Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Đánh giá sự phát triển con người ở tỉnh vĩnh phúc trong giai đoạn 2005 2015 qua chỉ số HDI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (883.62 KB, 82 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ MAI ANH

ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Ở TỈNH VĨNH PHÚC TRONG GIAI ĐOẠN
2005-2015 QUA CHỈ SỐ HDI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Với tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành nhất tới Th.s Hoàng Thanh Sơn - Người đã luôn tận tình hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo khoa Giáo dục Chính trị,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã cung cấp cho tôi nền tảng kiến thức quý
báu để tôi có thế hoàn thành khóa luận của mình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè và những người thân trong gia đình
đã động viên, giúp đỡ và là chỗ dựa tinh thần lớn nhất để tôi hoàn thành tốt
khóa luận tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 03 thảng 05 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Mai Anh



TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ MAI ANH

ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Ở TỈNH VĨNH PHÚC TRONG GIAI ĐOẠN
2005-2015 QUA CHỈ SỐ HDI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Hướng dẫn khoa học:

ThS. HOÀNG THANH SƠN

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu được trình bày trong khóa
luận là tôi thực hiện và không trùng lặp với bất cứ tác giả nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm với những nội dung được đề cập
trong bản khóa luận này.
Hà Nội, ngày 03 tháng 5 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Mai Anh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu .............................................. 3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ............................................ 4
6. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 4
7. Kết cấu của đề tài .......................................................................................... 4
Chương 1. VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VÀ CHỈ SỐ PHÁT
TRIỂN CON NGƯỜI HDI ............................................................................. 5
1.1. Vấn đề phát triển con người ....................................................................... 5
1.2. Chỉ số phát triển con người ...................................................................... 21
Chương 2. CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TỈNH VĨNH PHÚC .. 36
2.1. Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu ........................................ 36
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến HDI ở Vĩnh Phúc ........................................ 49
2.3. Các chỉ số đánh giá phát triển con người tỉnh Vĩnh Phúc........................ 53
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở TỈNH
VĨNH PHÚC HIỆN NAY ............................................................................. 64
3.1. Phát huy lợi thế so sánh, phát triển công nghệ, dịch vụ theo hướng hiện
đại đáp úng yêu cầu hội nhập quốc tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ................................................................................................................... 64
3.2 Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa xã hội, nâng cao chất
lượngnguồn nhân lực....................................................................................... 66
3.3. Giải quyết việc làm cho người lao động .................................................. 68
3.4. Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội và đẩy mạnh công tác xóa đói
giảm nghèo ...................................................................................................... 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển kinh tế, xã hội trong đó nội dung cơ bản là sự phát triển bền
vững đã và đang trở thành cơ hội thúc đẩy sự tiến bộ của nhiều quốc gia trên
thế giới, đặc biệt vai trò của con người trong phát triển đã được khẳng định và
đề cao. Nó được thể hiện qua cách nhìn nhận về phát triển 1 cách sâu sắc, toàn
diện và chặt chẽ hơn. UNDP đã đưa ra tuyên bố đầy ấn tượng rằng “của cải
đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó. Và mục tiêu của phát
triển là để tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép con người được hưởng
cuộc sống lâu dài, khỏe mạnh và sáng tạo”. Một quốc gia có phát triển bền
vững hay không là ở mức độ phát triển chất lượng con người của quốc gia đó.
Học thuyết Mác là học thuyết về con người, về sự nghiệp giải phóng con
người, trong đó sự phát triển con người toàn diện là một nội dung cốt lõi. Là
lớp người Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và đưa chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam, tiếp thu và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác vào
hoàn cảnh lịch sử và cụ thể của Việt Nam, trong suốt những năm tháng trực
tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đặt lên vị trí hàng đầu và
coi đó là nhiệm vụ trung tâm của công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Trong hơn 25 năm đổi mới đất nước,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành và thực hiện trên thực tế đường lối và
nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển con người Việt Nam phát
triển toàn diện, cả về trí lực lẫn thể lực, cả về “lý tưởng sống, lối sống, năng
lực, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam” nhằm thực hiện
thành công chiến lược phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho công
cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Con người là vốn quý, là mục tiêu phải hướng tới của mọi hoạt động

1



kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia và toàn thế giới. Sự lựa chọn chỉ tiêu về sự
phát triển của con người có ý nghĩa rất quan trong hơn hết là trong tình hình
hiện nay. Sự phân chia nước giàu- nghèo được dựa vào tổng chỉ tiêu tổng sản
phẩm trong nước bình quân đầu người (GDP/người) hoặc tổng thu nhập quốc
gia bình quân đầu người (NGI/người). Nhưng trên thực tế không hẳn nước
nào có thu nập bình quân đầu người cao là có tỉ lệ dân trí cao, ngược lại nhiều
nước có thu nhập bình quân đầu người không cao nhưng họ lại có đời sống
khỏe mạnh, tỉ lệ phát triển tốt.
Chính vì vậy, cơ quan báo cáo phát triển con người của Liên Hợp Quốc
(UNDP) đã lựa chọn và đưa ra chỉ số phát triển con người (Human
development Index). Việc đưa ra chỉ số này là vô cùng cần thiết, chỉ số phát
triển con người (HDI).
Vĩnh Phúc là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cửa
ngõ của Thủ đô, gần sân bay Quốc tế Nội Bài, là cầu nối giữa các tỉnh phía
Tây Bắc với Hà Nội và đồng bằng châu thổ sông Hồng, do vậy tỉnh Vĩnh
Phúc có vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế khu vực và
quốc gia. Hiện nay, tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích tự nhiên 1.231 km2, phía Bắc
giáp tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên, phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ, phía
Nam giáp Hà Nội, phía Đông giáp Hà Nội, dân số năm 2014 là 1.041.400
người, có 7 dân tộc đang sinh sống. Hiện nay Vĩnh Phúc là tỉnh công nghiệp
lớn thứ 3 sau Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, theo nhiều nhà
nghiên cứu đây là một tỉnh có nền kinh tế tang trưởng nhanh nhưng vẫn chưa
có sự tương xứng về các mặt văn hóa, xã hội. Trình độ phát triển con người
chưa ngang bằng hoặc cao hơn sự tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, yêu cầu
quan trọng và cốt yếu đối với sự phát triển nhanh và bền vững trong thời đại
ngày nay là sự phát triển con người. Vì sự phát triển con người là nền tảng và
động lực, hơn nữa là mục tiêu cho mọi sự phát triển. Tuy nhiên, cần phải có
sự đánh giá thực tế sự phát triển đó bằng những con số cụ thể, để từ đó mà


