Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác vận động nông dân của các đảng bộ xã ở tỉnh vĩnh phúc trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (837.6 KB, 120 trang )













LUẬN VĂN:


Những phương hướng, giải pháp chủ yếu
nhằm tăng cường công tác vận động nông
dân của các đảng bộ xã ở tỉnh Vĩnh Phúc
trong giai đoạn hiện nay











Mở đầu



1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta rất quan tâm đến công tác dân vận, coi
đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất, quyết định sự thành công của cách
mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Lực lượng của dân rất to, việc
dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng
thành công”. Đối với nước ta, với hơn 80% dân số là nông dân, một lực lượng xã hội
đông đảo, là chủ lực quân của cách mạng, việc lôi cuốn, tập hợp nông dân tham gia cách
mạng có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần quyết định đến thắng lợi của cách mạng nước
ta. Ngay từ những ngày đầu của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định “Muốn kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công ắt phải dựa
vào quần chúng nông dân”.
Nông dân Việt Nam vốn giàu lòng yêu nước và nhiệt tình cách mạng, luôn đi theo
Đảng, chịu đựng gian khổ, hy sinh, lao động cần cù sáng tạo, kiên quyết đấu tranh chống
áp bức, bóc lột của thực dân phong kiến, đế quốc để giành độc lập tự do, xây dựng cuộc
sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng quê hương đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp.
Trong kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc cũng như trong công cuộc xây dựng
đất nước, nông dân Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng cho sự nghiệp cách mạng
của dân tộc, Đảng luôn luôn đánh giá cao vị trí, vai trò và những đóng góp của giai cấp
nông dân. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành TW khoá X tiếp tục khẳng định:
Trước đây, hiện nay cũng như sau này Đảng ta luôn đặt nông nghiệp,
nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở, là lực
lượng để phát triển kinh tế xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh
quốc phòng, giữ vững, phát huy bản sắc văn hoá và bảo vệ môi trường sinh
thái [26].
Trong những năm vừa qua, nhất là trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc nói chung, các cấp uỷ đảng, chính quyền cơ sở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng đã
nhận thức rõ vị trí, vai trò của công tác vận động nông dân, luôn luôn chú trọng công tác



tuyên truyền, vận động, tập hợp nông dân, lôi cuốn nông dân tham gia các phong trào
cách mạng. Nhờ có sự quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng, Nhà nước, công tác vận
động nông dân ở Vĩnh Phúc đã có những chuyển biến mạnh mẽ và đạt được nhiều kết
quả quan trọng. Các cấp uỷ đảng đã có nhiều biện pháp vận động nhân dân, chăm lo lợi
ích cho nông dân, có nhiều chương trình, dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn, tạo sự
chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới, đời
sống nông dân không ngừng được cải thiện và nâng cao, nông dân luôn tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác vận động nông dân của các
Đảng bộ xã tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn qua còn tồn tại một số hạn chế và khuyết
điểm. Đời sống nông dân còn nhiều khó khăn. Giao thông của một số xã vùng trung du,
miền núi chưa phát triển; điều kiện sản xuất khó khăn, mặt bằng trình độ dân trí thấp hơn
các xã vùng đồng bằng. Các hoạt động văn hoá thể thao, thông tin tuyên truyền chậm
phát triển, việc tổ chức quán triệt học tập Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, đưa Nghị quyết
của Đảng vào cuộc sống hiệu quả chưa cao; lòng tin của nông dân đối với Đảng, chính
quyền có lúc giảm sút. Mối quan hệ giữa cán bộ, đảng viên với nhân dân thiếu bền chặt.
Có lúc, có nơi cấp uỷ, chính quyền chưa thật sự coi trọng công tác vận động nông dân.
Không ít cấp uỷ, chính quyền còn lúng túng về nội dung, hình thức và phương pháp vận
động nông dân. Những tồn tại hạn chế đó phần nào còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển kinh tế - xã hội ở cơ sở, đến phong trào nông dân và đời sống nông dân.
Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
nhiệm vụ vận động nông dân càng nặng nề. Tình hình kinh tế xã hội đang có những diễn
biến phức tạp; kinh tế thị trường đang có những tác động tiêu cực đến tâm trạng, lòng tin
của nhân dân; công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi
phải tập trung nhiều nguồn lực to lớn hơn nữa, phải huy động đông đảo các tầng lớp nhân
dân ở nông thôn tham gia. Vì vậy, Đảng bộ các xã phải tăng cường công tác vận động
nông dân hơn nữa, tạo ra nhiều phong trào nông dân rộng lớn để đẩy nhanh công cuộc
CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn, làm cơ sở để để đẩy nhanh CNH - HĐH trên các
lĩnh vực khác.



Trước thực tế ấy, việc phân tích đúng tình hình, luận giải những vấn đề thực tiễn bức
xúc đang đặt ra là rất cần thiết. Các Đảng bộ xã tỉnh Vĩnh Phúc cần có những giải pháp
khả thi nhằm góp phần tăng cường hơn nữa công tác vận động nông dân để thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, góp phần
thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế của tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ trước đến nay, vấn đề nông dân và công tác vận động nông dân đã có khá
nhiều công trình nghiên cứu. Tuỳ thuộc từng góc độ, phạm vi nghiên cứu mà các công
trình có cách tiếp cận và nội dung đề cập khác nhau. Đáng chú ý là một số công trình
nghiên cứu khoa học sau:
- “Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930 - 1995)” của
Hội Nông dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
- “Một số vấn đề về công tác vận động nông dân ở nước ta hiện nay” của Ban dân
vận Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
- “Đặc điểm và xu hướng biến đổi của giai cấp nông dân nước ta trong giai đoạn
hiện nay”. Luận án tiến sĩ Triết học của Bùi Thị Thanh Hương, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000.
- “Công tác vận động nông dân của Đảng trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước”, luận án tiến sĩ Lịch sử của tác giả Lê Kim Việt, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
- “Công tác vận động nông dân ở Đảng bộ tỉnh Cà Mau trong giai đoạn hiện
nay”. Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị của Đặng Trí Thủ, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006.
- “Nâng cao chất lượng công tác vận động nông dân của các Đảng bộ xã ở tỉnh
Thái Bình trong giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử của Phạm Đức Hoá,
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003.
- “Tổ chức và hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam trong giai đoạn mới” của Vũ
Ngọc Kì, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.



