũng hướng về HNội. Ta bỗng nhớ đến câu
thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
“Từ thuở mang gươm đi mở nước Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”
Người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng
về một “dáng kiều thơm”. Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ
vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu
tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. QuDũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc –

những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm
hồn phong phú. Người lính Tây Tiến khơng chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà


còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một
dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản
lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn
tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ QDũng.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đồn binh với những
bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở
đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của
họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một
cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng
chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh,
các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu QDũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của
người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những khơng rơi vào bi lụy mà cịn có sức
bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng
nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi “viễn xứ”. Từng chữ từng
chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói
về những nấm mồ, lại là những nấm mồ “rải rác” dễ gợi sự hoang lạnh, lại là “rải rác” nơi “viễn xứ”,
những nấm mồ ấy càng gợi sự cơ đơn cơi cút. QDũng muốn nói tới nơi n nghỉ của những người đồng
đội
Trong Chinh phụ ngâm:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
“Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn”
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở
về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những

người con anh dũng
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những
tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến
dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ QDũng ln là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hy sinh của người lính cịn được tráng lệ hoá trong câu thơ
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Bao nhiêu thương yêu của QDũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo
QDũng khơng xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với
bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận.
Lại trong cảnh kháng chiến cịn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết khơng có cả một chiếc quan tài.
Hồng Lộc trong “Viếng bạn” cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế


” Ở đây không manh ván Chôn anh bằng tấm chăn Của đồng bào Cứa Ngàn Tặng tôi ngày sơ
tán”
Chỉ có điều câu thơ của QDũng khơng dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng
lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc
chiếu cũng khơng có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy
QDũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính
đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử
hố người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu
thơ đầy tính chất tráng ca “Sơng Mã gầm lên khúc độc hành”
Loading...
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, QDũng đã
dựng lên bức chân dung , một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát,
tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng
chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng
của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của QDũng đối với những
người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà

thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.

b) C ảm nh ận c ủa anh (ch ị) v ề hình t ượ ng
thiên nhiên và con ng ườ i Vi ệt B ắc trong đo ạn
th ơ sau:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta vê, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Bàilàm
“Ơi! Nỗi nhớ, có bao giờ thế!”. Nỗi nhớ đi qua thời gian, vượt qua không gian. Nỗi nhớ thấm sâu lòng
người… Và nỗi nhớ ấy cứ ray rứt, da diết trong tầm hồn người chiến sĩ cách mạng miền xuôi khi xa rồi
Việt Bắc thân yêu – nơi đã từng ni nấng mình trong những ngày kháng chiến gian lao…
Ta về, mình có nhớ ta


Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngàv xuân mơ nờ trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hịa bình

Nhớ ai-tiếng hát ân tình thủy chung.
Trong cùng một đoạn thơ ngắn nhưng từ “nhớ” đã được lặp lại năm lần. Nỗi nhớ xuyên suốt từ
câu đầu đến câu cuối đoạn. Hai dịng đầu là lời khơi gợi, “nhắc khéo”: mình có nhớ ta không? Riêng ta,
ta vần nhớ! Cách xưng hô gợi vẻ thân mật, tình cảm đậm đà tha thiết. Ta với mình tuy hai mà một, tuy
một mà hai.
Người ra đi nhớ những gì? Việc Bắc có gì để mà nhớ, đế mà thương? Câu thơ đã trình bày rất
rõ?
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Núi rừng, phong cảnh Việt Bắc được ví như “hoa”. Nó tươi thắm, rực rỡ và “thơm mát”. Trong
bức tranh thiện nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên giản dị, chân chất, mộc mạc mà cao đẹp vô cùng!
Con người và thiên nhiên lồng vào nhau, gắn kết với nhau tạo nên cái phong thái riêng của Việt Bắc.
Bốn mùa đất nước đi qua trong những câu thơ ngắn gọn bằng các hình ảnh, chi tiết chắt lọc, đặc
trưng. Mỗi mùa mang một hương vị độc dáo riêng.
Mùa đông, rừng biếc xanh, điểm lên những bông hoa chuối “đỏ tươi” và ánh nắng vàng rực rỡ.
Xuân đến, cả khu rừng bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ. Hè sang, có ve kêu và có “rừng phách đổ
vàng”. Và khi thu về, thiên nhiên dược thắp sáng bởi màu vàng dìu dịu của ánh trăng. Đoạn thơ tràn
ngập những màu sắc chói lọi, rực rờ: xanh, đỏ, vàng, trắng… Những màu sắc ấy đập mạnh vào giác
quan của người đọc. Tiếp xúc với những câu thơ của Tố Hữu, ta như được chiêm ngưỡng một bức tranh
sinh động. Trong đó, những gam màu được sử dụng một cách hài hòa tự nhiên càng tôn thêm vẻ đẹp
của núi rừng Việt Bắc.
Thời gian vận hành nhịp nhàng trong những dịng thơ. Nó bước những bước rắn rỏi, vững chắc
khiến ta chẳng thế thấy phút giao mùa. Thiên nhiên Việt Bắc cịn được mơ tả theo chiều dọc thời gian.
Buổi sáng hoa “mơ nở trắng rừng”, trưa nắng vàng rực rỡ và khi đêm về, trăng rọi bàng bạc khắp nơi…
Núi rừng Việt Bắc như một sinh thế đang biến dổi trong từng khoảnh khắc…
Và cái phong cảnh tuyệt vời, đáng yêu ấy càng trơ nên hài hòa nắng ấm, sinh động hẳn lên khi
xuất hiện hình ảnh cùa con người. Con người đang lồng vào thiên nhiên, như một đóa hoa đẹp nhất, có
hương thơm ngào ngạt nhất. Mồi câu thơ tả cảnh đi cặp với một câu thơ tả người. Cảnh và người đan
xen vào nhau một cách hài hòa. Đây là những con người lao động, gắn bó, hăng say với cơng việc. Kẻ
“dao gài thắt lưng”, người “đan nón”, “cơ em gái hái măng một mình” và tiếng hát ân tình cua ai đó vang