2


Đảng Ủy và Chính quyền Tỉnh đưa ra đường lối, chính sách kinh tế - xã hội
đảm bảo đúng định hướng “cho con người và vì con người”
Vì lý do đó, tôi chọn đề tài “Đánh giá sự phát triển con người ở tỉnh
Vĩnh Phúc trong giai đoạn 2005-2015 qua chỉ số HDI” làm khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chỉ số phát triển con người là vấn đề cốt lõi trong chiến dịch phát triển của
quốc gia vì vậy nó cần được đặt lên vị trí hàng đầu, cốt yếu. Hiểu được tầm quan
trọng cũng như vai trò cấp thiết của sự phát triển con người mà đã có nhiều tài
liệu, công trình khoa học nghiên cứu với các cách tiếp cận khác nhau.
Chỉ số phát triển con người đã được chương trình phát triển Liên Hợp
Quốc (UNDP) và báo quốc gia Việt Nam nghiên cứu từ 1990 đến nay. Chỉ số
HDI Việt Nam đã được in thành sách, những công trình nghiên cứu cấp nhà
nước, cán bộ ở Việt Nam cũng như trên cả nước.
Trong năm vừa qua có rất nhiều công trình nghiên cứu đánh giá sự phát
triển kinh tế xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Trên cơ sở đó đưa ra các
giải pháp cho sự phát triển kinh tế xã hội đặc biệt là công trình nghiên cứu của
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, đó làm đề tài: “Đánh giá sự phát triển con
người ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam” (2011) do tiến sĩ Nguyễn Thị
Hằng làm chủ đề tài. Công trình này đánh giá được những thành tựu và hạn
chế trong phát triển con người ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam Trong
giai đoạn từ 2001 đến năm 2010 từ đó đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế
xã hội ở khu vực này vì mục tiêu phát triển con người.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của sự phát triển con người là quan trọng vì vậy mà khóa luận
chủ yếu tập trung nghiên cứu về vấn đề phát triển kinh tế, giáo dục, y tế

tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

3


Không gian: nghiên cứu về tỉnh Vĩnh Phúc
Thời gian: thực trạng, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến HDI ở tỉnh
Vĩnh Phúc giai đoạn 2005-2015.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lí luận và thực tiên về phát triển con người, đánh giá thực
trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển con người (qua chỉ số HDI)
tỉnh Vĩnh Phúc từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao trình độ phát
triển con người ở tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm tới.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, đề tài tập trung vào những nhiệm vụ
sau đây:
Đánh giá đúng thực trạng phát triển chỉ số HDI và phân tích các nhân
tố ảnh hưởng đếm HDI ở tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2005-2015.
Bước đầu đưa ra những định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chỉ số
HDI trong những năm tới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận: Sử dụng phương pháp luận khoa học của Chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
* Phương pháp Khóa luận sử dụng các phương pháp như: phương pháp
chọn địa điểm, phương pháp thu thập số liệu, xử lí số liệu, phân tích.
6. Đóng góp của đề tài
Về mặt lí luận: đề tài góp phần làm sáng tỏ lí luận phát triển con người
(HDI) ở Việt Nam.

Về mặt thực tiễn: làm sáng tỏ thực trạng phát triển con người và các
nhân tố ảnh hưởng đến phát triển con người ở tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận gồm có 3 chương.

4


Chương 1
VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VÀ CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI HDI
1.1. Vấn đề phát triển con người
1.1.1. Một số nội dung liên quan đến khái niệm phát triển con người
HDI- chỉ số phát triển con người (Human Development Index) là chỉ số
so sánh định lượng về mức thu nhập, tỉ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố
khác của các quốc gia trên thế giới. HDI góp phần tạo ra một cái nhìn tổng
quan về sự phát triển của một quốc gia hay một địa phương.
1.1.1.1. Triết lí Phát triển con người từ cách tiếp cận năng lực của chính
con người
Cách tiếp cận năng lực được biết đến rộng rãi từ năm 1990 với tác giả
tiêu biểu là Amatya Sen. Khởi nguồn, đây là một lý thuyết được hình thành
trong những năm 1980 từ cách tiếp cận kinh tế học phúc lợi. Cách tiếp cận
năng lực hiểu một cách đơn giản nhất là việc tập trung vào những gì mà mỗi
cá nhân có thể làm được. Phát triển con người không phải là một khái niệm
thực sự mới, từ Aristotle, Kant và một số nhà kinh tế chính trị học như Adam
Smith, Robert Malthus, Karl Marx, … đã đề cập tới ít nhiều các khía cạnh về
phát triển con gười (xem thêm UNDP (1990), Mahbul-ul-Haq (1996). Tuy
nhiên, trong bối cảnh vào những năm 1980 với sự phát triển không đều trong
sự tiến bộ của phát triển con người, sự khủng hoảng kinh tế và sự điều chỉnh
sau đó, cách tiếp cận này lại được đặt ra.