- “Công tác vận động nông dân trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước”, của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội,
1999.
- “Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kì đổi mới đất nước, vấn đề và
kinh nghiệm”, của Nguyễn Văn Sáu, Trần Xuân Sầm, Lê Doãn Tá đồng chủ biên, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- “Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong thời kì CNH - HĐH
đất nước”, bài đăng trên báo Nhân dân từ số 19203, ngày 17 tháng 3 năm 2008 đến số
19207 ngày 21 tháng 3 năm 2008. Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí,
các hội thảo khoa học có liên quan đến đề tài nông dân và công tác vận động nông dân.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập khá nhiều nội dung về vấn
đề nông dân và công tác vận động nông dân dưới các góc độ khác nhau. Nhiều bài viết
luận giải khá sâu sắc về vị trí, vai trò của nông dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng
của Đảng. Một số công trình, bài viết đề cập đến thực trạng nông thôn, nông nghiệp,
nông dân và công tác vận động nông dân, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp nhằm tăng
cường công tác vận động nông dân của các cấp uỷ đảng, chính quyền trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình, bài viết nào nghiên cứu một cách sâu sắc
về nông dân và công tác vận động nông dân của các đảng bộ xã tỉnh Vĩnh Phúc trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tế, luận văn đề xuất
những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác vận động nông dân
của các đảng bộ xã ở tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chủ yếu về công tác vận động nông dân.
- Phân tích đặc điểm, vai trò của nông dân ở tỉnh Vĩnh Phúc trong lịch sử cũng như
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Đánh giá thực trạng công tác vận động nông dân của các đảng bộ xã tỉnh Vĩnh
phúc, xác định rõ nguyên nhân, rút ra kinh nghiệm thực tiễn.



- Nêu lên phương hướng, mục tiêu và đề xuất những giải pháp chủ yếu tăng cường
công tác vận động nông dân của các đảng bộ xã tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác vận động nông dân của các đảng bộ
xã thuộc tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu: Các chủ trương Nghị quyết của các đảng bộ xã tỉnh Vĩnh Phúc
về công tác vận động nông dân từ 1997 đến nay và từ nay đến 2015.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết của Đảng bộ
tỉnh, Đảng bộ các huyện và các Đảng bộ xã tỉnh Vĩnh Phúc về công tác dân vận, về nông
dân và công tác vận động nông dân.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là tình hình nông thôn, nông dân và thực trạng công
tác vận động nông dân của các Đảng bộ xã tỉnh Vĩnh Phúc thời gian qua, đồng thời xuất
phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng bộ tỉnh, của Đảng bộ các huyện và Đảng bộ các xã
tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2010 - 2015.
- Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, đồng
thời sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, khảo sát thực tế và
kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần nâng cao nhận thức vị trí, vai trò của nông dân và công tác vận động
nông dân của các đảng bộ xã tỉnh Vĩnh Phúc.
- Làm rõ những căn cứ khoa học và thực tiễn của việc xác định phương hướng, mục
tiêu và giải pháp tăng cường công tác vận động nông dân của các đảng bộ xã tỉnh Vĩnh
Phúc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận
văn gồm 3 chương, 7 tiết.



Chương 1
Công tác vận động nông dân của các đảng bộ xã thuộc tỉnh Vĩnh Phúc - những vấn đề lý
luận và thực tiễn

1.1. Nông dân và các Đảng bộ xã thuộc tỉnh Vĩnh Phúc - đặc điểm, vị trí, vai trò
1.1.1. Khái quát đặc điểm địa lý, dân cư các xã thuộc tỉnh Vĩnh Phúc
1.1.1.1. Về đặc điểm địa lý tự nhiên
Vĩnh Phúc là một tỉnh đồng bằng có trung du và miền núi nằm bên tả ngạn Sông
Hồng, phía Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên; phía Nam giáp tỉnh Hà Tây (cũ); phía
Đông giáp với Hà Nội; phía Tây giáp với tỉnh Phú Thọ.
Vĩnh Phúc có diện tích tự nhiên 1231,77km
2
, dân số 1.014.488 người. Dân số sống ở
nông thôn trên 80%, toàn tỉnh có 30 dân tộc anh em cùng sinh sống, dân tộc kinh chiếm
đa số, dân tộc thiểu số chỉ chiếm 2,7%. Mật độ dân số trung bình 837 người/km
2
.
Do cấu trúc địa hình tự nhiên, tỉnh Vĩnh Phúc được chia thành 3 vùng rõ rệt. Phía
Bắc là vùng rừng núi với dãy Sáng Sơn và Tam Đảo, có đỉnh cao nhất là 1.590m so
với mặt biển, là gianh giới tự nhiên giữa Vĩnh Phúc với Tuyên Quang và Thái
Nguyên. Vùng rừng núi tuy diện tích không lớn nhưng có giá trị kinh tế cao với trên
620 loài cây, nhiều loài quý hiếm như: pơ mu, lát, nghiến, cùng nhiều loài cây thuốc
có giá trị mà nơi khác không có được. Về chim, thú có hàng trăm loài trong đó có loài
thuộc diện đặc biệt quý hiếm. Núi Tam Đảo còn là nơi nghỉ mát lý tưởng của du
khách trong và ngoài nước. Phía Nam là đồng bằng rộng lớn chạy dọc theo ven Sông
Hồng thuộc các huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên… Nơi đây đất đai màu mỡ,
được coi là vựa lúa của tỉnh, cung cấp lương thực cho nhân dân địa phương và còn là
sản phẩm hàng hoá đem lại một nguồn thu lớn cho nông dân. Xen kẽ giữa vùng núi và