lên giữa đêm rừng núi xơn xao… Hình ảnh con người làm nét đẹp cúa thiên nhiên thêm rực rỡ. Chính họ
đã gợi nên nỗi nhớ da diết cho người ra đi. Đọc đoạn thơ, ta có cảm nhận những vẻ dẹp bình dị mà trong
sáng của tâm hồn người Việt Bắc. Ở đó họ đối xừ với nhau bằng tình nghĩa mặn mà, chân thật, bằng sự
thủy chung “trước sau như một”. Họ đã nuôi chiến sĩ, nuôi cách mạng, nuôi cuộc kháng chiến cùa dân
tộc… Những con người Việt Bắc tuy bình dị nhưng thật anh hùng.
Khơi gợi hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây, Tố Hữu đã thể hiện một tình cảm tha thiết,
ân tình sâu nặng và nỗi nhớ thương sâu sắc. Ta với mình, mình với ta đã từng:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Đã từng san sẻ những ngọt bùi, gian nan vất vả như thế! Ta, mình làm sao có thể qn nhau
được. Tình cám mến thương ấy đã ăn sâu vào tâm hồn kẻ ở, người đi. Vì thế, khi ra đi, nhớ là nỗi niềm
khắc đậm sâu trong tâm khảm, tình cảm của tác giả.
Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng. Cả khổ thơ ôm chứa niềm lạc quan, vui sống và tin
tưởng vào cuộc sống. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết và tấm
lòng yêu nước thiết tha của Tố Hữu. Cuối đoạn thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm. Ki
niệm ấy theo mãi dấu chân người đi và quấn quýt bên lòng kẻ ở lại…
Những câu thơ cùa Tơ Hữu có tính khái qt cao so với toàn bài. Lời thơ giản dị mà trong sáng
thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của
Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc, như khúc dân ca ngọt ngào đê lại trong lịng ta những tình cảm
sâu lắng, dịu dàng
Bài viết số 3 lớp 12 đề 3:

a) Phân tích và so sánh hình t ượ ng đấ t
n ướ c trong đo ạn trích Đấ t N ướ c ( trong
tr ườ ng ca M ặt đườ ng khát v ọng c ủa Nguy ễn
Khoa Đi ềm) và bài th ơĐấ t n ướ c c ủa Nguy ễn
Đình Thi.
Bàilàm
“Đất nước tơi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng

lẽ. Các anh khơng về mình mẹ lặng im…(Tạ Hữu Yên). Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng ta xốn xanh
da diết ! Nhớ những ngày bé thơ đến lớp, cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước.
Tơi mơ hồ chả hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm ! Thời gian trôi qua nhanh, mang
tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa. Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tơi đã thấm thía hai
tiếng thiêng liêng “Đất Nước”. Nhưng rất buồn là tôi không thể viết thành thơ. Trong những vần thơ “ Đất
nước” mến yêu dạt dào cảm hứng ấy, có tác phẩm của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm.
Hai nhà thơ đã truyền cho tôi cảm xúc mạnh mẽ. Những vần thơ giúp tơi nhìn ra chân dung của
đất nước. Bình dị và trong sách, hồn hậu và nhân ái, nghèo khổ nhưng oai hùng. Có lẽ chính những điều
ấy đã khơi gợi cảm hứng cho các bài thơ, đã gieo vào lòng từng nhà thơ bao suy tư và trăn trở. Từ cảm