Tiếp cận năng lực được đưa ra đầu tiên vào năm 1979 bởi A. Sen trong
một bài giảng có tên “Bình đẳng của cái gì” (Equality of What?) và được in
lại trong công trình nghiên cứu của ông năm 1982. A.Sen cho rằng sự thịnh
vượng của con người nên được đánh giá theo sự vận hành chức năng của con
người (human functioning)1, đó là những gì con người làm được và được

5


làm. Hơn nữa, tiếp cận khả năng đưa ra một quan điểm đa diện về sự thịnh
vượng của con người, vì nó tập trung vào các sự vận hành chức năng khác
nhau của con người. Ông cho rằng, sự bình đẳng nên được đánh giá không chỉ
trong việc đạt được sự vận hành chức năng mà còn là tiềm năng,khả năng
(potential) đạt được điều đó. Điều đó có nghĩa rằng bình đẳng phải được đánh
giá trong khoảng sự vận hành chức năng có tính tiềm năng (potential
functionings), cái mà Sen và Nussbaum (1993) gọi là năng lực (Capabilities).
Như vậy, năng lực ở đây được hiểu là những gì mà một người có thể làm
(beings and doings).
Trong cách tiếp cận này, phát triển con người được xác định không chỉ
bao gồm việc tăng thu nhập bình quân, tăng tiêu dùng hay nâng cao sức khỏe,
học vấn mà nó còn là mở rộng năng lực của con người. Từ cách tiếp cận năng
lực, Sen đã xây dựng nên cách tiếp cận phát triển con người. Phát triển con
người được coi là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn và năng lực cho con
người. Sự lựa chọn của con người chỉ xảy ra khi có sự xuất hiện cơ hội lựa
chọn và con người có năng lực lựa chọn. Sự xuất hiện cơ hội lựa chọn phụ
thuộc vào môi trường, thể chế xã hội tạo điều kiện cho sự xuất hiện cơ hội lựa
chọn, đồng thời phụ thuộc vào năng lực của chủ thể con người. Con người
càng có năng lực thì càng có cơ hội lựa chọn hơn. Bởi vậy, phát triển con
người, theo Sen, đó chính là sự phát triển năng lực cho con người.
Hiểu một cách đơn giản, tiếp cận năng lực của Amartya Sen là khung

đánh giá sự thịnh vượng (welfare) của con người và đưa ra nền tảng lí thuyết
căn bản cho sự bất bình đẳng, nghèo đói và phân tích chính sách. Cách tiếp
cận này đánh giá sự thịnh vượng của con người về mặt vận hành chức năng
(functioning) và năng lực (capabilities) (Wieble Kuklys 2005: 9).
1.1.1.2. Bốn chiều cạnh của phát triển con người
Theo Mahbul-ul-Haq (1934-1998), người chịu trách nhiệm soạn thảo báo
cáo phát triển con người đầu tiên của UNDP, phát triển con người có bốn

6


chiều cạnh cơ bản: công bằng, bền vững, hiệu quả và trao quyền. Mỗi chiều
cạnh này nên được nhìn theo quan điểm phát triển con người và phân biệt với
cách tiếp cận của các mô hình tăng trưởng kinh tế cũ.
Công bằng (equity): Nếu phát triển là mở rộng các lựa chọn của con
người, thì con người phải được hưởng một cách công bằng những cơ hội đó.
Nếu phát triển thiếu đi sự công bằng thì nó hạn chế sự lựa chọn của rất nhiều
cá nhân trong xã hội. Công bằng ở đây nên được hiểu là công bằng trong cơ
hội chứ không nhất thiết phải công bằng trong kết quả đạt được. Điều đó có
nghĩa rằng, công bằng trong cơ hội có thể không phải lúc nào cũng dẫn tới
những sự lựa chọn hay kết quả giống nhau. Công bằng trong tiếp cận cơ hội
đòi hỏi sự tái cấu trúc căn bản quyền lực trong các xã hội như phân phối tư
liệu sản xuất; phân phối thu nhập... công bằng, vì thế có thể được xem như là
một khái niệm về quyền lực và là trọng tâm của mô hình phát triển con người.
Bền vững (Sustainability): Chiều cạnh này có thể được hiểu là các thế hệ
tiếp sau có cơ hội được hưởng sự thịnh vượng mà thế hệ hiện tại đang hưởng.
Khái niệm này rộng hơn nhiều so với khái niệm bền vững về tài nguyên thiên
nhiên đã có trước đấy. Khái niệm bền vững ở đây được hiểu như là bền vững
về cơ hội của con người, trong tất cả các dạng của vốn như: con người, tài
chính, môi trường. Cái chúng ta cần bảo tồn để hướng tới sự bền vững theo

khía cạnh phát triển con người không phải là bảo tồn các tài nguyên thiên
nhiên, môi trường, mà chính là khả năng để tạo ra sự thịnh vượng cho con
người như nhau. Chúng ta không cần phải giữ thế giới tự nhiên ở nguyên
trạng của nó. Vì thế, khái niệm bền vững ở đây là một khái niệm có tính năng
động để phù hợp với một thế giới đầy biến động chứ không phải là một bức
tranh tĩnh. Tóm lại, vấn đề quan trọng của khái niệm bền vững trong phát
triển con người là mọi người cần được tiếp cận bình đẳng với các cơ hội phát
triển, trong hiện tại và cả tương lai (Habul-ul-Haq 1995: 19).