đồng bằng là vùng trung du với hệ thống đồi gò liên tiếp thấp dần về phía Nam, đất
đai thích hợp với các loại cây công nghiệp, cây lấy sợi, phát triển đồi rừng, xây dựng
các trang trại chăn nuôi các loại, gia súc, gia cầm.
Do vị trí ở cửa ngõ phía Bắc Thủ đô Hà Nội, Vĩnh Phúc có hệ thống giao thông khá
hoàn chỉnh với các tuyến đường thuỷ, bộ và đường sắt chạy qua. Tuyến đường quốc lộ số


2 Hà Nội - Hà Giang chạy qua tỉnh trên 50 km, tuyến quốc lộ 2C Vĩnh Yên - Tuyên
Quang chạy qua tỉnh dài 30 km, quốc lộ 2B Vĩnh Yên - Tam Đảo dài 25km. Ngoài ra,
Vĩnh Phúc có đường nội tỉnh với tổng chiều dài 200km, rất thuận lợi cho việc đi lại thông
thương giữa các địa phương trong và ngoài tỉnh. Về đường sắt có đường liên vận Hà Nội
- Lào Cai - Vân Nam (Trung Quốc) chạy qua tỉnh dài 50 km. Về đường sông ngoài Sông
Hồng, Sông Lô, Vĩnh Phúc còn có Sông Phó Đáy, Sông Cà Lồ, Sông Phan, ngoài việc
cung cấp nước tưới, hệ thống sông trên còn có giá trị giao thông quan trọng giữa các địa
phương. Ngoài ra, thiên nhiên còn ưu đãi cho Vĩnh Phúc nhiều cảnh quan và danh thắng
như Tây Thiên, Tam Đảo, Đại Lải.
Vĩnh Phúc là vùng đất cổ sớm được người Việt đến định cư, sinh sống. Qua Di chỉ
Đồng Đậu (thị trấn Yên Lạc) đã khẳng định từ những năm trước công nguyên, người Việt
cổ đã sống tập trung ở Vĩnh Phúc. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nông dân Vĩnh Phúc
đã đổ bao công sức, mồ hôi và cả máu xương để khai phá rừng núi, đồi gò, đầm lầy thành
những ruộng nương để canh tác, nuôi sống con người. Quá trình lao động cần cù, sáng
tạo của nông dân Vĩnh Phúc đã góp phần làm nên Văn minh Sông Hồng rực rỡ.
Các xã thuộc huyện Lập Thạch, Sông Lô, Tam Dương, Tam Đảo, Bình Xuyên và thị
xã Phúc Yên hầu hết là địa hình không bằng phẳng, có nhiều đồi thấp xen kẽ với những
khu đồng chiêm trũng. Tiềm năng thế mạnh vùng này là phát triển cây lâm nghiệp, cây ăn
quả vùng đồi, chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản theo phương thức canh
tác một vụ lúa, một vụ cá. Một số xã như Bạch Lưu, Hải Lựu huyện Sông Lô, xã Minh
Quang huyện Bình Xuyên có núi đã thấp thuận lợi cho khai khoáng và mở mang làng
nghề truyền thống. Các xã vùng đồng bằng thuộc các huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình
Xuyên, thị xã Phúc Yên có địa hình bằng phẳng, có quốc lộ 2A chạy qua lại gần sân bay

quốc tế Nội Bài, rất thuận lợi cho việc tiếp nhận và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến,
phát triển các khu sản xuất hàng hoá tập trung, các loại rau màu cao cấp cung cấp nông
sản, thực phẩm tươi, sạch cho thủ đô Hà Nội và các vùng lân cận. Nơi đây còn là địa bàn
thuận lợi cho thu hút đầu tư nước ngoài phát triển các ngành công nghiệp tiên tiến, tạo
việc làm và giải quyết nguồn lao động dư thừa trong nông thôn, đồng thời là nơi có điều