xúc của những ngày sống hết mình với chiến đấu, từ vốn tri thức khá phong phú của mình, qua chương
“Đất nước” Nguyễn Khoa Điềm đã cắt nghĩa sâu xa cho tuổi trẻ thành thị miền Nam lúc này. Những hiểu
biết về lịch sử dân tộc như sống dậy, lay động tâm hồn tác giả. Mỗi câu chuyện cổ tích, những thời khắc
lịch sử của những cuộc đấu tranh giữ nước và dựng nước ngày càng thiêng liêng, tha thiết hơn bao giờ
….
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”…mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre và đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.
Trong hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm man mác âm hưởng sử thi. Yếu tố cổ điển và hiện đại
hoà quỵên vào nhau tạo thành một cấu trúc hai cực. Đất nước mình chân thật như cuộc sống. Những
câu thơ dài tn chảy êm dịu như dịng sơng. Một dịng cảm xúc dào dạt âm thầm nhưng mãnh liệt. Cảm
hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt nguồn từ những huyền thoại : “Ngày xửa ngày xưa mẹ
thường hay kể”. Dường như nhà thơ đã huy động vào đây nhiều vốn liếng, trí tuệ, sự từng trải, gửi gắm

vào đây bao kỉ niệm suy tư. Nguyễn Khoa Điềm đã cùng ta hành hương về với cội nguồn dân tộc và rồi
tham gia vào cuộc chiến đấu chung là con đường đúng đắn duy nhất đối với người thanh niên yêu nước.
Nhà thơ mạnh dạn để cái “tơi” của mình xuất hiện. Có thể nói rằng , muốn viết những vần thơ tuyệt vời
về Đất nước không chỉ đơn thuần là nhà thơ biết rung động trước một vầng trăng, một tia nắng, một điệu
dân ca hay một tiếng thơ cổ điển. Đây là cả một quá trình suy ngẫm, và “nhìn lại” đất nước. Từng lời thơ
đầm ấm giàu ý thức của tuổi trẻ đã nhận ra vai trị của mình trước thời đại và nhận thức được đất nước
này là của nhân dân. Chúng ta phải chiến đấu để bảo vệ đất nước tươi đẹp. Nhà thơ cảm nhận phát hiện
ra đất nước từ csai nhìn tổng hợp , nhiều mặt và dường như đã tồn vẹn. Với Nguyễn Đình Thi cảm
hứng về đất nước bắt nguồn từ những chất liệu hình ảnh cụ thể, sinh động của cuộc kháng chiến chín
năm cứu nước thần thánh của chúng ta. Bài thơ mang tính khái quát về cảm hứng lịch sử và truyền
thống của dân tộc. Có phải chăng, cái cảm hứng ấy của hai nhà thơ này đều bắt nguồn từ lịng u nước
sâu sắc? Do hồn cảnh và thời điểm lịch sử mà mỗi nhà thơ lại có cảm nhận khác nhau. Cảm hứng về
đất nước đến với Nguyễn Đình Thi trong lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra dữ dội và tàn khốc. Người
thanh niên Hà Nội ấy, cũng đã bước vào cuộc kháng chiến nhưng tâm hồn anh thanh niên vẫ đủ sức cảm
nhận:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tơi nhớ những ngày thu đã xa.