7


Hiệu quả (Productivity): Một chiều cạnh quan trọng khác của khái niệm
phát triển con người chính là tính hiệu quả. Khái niệm này có nghĩa là sự đòi
hỏi đối với các đầu tư vào con người và một môi trường kinh tế vĩ mô để con
người hiện thực hóa tối đa tiềm năng của họ. Tăng trưởng kinh tế vì thế là
một thành phần quan trọng của các mô hình phát triển con người. Theo
Halbul-ul-Haq, phần lớn các tài liệu viết về phát triển thường tập trung vào
tính hiệu quả của những nỗ lực của con người. Có một vài mô hình phát triển
đã dựa trên vốn con người, nhưng chúng lại thường xem con người chỉ như là
phương tiện của sự phát triển. Tính hiệu quả ở đây cần được xem như là một
phần của phát triển con người, có vai trò ngang bằng với các chiều cạnh khác.
Trao quyền (Empowerment): Khái niệm hình này hướng tới việc tránh
hiểu phát triển con người như một khái niệm mang tính từ thiện, ban ơn. Sự
trao quyền tập trung vào khía cạnh phát triển bởi con người, sự tham gia của
con người vào các hoạt động và các quá trình kiến tạo nên cuộc sống của họ.
Khái niệm trao quyền ngụ ý hướng tới một nền dân chủ chính trị mà ở đó con
người có thể tác động vào những quyết định về cuộc sống của họ. Nó cũng
đòi hỏi sự tự do về kinh tế để con người không bị ràng buộc bởi những quy
định và điều chỉnh quá mức về kinh tế. Trao quyền nghĩa là tất cả các thành

viên của xã hội dân sự được tham gia trọn vẹn vào quá trình tạo lập và thực
hành các quyết định. Sự trao quyền của mọi người đòi hỏi được tiến hành trên
nhiều mặt: sự đầu tư vào giáo dục và sức khỏe, để từ đó con người có thể
giành được những cơ hội khác. Trao quyền là một chiều cạnh quan trọng để
phân biệt phát triển con người với các khái niệm phát triển khác. Chiều cạnh
này yêu cầu đầu tư vào con người như một bước mở đầu để con người có thể
tiếp cận một cách bình đẳng các cơ hội trên thị trường và nó bao gồm tất cả
các sự lựa chọn trên các mặt như chính trị, xã hội, văn hóa, chứ không chỉ
giới hạn trong sự lựa chọn về kinh tế.

8


1.1.1.3. Khái niệm Phát triển con người theo quan điểm của UNDP qua các
Báo cáo Phát triển con người
Cũng như các thuật ngữ, khái niệm khoa học khác, phát triển con người
không phải là khái niệm bất biến mà có sự điều chỉnh, thay đổi, hay mở rộng,
bắt nguồn từ thực tế đầy biến động cũng như là sự thay đổi trong tư duy của
con người. Cho tới nay, khái niệm phát triển con người theo quan điểm chính
thống của UNDP thay đổi qua hai giai đoạn chính:
Giai đoạn 1(1990 - 2010): Từ cuối những năm 1980, khái niệm phát
triển con người đã trở thành trung tâm của cuộc tranh luận về phát triển toàn
cầu. Nó được kết hợp chặt chẽ trong các chiến lược phát triển của các quốc
gia trên thế giới. Và từ năm 1990, phát triển con người trở thành trọng tâm
của chiến lược phát triển thế giới của Liên hợp quốc và sử dụng những ý
tưởng căn bản của tiếp cận năng lực trong các báo cáo phát triển con người
hàng năm nhằm đánh giá tình trạng phát triển của một quốc gia thông qua
việc phân tích tuổi thọ, giáo dục và GDP (Wieble Kuklys 2005: 9). Hầu hết
các nghiên cứu về phát triển con người mang tính chất học thuật không tập
trung một cách trực tiếp vào quan điểm về phát triển con người của UNDP mà

tiếp cận quan niệm này theo cách tiếp cận năng lực (capability approach).
Theo Sabina Alkire, cách tiếp cận này cung cấp nền tảng triết lí rõ ràng nhất
cho khái niệm phát triển con người. Trong khi cách tiếp cận năng lực cố gắng
kết nối từ triết lí đến thực tiễn của khái niệm phát triển co người thì UNDP
tập trung vào sự ứng dụng của khái niệm này trên thực tế (2010: 22).
Trong báo cáo phát triển con người đầu tiên, UNDP cho rằng: “sự mở
rộng sản lượng và tài sản chỉ là một phương tiện. Mục tiêu của phát triển phải
là sự thịnh vượng của con người” và “con người là tài sản thực sự của một
quốc gia. Mục tiêu cơ bản của phát triển là tạo ra môi trường hợp pháp mà ở
đó con người có thể hưởng thụ một cuộc sống dài lâu, mạnh khỏe và sáng
tạo” (UNDP 1990: 9).

9


Theo quan điểm của UNDP, việc mở rộng sự lựa chọn cho con người là
yếu tố trọng tâm. “phát triển con người là quá trình mở rộng sự lựa chọn của
con người. Những nhân tố chủ yếu của quá trình này chính là dẫn tới một
cuộc sống mạnh khỏe, trường thọ, được giáo dục và hưởng thụ một cuộc sống
đầy đủ. Những lựa chọn khác bao gồm tự do chính trị, bảo đảm nhân quyền
và có tự trọng, cái mà Adam Smith gọi là khả năng hòa hợp với người khác
mà không cảm thấy “xấu hổ khi xuất hiện trước đám đông” (UNDP 1990:
10). Khái niệm phát triển con người được điều chỉnh, bổ sung theo từng chủ
đề trong báo cáo phát triển con người qua mỗi năm.
Bảng 1: Định nghĩa ngắn gọn về PTCN
Nguồn: (Sabina Alkire 2010: 13).
1990

Quá trình mở rộng sự lựa chọn của con người.
Mục tiêu thực sự của phát triển là nhằm tăng sự lựa chọn cho con


1991

người.