kiện để phát triển chăn nuôi, thuỷ sản, gia súc, gia cầm tập trung theo quy mô trang trại,
phát triển kinh tế tổng hợp VAC.
Do vị trí địa lý thuận lợi với cơ chế thu hút đầu tư thông thoáng, những năm gần đây
công nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc phát triển mạnh đã hình thành các khu công nghiệp lớn
như: Khu công nghiệp Kim Hoa (thị xã Phúc Yên), KCN Khai Quang (thành phố Vĩnh
Yên), KCN Bá Thiện (Bình Xuyên). Tỉnh đang tiếp tục quy hoạch, mở mang nhiều khu
công nghiệp khác ở các huyện Tam Dương, Vĩnh Tường và thành phố Vĩnh Yên. Cùng
với sự phát triển của công nghiệp, các hoạt động dịch vụ du lịch cũng đang được mở
mang, xây dựng phát triển ở Tam Đảo, Đại Lải, Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên thu hút
ngày càng đông du khách trong và ngoài nước tới tham quan, các khu vui chơi giải trí,
nhà hàng khách sạn, sân ga… ở thành phố Vĩnh Yên, huyện Tam Dương, Tam Đảo và thị
xã Phúc Yên đang được đầu tư xây dựng.
- Khi hậu toàn vùng thuộc khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, với 4 mùa rõ rệt.
Lượng mưa trung bình từ 1500mm đến 1700mm/năm. Nhiệt độ trung bình khoảng 23,2
đến 25 độ C. Số ngày nắng trong năm khá cao. Nhìn chung đặc điểm khí hậu thuận lợi
cho sản xuất nông, lâm nghiệp. Tuy nhiên, vẫn bị ảnh hưởng của rét đậm vùng núi phía
bắc và ảnh hưởng của mưa lũ, lốc xoáy có thể gây ra thiệt hại đáng kể cho sản xuất nông
nghiệp.
1.1.1.2. Về đặc điểm dân cư
Qua tài liệu lịch sử, địa lý các huyện trong tỉnh Vĩnh Phúc cho thấy, con người đã
sinh sống ở đây nhiều năm, mật độ khá đông đúc. Phần lớn dân cư trong vùng sống bằng
nghề nông, đại đa số là người kinh, có một bộ phận là người Sán dìu, Cao lan, Tày ở
các huyện Lập Thạch, Tam Đảo, Bình Xuyên. Số người theo tôn giáo khá đông nhưng

nhiều nhất vẫn là phật giáo, số ít theo đạo thiên chúa giáo. Tất cả dân cư các xã vùng
đồng bằng và trung du đều sống quần tụ theo các làng, xóm, thôn. Mỗi làng là quần tụ
dân cư có kết cấu khá bền vững. Làng được hình thành cùng với sự biến đổi của lịch
sử, là nơi giàu truyền thống yêu nước, cách mạng, nông dân lao động cần cù chịu khó.
Để chống lại thiên nhiên khắc nghiệt, người nông dân Vĩnh Phúc phải tập trung
công sức để đắp đê ngăn lũ, xây dựng các công trình thuỷ lợi…… Qúa trình ấy sớm hình


thành sự đoàn kết, gắn bó trong cộng đồng làng xã, thương yêu, đùm bọc giúp đỡ nhau,
nhất là những lúc khó khăn. Chính văn hoá làng xã mang tính cộng đồng bền vững ấy
giúp nông dân Vĩnh Phúc tồn tại qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc.
Về đơn vị hành chính:
Toàn tỉnh Vĩnh Phúc có 9 đơn vị hành chính (gồm 7 huyện, 1 thành phố, 1 thị xã) với
137 xã phường, thị trấn. Trong đó có 37 xã miền núi và trung du, 96 xã đồng bằng và 4
xã đặc biệt khó khăn, cụ thể:
- Huyện Lập Thạch có 18 xã, 2 thị trấn
- Huyện Sông Lô có 16 xã, 1 thị trấn
- Huyện Tam Đảo có 8 xã, 1 thị trấn
- Huyện Tam Dương có 12 xã, 1 thị trấn
- Huyện Vĩnh Tường 27 xã, 2 t hị trấn
- Huyện Yên Lạc có 16 xã, 1 thị trấn
- Huyện Bình Xuyên có 10 xã, 3 thị trấn
- Thị xã Phúc Yên có 4 xã, 6 phường
- Thành phố Vĩnh Yên có 2 xã, 7 phường
Các xã tỉnh Vĩnh Phúc được chia thành các khu dân cư. Xã là đơn vị hành chính cuối
cùng trong hệ thống hành chính ở nước ta.
* Đặc điểm của nông dân Vĩnh Phúc:
- Cũng như nông dân Việt Nam, nông dân Vĩnh Phúc có tinh thần lao động cần cù,
chịu khó, năng động, sáng tạo, chủ yếu sống bằng nghề thuần nông. Kinh tế tự cung tự

cấp là chính và phụ thuộc rất lớn vào thiên nhiên. ở các xã vùng cao của Tam Dương,
Tam Đảo, Lập Thạch, Sông Lô và Bình Xuyên sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn do
phụ thuộc lớn vào thiên nhiên. Các xã thuộc vùng đồng bằng của các huyện Vĩnh Tường,
Yên Lạc và một số xã huyện Bình Xuyên thuộc vùng đất phù sa Sông Hồng, đất đai màu
mỡ thuận lợi cho cấy lúa và trồng rau màu các loại. Nông dân của thị trấn Thổ Tang
(Vĩnh Tường), thị trấn Minh Tân (Yên Lạc) trồng nhiều loại rau màu cao cấp, có giá trị
kinh tế cao như: hành, tỏi, ớt, khoai tây, súp lơ,… cung cấp cho Hà Nội và các tỉnh biên