Chính “mùa thu Hà Nội” ngày hơm nay đã gợi cảm hứng cho tác giả. Nhìn mùa thu này nhà thơ
lại nhớ đến mùa thu xưa. Dường như lời hát “Mùa thu rồi ngày hăm ba, ta ra đi theo tiếng gọi sơn hà
nguy biến. Rên khắp trời, lời hoan hơ qn, dân ta tiến ra trận tiền” cịn vang vọng bên tai. Hôm nay
đứng giữa đất trời chiến khu trong buổi sáng mùa thu mát lành nhà thơ suy tư về đất nước. Cái cảm giác
đầu tiên mà Nguyễn Đình Thi bắt gặp là cái rất riêng, rất đặc trưng về, rất Hà Nội : mùi hương cốm mát.
Phải là một chàng trai Hà Nội chính gốc mới có được cái cảm nhận ấy. Phải gắn bó máu thịt với thủ đơ
mới chan hồ tình thương nơi này đến thế ! Niềm cảm xúc dâng trào. Những hồi tưởng về mùa thu trước
tuy êm ái nhưng thật ra lòng nhà thơ dạt dào biết bao
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Người ra đi mang dáng dấp của cậu học trò, tỏng sáng lưu luyến bao nhiêu kỉ niệm đẹp với từng
con phố dài xao xác hơi may. Có một chút lưu luyến bâng khng trong lịng người, nhưng khơng hề bi
luỵ. Câu thơ mang màu sắc lãng mạn tươi mát trong lành:
Sau lăng thềm nắng lá rơi đầy
Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi cũng bắt đầu vui phơi phới của người tự do. Đứng
giữa một vùng chiến khu tự do nhà văn đón nhận đất nước với những điều mới mẻ:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
Phải có con mắt tinh tế, giao cảm với thiên nhiên nhà thơ mới nhận được sự”thay áo mới” của
mùa thu. Tất cả như nô nức, muôn âm thanh trong trẻo xanh biếc của trời thu như hoà quyện vào nhau;
đất nước như “đang cười, đang nói”. Tâm hồn nhà thơ dạt dào mênh mơng thấy đất nước mình như
“rừng tre phấp phới”. Hình ảnh cây tre cũng được các nhà thơ nhắc đến khi viết về đất nước:
Ta yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ bát ngát câu Kiều bờ tre, mái rạ
Mái đình cong con như em gái giữa đêm chèo
Cánh cị Việt Nam trong hơi mát xấm xoen cị lả
Cái đơn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo
(Chế Lan Viên)
Từ xúc cảm mãnh liệt dạt dào nhà thơ cảm nhận được đất nước mình khơng giống Chế Lan Viên
với lối trầm ngâm, lắng đọng mà ở đây, đất nước hiện lên nô nức, tươi mát nhưng cũng hết sức hào
hùng:


Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát

Những ngả đường bát ngát
Những dịng sơng đỏ nặng phù sa
Nhà thơ khơng thiên tả cảnh mà nghiêng về yếu tố tượng trưng. Chỉ một vài hình ảnh cụ thể
như : “ núi rừng, những cánh đồng, ngả đường, dịng sơng” nhà thơ đã vẽ nên đất nước. Một đất nước
được khẳng định chủ quyền “ Trời xanh đây là của chúng ta”, giống Lý Thường Kiệt ngày xưa đã khẳng
định : “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Mượn một vài hình ảnh cụ thể nhưng có tính khái qt cao nhà thơ
đã gửi găm stình cảm, gửi gắm tâm trạng của mình trong đó. Niềm tự hào nhà thơ thể hiện qua điệp nhữ
“của chúng ta”. Rất đẹp, rất thơ với “những cánh đồng, những dịng sơng, rừng núi”…Cảm hứng lịch sử
với truyền thống dân tộc đã nhắc nhở nhà thơ đừng quên:
Nước chúng ta
Nước của những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Có nhìn về q khứ xa xơi mới q hơn những ngày mình đang sống . ở đây càng thấy quý hơn
bởi chữ “tâm” của nhà thơ. Không chỉ có cảm nhận đất nước trong hiện tại với biết bao niềm vui chào
đón mà cịn nhìn lại lịch sử dân tộc. Có phải chăng những tiếng “rì rầm” trong đất ấy, những buổi ngày
xưa vọng về thôi thúc bước chân và trái tim nhà thơ? Cảm hưúng thời đại đã kết hợp nhuần nhuyễn với
cảm hứng lịch sử truyền thống đã tạo ra những câu thơ tuyệt vời. Thi sĩ Gớt( Đức) có nói rằng : “Nhà thơ
phải biết nắm lấy cái riêng biệt và từ đó, nếu cái riêng biệt là chân chính nhà thơ biểu hiện cái khái quát”.
Nguyễn Đình Thi đã đi theo cái hướng này và đã thành cơng. Bằng những liên kết sóng đơi nhà thơ
thường đi từ cái cụ thể đến cái khái qt.
Do đó mạch thơ tn trào theo cảm xúc khơng bị dàn trải. Nhà thơ cảm nhận đất nước bằng
chính cái tâm hồn của mình, đáy lịng mình, khơng triết lý, khơng ồn ào nhưng đầy khích lệ. Chính vì vậy
mà đất nước Việt Nam hiện lên rất hiện thực. Đó là một đất nước tạo hình trong đau khổ. Chíên tranh
kéo dài khơng biết bao năm từ Đinh, Lý, Trần, Lê và cho đến ngày hôm nay vẫn chưa hết. Đất nước vẫn
còn:
Những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.
Từ xúc cảm khôgn chỉ là niềm vui mà còn là nỗi đau nên trong bài thơ Đất nước lại có những vần
thơ “đẫm nước mắt” như thế. Hình ảnh “cánh đồng quê chảy máu” đã tố cáo tội ác của giặc. Lấy “máu đỏ