1992

Một quá trình mở rộng sự lựa chọn của con người.

1993

Mở rộng sự lựa chọn cho con người.
Tạo ra một môi trường ở đó tất cả mọi người có thể phát triển năng

1994

lực.

1995

Một quá trình mở rộng các lựa chọn của con người.

1996

Một quá trình mở rộng các lựa chọn của con người.

1997

Quá trình mở rộng các lựa chọn của con người.


1998

Một quá trình mở rộng các lựa chọn của con người.

1999

Quá trình mở rộng các lựa chọn của con người.

2000

Một quá trình nâng cao khả năng của con người.

2001

Về việc mở rộng sự lựa chọn mà con người có để có thể sống theo

10


cuộc sống mà họ coi trọng.
Về con người, về việc mở rộng sự lựa chọn mà con người có để có
2002

thể sống theo cuộc sống mà họ coi trọng.
Nhằm nâng cao cuộc sống con người bằng việc mở rộng sự lựa chọn,

2003

tự do và phẩm giá.
Quá trình mở rộng sự lựa chọn cho con người để họ làm và là những


2004

gì họ thấy quý giá trong cuộc sống.
Về việc tạo lập năng lực con người - tập hợp những thứ mà con

2005

người có thể làm, và những gì họ có thể làm.
Về việc mở rộng sự lựa chọn và tự do thực sự của con người - năng
lực - cái làm cho con người có thể sống theo cuộc sống mà họ coi

2007/8 trọng.
Sự mở rộng tự do của con người để họ sống cuộc sống mà họ lựa
2009

chọn.

Có thể thấy, khái niệm phát triển con người khá ổn định từ năm 1990
cho tới năm 2009. Các báo cáo khác nhau nhấn mạnh đến những khía cạnh
khác nhau của phát triển con người, nhưng khái niệm cơ bản đã được đưa ra
có tính nền tảng từ năm 1990 (Sabina Alkire 2010: 12).
Thuật ngữ phát triển con người ở đây bao hàm cả quá trình mở rộng sự
lựa chọn lẫn mức độ sự thịnh vượng đạt được của con người. Đó cũng chính
là hai mặt của phát triển con người, một mặt phát triển con người là việc tạo
lập các khả năng (capabitities), chẳng hạn như các kĩ năng, hiểu biết, sức khỏe
được cải thiện; và mặt khác, phát triển con người là năng lực con người sử
dụng các khả năng đó vào công việc, giải trí, hay tích cực tham gia vào các
hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội. Nếu như tỉ lệ của phát triển con người


11


không cân bằng đúng mức giữa hai mặt này thì có thể dẫn tới việc thất bại của
con người (UNDP 1990: 10). Như vậy, mục tiêu cơ bản của phát triển là và có
thể mở rộng sự lựa chọn cho con người. Những sự lựa chọn này có thể là vô
hạn thay đổi qua thời gian và khó có thể đánh giá được vì những thành tựu này
qua các con số về thu nhập và tăng trưởng không lộ diện một cách rõ ràng và
ngay lập tức. Những sự lựa chọn này có thể là việc tiếp cận được tri thức một
cách dễ dàng, có chế độ dinh dưỡng và dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn, có
an ninh tốt, hài lòng với những giây phút giải trí, nghỉ ngơi, tự do về chính trị
và văn hóa, được tham gia vào các hoạt động cộng đồng, … Những mục tiêu
này của phát triển tạo ra một môi trường mà ở đó con người được hưởng thụ
một cuộc sống lâu dài, trường thọ, sáng tạo (Mahbuh-ul-Haq 1996: 13).
Theo Mahbul-ul-Haq, phát triển con người là mô hình phát triển toàn
diện nhất từ trước tới nay (1995). Nó bao gồm tất cả các vấn đề phát triển
như: tăng trưởng kinh tế, đầu tư xã hội, trao quyền cho con người, cung cấp
những nhu cầu cơ bản và mạng lưới xã hội, tự do văn hóa, chính trị và tất cả
các khía cạnh của đời sống con người và là sự phản ánh hiện thực bản thân
đời sống con người.
Giai đoạn 2 (từ năm 2010 đến nay): Trong bối cảnh thế giới có nhiều
biến động, năm 2010, UNDP đã soạn lại khái niệm về phát triển con người.
Theo quan điểm mới của UNDP, “phát triển con người là sự mở rộng tự do
của con người để sống cuộc sống trường thọ, khỏe mạnh và sáng tạo; nhằm
đạt được các mục tiêu khác mà họ cho là có giá trị; và để tham gia tích cực
vào việc kiến tạo một sự phát triển công bằng, bền vững trong một hành tinh
chung. Con người với tư cách cá nhân và cả trong các nhóm” (UNDP, 2010:
22). Như vậy theo quan niệm này, phát triển con người có các yếu tố:
Sự thịnh vượng (Well-being): mở rộng sự tự do thực sự của con người,
để con người có thể phát triển.