giới phía bắc. Nông dân thị trấn Tam Đảo được thiên nhiên ưu đãi phát triển mạnh nghề
trồng su su, tạo thành thương hiệu rau su su nổi tiếng trong vùng. Với phương châm tăng
vòng quay của đất để đem lại hiệu quả kinh tế cao trên đơn vị diện tích, nông dân Vĩnh
Phúc gieo trồng hai vụ lúa, một vụ màu trong năm. Với tinh thần cần cù, sáng tạo, nông
dân Vĩnh Phúc có sáng kiến phương pháp trồng ngô, bầu trên đất lầy, thụt nhờ đó mà vừa
tăng vụ, vừa mở rộng diện tích trồng ngô đồng, nên Vĩnh Phúc luôn là tỉnh có diện tích
gieo trồng ngô đồng lớn nhất của miền bắc. Với cơ chế chính sách của tỉnh hỗ trợ giống
vật tư, phân bón, nông dân Vĩnh Phúc đã đưa nhiều giống lúa năng suất chất lượng cao
vào sản xuất đưa năng suất lúa bình quân đạt 55 tạ/ha. Các huyện quy hoạch vùng sản
xuất lúa chất lượng cao đem lại hiệu quả rõ rệt trên một đơn vị diện tích như huyện Vĩnh
Tường, Yên Lạc.
Cùng với sự phát triển của cây trồng, ngành chăn nuôi thuỷ sản ngày càng phát triển
mạnh, đã xuất hiện nhiều trang trại chăn nuôi lợn, gà thịt, gà đẻ trứng với quy mô lớn
hàng trăm lợn nái ngoại sinh sản/ trại, hàng ngàn lợn thịt/ trại, hàng ngàn gà giống bố mẹ,
gà thịt/hộ gia đình. Điều sáng tạo trong chăn nuôi là nông dân tự đóng máy ấp trứng gia
cầm, cung cấp con giống tại chỗ cho nông dân trong vùng và sử lý chất thải làm Bioga
tạo ra chất đốt và điện thắp sáng. Nhiều trang trại bò thịt, bò sữa ở vùng trung du phát
triển với quy mô ngày càng mở rộng. Các loại cây ăn quả ngày càng được cải tạo và nhân
giống như: xoài úc, xoài Thái Lan, bưởi Diễn, nhãn Trữ Lương (Trung Quốc). Nhiều
vùng trung du bà con trồng cây sưa là cây lấy gỗ có giá trị kinh tế cao thay cây nông
nghiệp. Thông qua việc dồn ghép ruộng đất, nhiều hộ nông dân tích tụ ruộng đất phát

triển thành khu kinh tế trang trại, khu kinh tế tổng hợp VAC.
Các làng nghề truyền thống như nghề rèn - Lý Nhân (Vĩnh Tường), nghề mộc ở
Thanh Lãng (Bình Xuyên), ở Minh Tân (Yên Lạc), nghề làm vại sành (Hương Canh)
ngày càng phát triển do tỉnh có cơ chế chính sách khuyến khích phát triển làng nghề tạo
nên việc làm cho người lao động.
Một số xã thuộc huyện Lập Thạch, Sông Lô, Tam Đảo trước đây nông dân trồng mây
làm bờ rào, mang tính chất tận thu không hạch toán kinh tế thì nay Hội Nông dân tỉnh đã
sáng tạo ra phương pháp trồng mây dưới tán cây lâm nghiệp, để vừa chống sói mòn giữ


độ ẩm cho đất và làm tươi xốp đất, đồng thời cung cấp nguyên liệu tại chỗ cho nghề mây
tre đan xuất khẩu ở xã Cao Phong, huyện Sông Lô. Từ những mô hình điểm của Hội
Nông dân đem lại hiệu quả kinh tế rõ nét cho đất trồng cây lâm nghiệp, nông dân vừa có
nguồn thu từ cây lâm nghiệp, vừa có nguồn thu từ việc trồng mây lại vừa giải quyết được
lao động có việc làm tại chỗ, tạo điều kiện cho nghề mây tre đan phát triển thành làng
nghề mới. Từ hiệu quả thực tế, Hội Nông dân tỉnh xây dựng dự án “Trồng mây dưới tán
cây lâm nghiệp” trình UBND tỉnh phê duyệt. Đảng bộ các xã có đất trồng cây lâm nghiệp
ở huyện Lập Thạch, Sông Lô đang vận động nông dân trồng mây dưới tán cây lâm nghiệp
để phát triển kinh tế đồi rừng, nhiều hộ gia đình nông dân cũng đã sáng tạo tự nhân giống
cây Mây theo phương pháp làm bầu để tự cung cấp cho gia đình và mọi người xung quanh,
góp phần giải quyết giống Mây tại chỗ không phải nhập từ tỉnh ngoài về.
ở những vùng trũng, bờ thùng, bờ đấu của các huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc nông dân
đấu thầu đất của xã khoanh vùng, đào đất, đắp bờ tạo thành những trang trại nuôi trồng
thuỷ sản rộng lớn kết hợp với chăn nuôi gia súc, trồng cây ăn quả, tạo thành mô hình kinh
tế tổng hợp có thu nhập cao. Nhiều hộ nông dân từ thu nhập trung bình lên khá, từ khá trở
thành hộ giàu có, nhiều trang trại giải quyết cho hàng chục lao động có thu nhập từ
800.000đ đến 1.000.000đ một tháng, tạo công ăn việc làm tại chỗ cho lao động dư thừa ở
nông thôn. Thông qua mô hình phát triển kinh tế trang trại đã xuất hiện tấm lòng “Tương
thân, tương ái”, “Lá lành đùm lá rách”. Nhiều hộ khá và giàu giúp hộ nghèo về vốn sản
xuất, về kỹ thuật và giống những lúc khó khăn để cùng nhau phát triển sản xuất, thông

qua đó nhiều Chi hội phát động học tập phong trào “Người có giúp người khó” để tăng
thêm tình đoàn kết gắn bó giữa các hội viên. Qua đó góp phần đẩy mạnh hoạt động của
các phong trào “Nông dân đoàn kết giúp nhau phát triển sản xuất xoá đói, giảm nghèo và
làm giàu chính đáng” làm cho các phong trào và hoạt động công tác Hội ngày càng phát
triển.
- Nông dân Vĩnh Phúc có truyền thống cách mạng, yêu nước nồng nàn, một lòng, một
dạ gắn bó với Đảng và luôn đi theo Đảng.