mà tưới trên cánh đồng vàng” không phải là tàn nhẫn hay sao? Cái hay của Nguyễn Đình Thi là ở chỗ
đó. Hiện thực, quá khứ đã hội tụ về đây đó trong bài thơ nhưng với tâm hồn của một người lính mang
dáng dấp học trị. cảm hứng lãng mạn ln luôn chi phối.
Những đêm dài hành quân nung nấu


Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Tình cảm riêng tư cũng đã trở thành cảm hứng về đất nước. Trong cái chung bao giờ cũng có cái
riêng Nguyễn Đình Thi đã từng nói “Ta yêu em như yêu đất nước”. Chính những tình cảm này đã góp
phần tạo nên “Đất nước” đơn hậu, ân tình và trìu mến hơn. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa
Điềm cũng được khơi gợi từ chuyện giữa “anh và em”.
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp nhận đất nước trên nhiều phương diện. Từ địa lý cho đến lịch sử , rất
cụ thể. Những câu thơ dài xen lẫn những câu ngắn và lối chiết tự khiến cho lời thơ có vẻ trầm tư. Tình
u lứa đơi nảy sinh trong tình yêu đất nước. Cảm hứng đất nước bắt nguồn từ cách cảm nhận của nhà
thơ qua những trắc nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tư tưởng của nhân dân đã chi phối toàn
bộ cảm hứng, cấu từ hình tượng thơ. Nhà thơ cảm nhận rằng chính nhân dân đã làm nên đất nước và
đất nước đã muôn đời là của nhân dân. Đất nước đối với nhà thơ vừa cụ thể mà cũng huyền ảo. Bởi vì
cảm hứng ấy bắt nguồn từ những câu chuyện cổ, từ những điều gần gũi thân thương với cuộc sống của
chúng ta:
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
Rất cụ thể, gần gũi và bình dị : “Tóc mẹ…gừng cay muối mặn”. Nhưng đây cũng là sự sáng tạo.
Nhà thơ cảm nhận đất nước theo chiều dài, lẫn chiều sâu, xuyên suốt từ quá khứ cho đến hiện tại.
Truyền thống, phong tục được coi là chất sống vĩnh hằng. Đất nước là tất cả những gì có trong cuộc

sống, là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng:
Trong anh và em hơm nay
Đều có một phần Đất Nước
…Em ơi em Đất Nước là một phần trong máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hố thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước mn đời…
Lời nhắn nhủ có vẻ riêng tư nhưng thật ra tác giả muốn nói chung với tất cả chúng ta. Khơng
phải là lời giáo huấn mà là nỗi tâm tình, đầm ấm và thắm thiết. Những gì đã qua mà nhà thơ chứng kiến,
đã biết, đã hiểu là nguồn cảm hứng chủ yếu của bài thơ. Tình u nước thể hiện thầm kín trong từng câu
thơ. Dường như đối với Nguyễn Khoa điềm đất nước mênh mơng rơng lớn lắm nhưng nó khơng xa lạ gì
với chúng ta, nó ở ngay trong ta. Tất cả những gì có trong cuộc sống đều góp phần tạo nên đất nước. Đó


là cảm nhận của lớp người đi trước. Nhà thơ đã khắc hoạ lại đất nước hết sức điển hình. Một đất nước
Việt Nam với những chuyện cổ tích, ca dao, bình dị, chân tình nhưng người dân giàu lịng yêu thương,
sẵn sàng hi sinh mình để tạo nên dáng hình xứ sở. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
không dừng lại ở một giới hạn nào, bởi vì đất nước kết tinh trong mỗi con người. Đất nước hoá thân
trong đời sống của mỗi cá nhân và mỗi cá nhân đang sống đều mang di sản đất nước của cha ơng để lại.
Ơi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sơng ta
Vì vậy, chúng ta hơm nay có trách nhiệm giữ gìn và truyền cho thế hệ mai sau. Cảm hứng thời
đại xen với cảm hứng truyền thống. Lịch sử dân tộc tạo ra mạch thơ dài không ngơi nghỉ. Nhưng điều đó
khiến ta liên tưởng đến đất nước mình…Trong từng thời điểm, đất nước có những phút giây thơ mộng
nhưng qua bao nhiêu chặng đường mà nhà thơ đã đi đất nước sống trong cực nhọc, nặng nề dưới bom
đạn , chiến tranh. Nhưng mà cha ông ta:
Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươmg ta mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hồ