12


Trao quyền và tính chủ thể (Empowverment and agency): tạo khả năng
cho con người và nhóm người có thể hành động - để tạo ra những kết quả có
giá trị.
Công bằng (Justice): mở rộng sự công bằng, giữ vững các kết quả đạt
được qua thời gian và tôn trọng quyền con người cũng như các mục tiêu khác
của xã hội.
Quan điểm này nhấn mạnh tới việc lấy con người làm trung tâm và sự tự
do của con người. Phát triển con người được xem là phát triển vì con người,
bởi con người và cho con người. Phát triển con người trao quyền cho con
người, để họ là tác nhân có trách nhiệm và tự đổi mới trong quá trình phát
triển. Bởi vì theo quan điểm này, con người không phải là những đối tượng
thụ động mà là chủ thể năng động. Phát triên con người giúp con người có thể
tự giúp được chính họ. Phát triển con người tập trung vào những tự do thiết
yếu của con người ở mọi cấp độ: tạo khả năng cho con người làm chủ cuộc
sống trường thọ và khỏe mạnh, có kiến thức, để có thể hưởng thụ một cuộc
sống thích đáng và để tạo cuộc sống riêng theo cách của mỗi người (Sabina
Alkire 2010).
1.1.2. Các quan điểm về phát triển con người
1.1.2.1. Quan điểm của các quốc gia trên thế giới
Thuật ngữ “phát triển con người” chính thức được biết đến và được sử
dụng rộng rãi kể từ năm 1990 khi Báo cáo đầu tiên về phát triển con người ra
đời. Trong Báo cáo ghi rõ: Của cải đích thực của một quốc gia là con người
của quốc gia đó. Và mục đích của phát triển là để tạo ra một môi trường thuận
lợi cho phép con người được hưởng cuộc sống dài lâu, khỏe mạnh và sáng
tạo. Theo UNDP, khái niệm phát triển con người được hiểu là: quá trình mở
rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn cho con người. Điều đó

có nghĩa là khi con người có nhiều cơ hội lựa chọn thì điều kiện PTCN sẽ cao
hơn, khi con người có năng lực lựa chọn cao hơn đồng nghĩa với việc trình độ
phát triển con người cũng tăng lên.

13


Cũng trong năm 1990, UNDP đưa ra chỉ số phát triển con người (HDI)
để đo trình độ phát triển con người, thể hiện trên ba khía cạnh: thu nhập, tuổi
thọ và giáo dục. Đến nay, rất nhiều các chỉ số khác đã được bổ sung để làm rõ
hơn, cụ thể hơn, chính xác hơn trình độ phát triển con người. Tuy nhiên, về cơ
bản người ta vẫn sử dụng ba tiêu chí thu nhập, tuổi thọ và giáo dục để đánh
giá sự phát triển con người của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Những chỉ số khác
chỉ là bổ sung nhằm làm rõ những khía cạnh, những sắc thái khác nhau của ba
chỉ số cơ bản nêu trên
Phát triển con người là sự phát triển mang tính nhân văn. Đó là sự phát
triển vì con người, của con người và do con người. Quan điểm phát triển con
người nhằm mục tiêu mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân và tạo điều kiện
để họ thực hiện sự lựa chọn đó (có nghĩa là sự tự do). Những lựa chọn quan
trọng nhất là được sống lâu và khỏe mạnh, được học hành và có cuộc sống
ấm no.
Năm đặc trưng của quan điểm phát triển con người là:
Con người là trung tâm của sự phát triển.
Người dân vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của sự phát triển.
Việc nâng cao vị thế của ngưòi dân (bao hàm cả sự hưởng thụ và
cống hiến).
Chú trọng tạo lập sự bình đẳng cho mọi người dân về mọi mặt: tôn giáo,
dân tộc, giới tính, quốc tịch...
Tạo cơ hội lựa chọn tốt nhất cho người dân về: kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa, tư tưởng.

Lịch sử xã hội loài người đã trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhưng tất cả
đều hướng tới một mục đích chung đó là: “nâng cao giá trị của con người”.
Gắn với tùng giai đoạn, nền kinh tế thế giới trải qua các mô hình phát triển.
Dưới đây là các mô hình phát triển điển hình của nền kinh tế thế giới vào
những năm nửa cuối của thế kỉ XX:

14


Thời kì 1950- 1970: Khi thế giới chỉ mới thoát khỏi đống tro tàn đổ nát
của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Nhiều quốc gia bị tàn phá nặng nề,
kể cả một số quốc gia mà bây giờ trình độ phát triển đứng hạng cao nhất thế
giới. Do bị chiến tranh hủy hoại nhiều tài sản và của cải, người dân của nhiều
chủng tộc bị bần cùng, lâm vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu và đói nghèo.
Cho nên, chính sách ưu tiên của nhiều quốc gia thời kì sau chiến tranh này là
đáp ứng đủ các nhu cầu thiết yếu, cơ bản nhất của người dân. Do vậy, mô
hình phát triển của thời kì này là đáp ứng nhu cầu thiết yếu.
Mục tiêu là phát triển của nhiều Chính phủ là cung cấp nhiều hơn, đầy
đủ hơn những nhu cầu cơ bản về vật chất, kinh tế và các nhu cầu dịch vụ xã
hội cho dân chúng của nước mình. Do mô hình phát triển và mục tiêu chính
sách như vậy, nên hậu quả xã hội là nguồn vốn con người ít được cải thiện,
tức là vấn đề y tế, sức khỏe, giáo dục, đảm bảo về mặt xã hội cho con người
được thực hiện chậm chạp. Do đó, hậu qủa kinh tế đối với quá trình phát triển
là tăng trưởng chậm, có thể nói hầu như bằng không, không có tăng trưởng gì
đáng kể.
Thời kì 1970-1990: Nhiều quốc gia bắt đầu chú trọng tới việc tăng
trưởng. Hình tượng các con rồng, các con hổ trên thế giới đều xuất hiện ở thời
kì này. Không những chính sách của các quốc gia là tập trung vào tăng trưởng
kinh tế, mà các tập đoàn, các công ti cũng tập trung vào tăng trưởng. Vì vậy,
mô hình phát triến trên thế giới của thời kì này là tăng trưởng kinh tế.