Là một bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam, trải qua hàng ngàn năm dựng nước và
giữ nước, nông dân Vĩnh Phúc sớm có truyền thống yêu nước, đấu tranh kiên cường chống
ngoại xâm và ách thống trị của đế quốc và phong kiến.
Từ buổi bình minh của lịch sử, thế kỷ ba trước công nguyên, nông dân Vĩnh Phúc đã
cùng An Dương Vương xây Thành Cổ Loa chống giặc ngoại xâm, chống quân xâm lược
Triệu Đà, quân xâm lược Nam Hán. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược dưới triều
Lý, nông dân Vĩnh Phúc tham gia nhiều công sức đắp luỹ, đào hào, xây dựng phòng
tuyến từ dãy núi Tam Đảo đến Nham Biển (Bắc Ninh) để quân và dân cả nước đánh tan
quân xâm lược Tống. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, Mông thế kỷ XIII,
nông dân Vĩnh Phúc cùng vua tôi nhà Trần làm nên chiến thắng Bình Lệ Nguyên (Tam
Canh - Bình Xuyên). Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thế kỷ XV của Lê Lợi chống quân Minh
xâm lược, hàng vạn con em Vĩnh Phúc do Trần Nguyên Hãn chỉ huy đã luyện tập võ
nghệ ở Rừng Thần (Xuân Lôi - Lập Thạch) để tham gia khởi nghĩa.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, khi phong trào Cần Vương bị dập tắt,
nông dân Vĩnh Phúc tích cực ủng hộ nghĩa quân Đề Thám lấy vùng núi Sáng Sơn - Lập
Thạch làm căn cứ kháng chiến. Năm 1917 - 1918 nhân dân Vĩnh Phúc tích cực giúp đỡ
Đội Cấn ở Vũ Di, Vĩnh Tường kháng chiến chống thực dân Pháp. Năm sau 1927, một số
tổ chức yêu nước theo khuynh hướng quốc gia tư sản được thành lập tại Hà Nội lấy tên là
Quốc Dân Đảng, Nguyễn Thái Học cùng nhiều thanh niên yêu nước người Vĩnh Phúc đã
tham gia tổ chức này.
Từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, truyền thống yêu nước, tinh thần cách

mạng và bản chất giai cấp tốt đẹp của nông dân Vĩnh Phúc ngày càng được phát huy.
Nông dân quyết tâm một lòng theo Đảng, tin tưởng vững chắc vào con đường cách mạng
mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn.
Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, từ cuối năm 1944, phong trào đấu tranh của
nông dân Vĩnh Phúc phát triển rất mạnh mẽ. Các cuộc đấu tranh chống thuế, chống thu
thóc, chống phá lúa trồng đay, chống bắt lính, phá kho thóc của phát xít Nhật liên tiếp nổ
ra ở nhiều địa phương, thu hút đông đảo lực lượng nông dân tham gia. Nông dân Vĩnh


Phúc đã có nhiều công lao trong việc tích cực bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ khu an
toàn ATK, cùng nông dân cả nước làm nên thắng lợi Cách mạng tháng 8 - 1945.
Trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp, nông dân Vĩnh Phúc tích cực
hưởng ứng các phong trào thi đua ủng hộ kháng chiến mà Đảng và Bác Hồ phát động
như: “Hũ gạo kháng chiến”, “ủng hộ quỹ kháng chiến”, mua “Công phiếu kháng chiến
của Chính phủ”,… Ngoài việc sản xuất và phục vụ chiến đấu tại địa phương, nông dân
Vĩnh Phúc đã huy động hàng vạn dân công cùng nhiều phương tiện vận chuyển lương
thực, đạn dược, vũ khí, thuốc men,… và sửa chữa cầu đường cho bộ đội tiến vào Chiến
dịch Điện Biên Phủ, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, trong đó nông dân là lực lượng nòng cốt, chủ yếu góp phần to lớn vào kháng
chiến thắng lợi.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nông dân Vĩnh Phúc cùng nông dân cả nước
ra sức sản xuất, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, quyết tâm thi đua vì miền Nam ruột
thịt, các phong trào thi đua chống Mỹ, cứu nước như “Mỗi người làm việc bằng hai vì
miền Nam ruột thịt” thu hút đông đảo bà con nông dân, xã viên các hợp tác xã tham gia,
phong trào đã xuất hiện nhiều cá nhân và tập thể tiên tiến, điển hình như: xã Bá Hiến,
huyện Bình Xuyên; xã Văn Quán, huyện Lập Thạch; các phong trào nông dân làm thuỷ
lợi, làm phân xanh phát triển khắp mọi nơi trong tỉnh. Đồng thời nông dân thực hiện tốt
công tác “Khoán hộ” và việc dựa vào sản xuất, góp phần làm cho tốc độ tăng trưởng
nông nghiệp bình quân là 7,9% vào năm 1968. Hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của Đảng và Bác Hồ, các phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ

ba đảm đang” và phong trào “Tay cày, tay súng” của nông dân Vĩnh Phúc đã diễn ra sôi
nổi, rộng khắp ở cả nông thôn đồng bằng và miền núi, nông dân tích cực chuẩn bị mọi
mặt đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, đồng thời sẵn sàng phục vụ và tham gia
chiến đấu, tham gia xây dựng các trận địa tên lửa phòng không, nhân dân khắp mọi nơi
tham gia tiếp tế lương thực, thực phẩm cho bộ đội, phong trào “Tiếng hát át tiếng bom”
phát triển khá sôi nổi trong nông dân. Mặc dù nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu ở địa
phương đòi hỏi công sức của nhân dân rất lớn, nhưng với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến
tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, nhiều con em Vĩnh Phúc lên đường tòng quân