(Huy Cận)
Chính nỗi đau đớn mà đất nước đã phải chịu đựng làm xốn xang tâm hồn của nhà thơ. Thật vậy,
bốn ngàn năm qua tổ quốc ta chưa hề châm dứt chiến tranh:
“Đất nước tơi, đất nước tơi, từ thuở cịn nằm nôi sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa…”
Những buổi trưa hè giọng ca dao vẫn cất lên trên đất nước đau thương. Cung xlà một đất nước
Việt Nam nhưng mỗi nhà thơ đều cảm nhận ở những điều khác nhau. Cảm hứng về “đất nước” bắg đầu
từ hiện thực. Nhưng ở mỗi nhà thơ đều mang hình nét lãng mạn, lạc quan:
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước cả ca dao thần thoại
Dạy anh biết “Yêu em từ thuở trong nôi”
“Đất nước” là chủ đề bao trùm thơ Việt Nam trong giai đoạn 1945-1975. Biết bao nhà thơ đã viết
về đề tài nay. Nhưng tôi cho rằng trong tất cả những bài thơ Đất nước Nguyễn Đình Thi là người thành
cơng hơn cả. Đất nước của Nguyễn Đình Thi rất chân thật nhưng rất nghệ thuật nhờ nhà thơ đã chọn
hình tượng đặc sắc. Tuy nhiên ở mỗi bài thơ Đất nước nhà thơ nào cũng có nét hay riêng.
Tóm lại, cảm hứng đất nước của nhà thơ bắt ngùơn từ lịng u nước chân thành, sâu sắc ! Cảm
hứng đó khơng bắt gặp trong hiện tại mà họ cịn tìm về q khứ. Với những năm tháng gian khổ chiến
tranh với truyền thống tốt đẹp của dân tộc…Chính các nhà thơ cũng có một phần tạo ra: “Nam quốc sơn
hà” tươi đẹp ! Để chúng ta có thể tự hào : “Đất nước tôi…sáng ngời muôn thuở. Khi trăng đã vào cửa sổ
đòi thơ…”


b) C ảm nh ận c ủa anh ch ị v ề hình t ượ ng
ng ườ i lính Tây Ti ến trong đo ạn th ơ sau:
Tây Tiến đoàn binh khơng mọc tóc
Qn xanh mà lá dữ oai hùng
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Bài làm
I. Đặt vấn đề :
– Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết
vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.
– Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đơng
là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên.
– Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình
tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng.
II. Giải quyết vấn đề :
1. Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến :
Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với
khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào
cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
– Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một khơng khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện trực tiếp của
những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ
dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai),
đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và
kì lạ :
Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
… Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
– Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên
bức tượng đài tập thể đặng khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngịi bút của ơng,
những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã
làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu những sự
thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ơng đã thấy họ ốm mà khơng yếu, đã nhìn thấy bên trong


cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến
họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người
lính, qua cái nhìn của ơng, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai

phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện quan ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ …
– Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ơng nhìn thấy xun qua cái vẻ oai hùng, dữ
dằn bề ngồi của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao
khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc
lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến khơng chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ
bề ngoài mà con thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
2. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến :
– Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không
gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngịi bút ơng nói nhiều tới cái buồn, cái
chết như là những chất liệu thẩm mỉ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
….Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
– Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngịi bút của Quang Dũng khơng hề nhấn chìm người
đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng
đơi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác
nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng qn mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến.
Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường khơng có đến cả mảnh chiếu che
thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy
bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã :
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng. Cái
chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dịng sơng Mã đã trân trọng đưa tiễn linh
hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng.
– Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng,
chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở
lại.
III. Kết thúc vấn đề :
– Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút Quang Dũng.
Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần

của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi khơng trở lại.
– Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành cơng hình ảnh người lính. Và Quang Dũng,
qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện bảo tàng hình ảnh những người lính đó bức
chân dung người lính Tây Tiến rất độc đáo của mình.



×