Mục tiêu phát triển và chính sách phát triển của phần lớn các quốc gia là
bỏ trôi các nhu cầu cơ bản, coi nhu cầu thiết yếu của con người là thứ cấp đáp
ứng khát vọng tăng trưởng kinh tế. Họ cho rằng mọi nhu cầu sẽ được đáp ứng
khi có tăng trưởng cao. Trong giai đoạn này, việc so sánh trình độ phát triển
giữa các quốc gia thông qua so sánh tăng trưởng, so sánh tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân đầu người. Ban đầu thì sử dụng tỉ giá hối đoái trung bình

15


năm, sau tiến đến sử dụng sức mua tương đương (PPP - Purchasing Power
Parities) để tính chuyển phục vụ so sánh, vì nhiều chuyên gia cho rằng làm
như vậy sẽ chính xác hơn, khi sử dụng sức mua tương đương là đã loại bỏ sự
chênh lệch giá giữa các quốc gia hay vùng lãnh thổ với nhau. Ta vẫn hay gọi
nôm na là đưa về cùng một mặt bằng so sánh. Trong thời kì này, người ta đã
đánh đồng giữa phát triển và tăng trưởng kinh tế, người ta coi tăng trưởng
kinh tế chính là phát triển.
Chính vì vậy, các quốc gia đều tập trung toàn lực cho tăng trưởng kinh
tế, bỏ mặc những vấn đề nhu cầu thiết yếu của con người, nên hậu quả xã hội
làm tăng thêm sự bất bình đẳng xã hội, tăng thêm đói nghèo trong dân chúng,
sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo ngày càng lớn.
Thời từ từ 1990 đến nay: Người ta bừng tỉnh ra rằng, chỉ có tăng
trưởng kinh tế không thì không thể giải quyết được hết vấn đề, mà còn làm
trầm trọng thêm tình trạng đói nghèo và bất bình đẳng xã hội. Tăng trưởng
không hoàn trùng khớp với phát triển, mà chỉ là một mảng của phát triển, dù
quả thật đó là một mảng rất quan trọng. Do đó, người ta thay đổi hẳn quan
niệm về phát triển. Thừa nhận tầm quan trọng của phát triển là tăng trưởng
kinh tế (GDP), mà từ xưa tới nay người ta vẫn sử dụng tiêu chí GDP và tăng
GDP này đế phân biệt các nước phát triển và các nước đang phát triển, nhung
người ta còn nhấn mạnh khía cạnh xã hội của sự phát triển (đói nghèo, sức

khỏe, bất bình đẳng giới, bất bình đắng xã hội, cơ hội phát triển...). Khái niệm
phát triến được mở rộng từ thuần túy tăng trưởng ấy sang cả việc cải thiện các
khía cạnh xã hội của cuộc sống, người ta định nghĩa là phát triển con người
(Human Development).
Vì vậy mô hình phát triển của các quốc gia trong giai đoạn này là mô
hình phát triến con người. Mục tiêu chính sách của các quốc gia là làm thế
nào để mở rộng phạm vi lựa chọn của người dân, và nâng cao năng lực lựa
chọn cho người dân, để họ đạt tới chất lượng cuộc sống tốt hơn.

16


Kết quả về mặt xã hội: nâng cao nguồn vốn con người và giảm tỉ lệ
nghèo đói trong dân chúng. Nâng cao nguồn vốn con người thực chất là nâng
cao tuổi thọ, nâng cao sức khỏe, và đặc biệt là nâng cao trình độ dân trí để có
khả năng tiếp cận với mục tiêu lựa chọn.
Kết quả về mặt kinh tế: là tạo điều kiện để xã hội phát triển một cách
bền vũng, môi trường được bảo vệ và các nguồn tài nguyên thiên nhiên được
bảo toàn được cho các thế hệ mai sau.
Quan niệm mới về phát triển con người bao hàm nhiều khía cạnh:
Thứ nhất: Quan niệm này nhấn mạnh mục tiêu của phát triển là vì con
người, vì việc cải thiện chất lượng cuộc sống của con người một cách bền vững.
Thứ hai: Phát triển con người phải do chính con người thực hiện, có
nghĩa là mọi người dân đều có cơ hội mở rộng được tham gia tích cực và sáng
tạo vào quá trình phát triển. Đây cũng chính là khía cạnh của dân chủ. Chính
sách Nhà nước phải nhằm vào hướng tạo mọi điều kiện khuyến khích toàn
dân tham gia vào quá trình phát triển. Cơ chế thị trường có ưu điểm là thúc
đầy nền sản xuất có hiệu quả, mọi người đều có cơ hội làm ăn, song nhược
điểm cũng là sự cạnh tranh khốc liệt và sự tự do dễ dẫn đến hậu quả nghiêm
trọng về xã hội: thất nghiệp, bất bình đẳng, suy thoái môi trường..., nên phải

có sự quản lí Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn và có sự sáng tạo không ngừng.
Thứ ba: Quan niệm mới về phát triển con người dựa trên cách tiếp cận
toàn diện, cụ thể là đề cập đến sự mở rộng không gian lựa chọn bao trùm tất
cả khía cạnh của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế,
môi trường.... Trong mối liên hệ tác động qua lại chứ không chỉ giới hạn
trong phạm vi kinh tế. Cách tiếp cận toàn thể còn bao hàm nghĩa khác là tính
đến tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giai cấp, giới tính,
quốc tịch hay thế hệ con người. Quan niệm toàn thể còn có nghĩa: phát triển
là quá trình bền vững, được duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác, nghĩa là
không tổn hại đến môi trường.