giệt Mỹ, phong trào “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, các phong
trào “Mở hội tòng quân”, “Trao gậy Trường Sơn” đã diễn ra ở tất cả các địa phương, các
vùng nông thôn trong tỉnh. Những đóng góp của quân và dân Vĩnh Phúc, trong đó nông
dân là lực lượng chủ yếu đã góp phần tô thắm thêm truyền thống cách mạng của nhân
dân Vĩnh Phúc, đồng thời cùng quân và dân cả nước giải phóng hoàn toàn miền Nam
thống nhất đất nước.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong sự nghiệp đổi mới do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nông dân Vĩnh Phúc luôn luôn nêu cao ý thức tự lực, tự
cường, đoàn kết phấn đấu thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, tiếp tục đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XIV, quyết tâm phấn đấu xây dựng tỉnh Vĩnh Phúc trở thành một trong những tỉnh giàu
có, phồn vinh nhất ở miền Bắc như lời của Bác Hồ khi về thăm Vĩnh Phúc năm 1963.
Gần 80 năm trôi qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nông dân Vĩnh
Phúc hăng hái đi theo tiếng gọi của Đảng, góp phần cùng nông dân cả nước viết lên trang
sử vàng của đất nước và quê hương trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng
như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Qua các phong trào
cách mạng đã khẳng định vai trò to lớn của nông dân Vĩnh Phúc, một lực lượng đông
đảo, cơ bản trong cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Nông dân Vĩnh Phúc có tinh thần cộng đồng cao, đoàn kết, sống trọng nghĩa, trọng

tình.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa, điều kiện thời tiết khắc nghiệt, để chống
lại thiên nhiên khắc nghiệt đó, nông dân Vĩnh Phúc phải tập trung công sức để đắp những
con đê ngăn lũ, đắp đập xây hồ, xây dựng các công trình thuỷ lợi… Quá trình ấy đã sớm
hình thành truyền thống đoàn kết, gắn bó trong cộng đồng làng xã, tạo ra tình thương
yêu, đùm bọc, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau nhất là những lúc khó khăn.
Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, nông dân Vĩnh Phúc đã
không quản ngại khó khăn, vất vả sẵn sàng giúp đỡ đồng bào ở vùng có chiến sự đến tản
cư. Với truyền thống tương thân, tương ái, nông dân ở nhiều địa phương có đồng bào đến


tản cư đã đón tiếp chu đáo, hỏi thăm, động viên, nhường nhà cửa, giường phản và các
phương tiện sinh hoạt, có nơi còn san sẻ lương thực, ruộng vườn cho đồng bào. Tiêu biểu
cho phong trào này là nông dân vùng tự do huyện Lập Thạch, ngoài việc đón tiếp, tạo
điều kiện cho các cơ quan trung ương, các huyện vùng tạm chiếm trong tỉnh tản cư. Nhân
dân Lập Thạch còn xây dựng 9 trại tản cư với trên 200 gian nhà và san sẻ 800 mẫu ruộng
giúp đỡ đồng bào tản cư sinh sống. Tiêu biểu là các xã Quang Yên, Lãng Công, Hợp Lý,
Bắc Bình. Các xã dọc núi Tam Đảo thuộc huyện Tam Dương như Hồ Sơn, Tam Quan,
Đại Đình,… cũng xây dựng được nhiều trại tản cư. Đây là biểu hiện về truyền thống đoàn
kết của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng
mỗi khi đất nước bị xâm lược.
Do đặc điểm địa lý và mật độ dân số đông, nông dân Vĩnh Phúc từ ngàn xưa đã sống
quần tụ theo kết cấu làng xã bền chặt. Do vậy, tính cộng đồng làng xã, tư tưởng khép kín
và cố kết làng xã khá cao. Trong làng xã có quan hệ họ hàng, anh em thân thuộc, tình
cảm gia đình và dòng họ đan xen. Điều kiện sống và tình cảm xóm làng đã tạo nên tình
cảm “Tối lửa tắt đèn có nhau”, xuất hiện tình tương thân tương ái “Lá lành đùm lá rách”
đã trở thành truyền thống đạo lý tốt đẹp trong cuộc sống cộng đồng dân cư.
Trong lối sống, cách sống họ luôn lấy tình cảm đạo đức làm chuẩn mực để đánh giá
hành vi con người. Chính tình cảm xóm làng, gia đình, dòng họ tạo nên mối quan hệ bền
chặt, tính cộng đồng cao, sống có tình có lý của nông dân các làng xã là yếu tố tạo nên

sức mạnh của cộng đồng dân cư giúp họ khắc phục vượt qua khó khăn thử thách trong
cuộc sống, giúp họ vững bước đi lên. Đây là đặc điểm tốt cần phát huy trong công tác vận
động nông dân thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Tuy
nhiên, tính cộng đồng làng xã cũng tạo cho nông dân tư duy bảo thủ, coi “Phép vua thua
lệ làng”, sống nặng tình cảm, tuỳ tiện, tư tưởng cục bộ bình quân, đố kỵ lẫn nhau không
muốn cho ai phát triển hơn mình.
Ngày nay, trong thời kỳ đổi mới và hội nhập dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã
thu được nhiều thành tựu về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, làm cho bộ mặt nông
thôn có nhiều đổi mới, đời sống nông dân không ngừng cải thiện và nâng cao, phần nào
đã hạn chế được mặt tiêu cực của tính cộng đồng. Nhưng dấu ấn của nó vẫn tồn tại trong