17


Thứ tư: Ớ đây phân biệt dứt điểm khái niệm phát triển con người và phát
triển nguồn nhân lực (hay còn gọi là nguồn vốn con người), mặc dù con
người là động lực quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Kinh nghiệm của
các nước phát triển cho thấy chỉ tiêu cho con người không phải là tiêu dùng
đơn thuần, mà là một khoản đầu tư để hình thành một loại nguồn vốn quan
trọng có khả năng sinh sản ra nguồn vốn thu nhập trong tương lai - đó là
nguồn vốn con người thông qua việc tạo lập kĩ năng, kiến thức, kinh nghiệm,
năng lực sáng tạo. Đầu tư vào con người được thông qua các hoạt động giáo
dục, y tế, đảm bảo việc làm, cuộc sống... là cách đầu tư thiết thực nhất, hiệu
quả nhất đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của các quốc gia.
Cái khác biệt căn bản giữa phát triển con người và phát triển nguồn nhân lực
là ở chỗ phát triển con người thì con người là mục tiêu có quyền và có nhu
cầu được hưởng thụ, còn phát triển nguồn nhân lực thì con người được nhìn
nhận như một nguồn vốn cũng như các nguồn vốn khác, dù rằng quan trọng.
Từ những nhận thức ấy, trên góc độ thống kê, để phản ánh phát triển con
người phải có thước đo chuẩn về nâng cao năng lực lựa chọn và mở rộng phạm

vi lựa chọn của con người (thu nhập, tuổi thọ và trình độ tri thức cũng như các
khía cạnh liên quan khác). Thước đo chuẩn đó được Chương trình phát triển của
Liên họp quốc (UNDP) sử dụng chính là chỉ số phát triển con người.
1.1.2.2. Quan điểm của Việt Nam
Trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn khẳng
định: con người là trung tâm của phát triển, con người là mục tiêu và đồng
thời cũng là động lực của phát triển.
Bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định các mục tiêu phát triển tối cao mà
Việt Nam hướng tới là đảm bảo các quyền con người: quyền được sống trong

18


độc lập tự do, thoát khỏi ách áp bức nô lệ, quyền được đảm bảo các điều kiện
sống trong sự bình đẳng, quyền được mun cầu và quyền được hưởng hạnh
phúc.... Do vậy, quan điểm phát triển con người của Đảng và Nhà nước ta là
không mâu thuẫn với những điếm đã nêu trong quan niệm về phát triến con
người của UNDP và có thể khẳng định rằng tư tưởng phát triển con người đã
được nhân dân ta theo đuổi kể từ khi thành lập nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Đông Nam Á.
Xuất phát từ mục tiêu của cách mạng Việt nam do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, đường lối phát triển xây dựng là: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công băng, văn minh”. Nhà nước của dân, do dân và vì dân với phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã trở thành nền tảng của
dân chủ của của sinh hoạt trong đời sống hàng ngày trên tất cả các lĩnh vực.
Lựa chọn của dân tộc ta là sự lựa chọn tự nguyện, chính đáng lấy mục tiêu
độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội mới đem lại những điều đã nêu trong định nghĩa phát

triển con người.
Trong giai đoạn mới của lịch sử dân tộc, sự lựa chọn của nhân dân ta là
đổi mới, với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chỉ đạo toàn dân
thực hiện. Sự lựa chọn của nhân dân Việt Nam được thể hiện đầy đủ trong
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, trong vấn đề
phát triển sản xuất, trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong chính
sách hội nhập quốc tế, trong các chính sách xã hội như: xóa đói giảm nghèo,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, vì văn hóa là linh hồn của dân tộc, bản sắc
dân tộc là cái thiêng liêng duy nhất mà tự ngàn đời người dân Việt Nam rất
đỗi tự hào. Những thành tự trong công cuộc đổi mới hay những vấn đề trong
việc mở rộng khả năng lựa chọn cho người dân, nâng cao khả năng và năng
lực lựa chọn cho người dân đã thể hiện rất rõ trong những năm qua và được
thế giới công nhận, không ai có thể phủ nhận.

19


Trong tiến trình đổi mới căn bản toàn diện, sâu sắc đất nước, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã mở rộng mục tiêu hướng tới phát triển của con người, vì con
người và do con người, đó là:
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản lãnh đạo, cơ chế một đảng.
Tự do lựa chọn chế độ chính trị.
Giữ gìn văn hóa và bản sắc dân tộc.
Phát triển con người phải trên góc độ tổng thể, không phân biệt giai cấp,
tầng lớp dân cư, không phân biệt dân tộc, giàu nghèo, giới tính, tín ngưỡng,
tôn giáo...
Tinh thần làm chủ tập thể, dân chủ cơ sở (là sự tham gia của dân chúng
vào các quyết sách của đất nước).
Phát triển con người là sự nghiệp của đổi mới.

Để theo dõi và đánh giá việc thực hiện các chính sách của Đảng, Chính
phủ, việc tính toán chỉ số HDI ở nước ta đã trở thành vấn đề bức bách. Chỉ số
phát triển con người là công cụ hữu hiệu trong việc điều hành nền kinh tế
quốc dân nhằm mục tiêu phát triển vì con người và mang đậm tính nhân văn,
dựa vào chỉ số phát triển con người HDI, chính quyền các cấp, từ Trung ương
đến cơ sở có thế đề ra các chính sách thích hợp đảm bảo mục tiêu dân giàu
nước mạnh.
HDI đã trở thành một trong những chỉ tiêu quan trọng trong hệ thống chỉ
tiêu phát triển của nước ta, của hiệp hội các nước ASEAN, của khu vực và
trên toàn thế giới.
HDI đã đi vào chiến lược hành động và phát triển của đất nước ta, kể các
chiến lược tổng quan lẫn các chiến lược phát triển trong từng lĩnh vực.
Tư tưởng phát triển con người đã được thể hiện rõ trong các văn kiện
của Đảng và Nhà nước. Một trong những mục tiêu cụ thể của Chiến lược phát

20


×