đời sống nông dân ở các thôn xã hiện nay, phần nào gây hạn chế trong hiệu quả điều
hành, lãnh đạo, quản lý ở các xã trong việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của tỉnh về
phát triển kinh tế xã hội ở mỗi cơ sở.
- Nông dân các xã tỉnh Vĩnh Phúc còn bị ảnh hưởng của tư tưởng thời kỳ phong kiến
và thời kỳ bao cấp.
Do chế độ thực dân phong kiến cai trị lâu dài, nông dân các xã tỉnh Vĩnh Phúc còn
tồn tại một số phong tục tập quán, thói quen, hành động, tư duy, suy nghĩ lạc hậu, chậm
đổi mới gây trở ngại trong cuộc sống CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn và xây dựng
nông thôn mới văn minh, hiện đại. Một bộ phận nông dân cố tình không chấp hành chủ
trương của tỉnh về phát triển công nghiệp, cương quyết không giao đất để giải phóng mặt
bằng, đưa ra các ưu sách đòi giá đền bù cao, đòi đất dịch vụ đẹp,… Họ không có tinh
thần cộng đồng làng xã mà suy nghĩ cá nhân đòi lợi bản thân mình mà không vì lợi ích
tập thể. Trong quá trình thực hiện quyền làm chủ, một bộ phận nông dân không dám bày
tỏ chứng kiến, nguyện vọng của mình, không nhận thức đầy đủ nghĩa vụ, quyền lợi và
trách nhiệm của người công dân mà chỉ biết nhìn nhận, đòi hỏi lợi ích cho bản thân mình,
trong cuộc sống và hoạt động xã hội họ thường cam chịu và làm tròn bổn phận.
Trong dòng tộc, họ hàng, gia đình, tư tưởng phong kiến vẫn còn ảnh hưởng, mọi vấn đề
hệ trọng trong dòng họ đều do Trưởng họ, người cao tuổi quyết định. Trong gia đình, ông bà,

bố mẹ thường là chủ gia đình, nắm quyền quyết định mọi công việc của gia đình, kể cả các
công việc với xã hội và cộng đồng dân cư. Điều này có ưu điểm là những vấn đề cần thiết
trong gia đình được quyết định nhanh chóng và tập trung, nhưng trong điều kiện hội nhập
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì lại có hạn chế, đó là không phát
huy được tư duy, sáng tạo dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đồng thời hạn chế bộc
lộ tài năng sáng tạo của thế hệ trẻ trong thay đổi cách làm ăn mới.
Cũng chính vì mấy chục năm sống trong thời kỳ bao cấp đã hình thành ở người nông
dân Vĩnh Phúc tư tưởng trông chờ, ỉ lại vào sự bao cấp của nhà nước, của tập thể, chưa
huy động hết nguồn lực, tiềm năng của xã hội cho sự phát triển chung của tỉnh, của đất
nước, nhất là chủ trương xã hội hoá các hoạt động văn hoá xã hội. Đặc điểm của nông
dân Vĩnh Phúc là khả năng tư duy, sáng tạo và nhận thức xã hội không đồng đều giữa các


vùng. ở các huyện đồng bằng ven dải Sông Hồng như huyện: Vĩnh Tường, Yên Lạc,
Bình Xuyên và thành phố Vĩnh Yên, nông dân có nhận thức nhanh nhạy hơn về kinh tế
thị trường nên tốc độ giao lưu trao đổi hàng hoá, buôn bán và dịch vụ phát triển hơn các
vùng khác, nhiều nơi trở thành thị trấn buôn bán sầm uất trong vùng như: Thổ Tang,
huyện Vĩnh Tường; thị trấn Minh Tân, huyện Yên Lạc; thị trấn Hương Canh, huyện Bình
Xuyên và trung tâm thành phố Vĩnh Yên và thị xã Phúc Yên.
Các huyện còn lại như huyện Sông Lô, Lập Thạch, Tam Dương và thị trấn Tam Đảo
do đường giao thông không thuận lợi, địa hình không bằng phẳng, khó khăn nên chuyển
đổi cơ cấu kinh tế còn chậm, sản xuất hàng hoá chưa phát triển, nông dân chưa mạnh dạn
đầu tư vào sản xuất lớn, dịch vụ trao đổi hàng hoá có giới hạn nên thu nhập thấp hơn các
vùng khác, tốc độ phát triển kinh tế tăng chậm. ở những nơi vùng sâu, vùng xa, nhất là
vùng đồng bào dân tộc, phong tục tập quán còn lạc hậu, công tác khuyến nông và vận động
nông dân ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất chưa nhiều, công tác thông tin, tuyên
truyền, vận động nông dân thực hiện chủ trương chính sách của nhà nước về chuyển đổi cơ
cấu kinh tế nông nghiệp hiệu quả chưa cao, nhiều nơi đồng bào dân tộc chưa thực hiện
nghiêm Pháp lệnh Dân số Kế hoạch hoá gia đình.
Như vậy, vấn đề đặt ra đối với cấp uỷ đảng, chính quyền trong công tác vận động

nông dân ở đảng bộ các xã, tỉnh Vĩnh Phúc là đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương
chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Vận động nông dân thực hiện nghiêm chỉnh
pháp luật của Nhà nước. Chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kỹ thuật nông nghiệp theo hướng
sản xuất hàng hoá, mở rộng thị trường tiêu thụ, phát triển công nghệ chế biến và bảo quản
sau thu hoạch. Tích cực hỗ trợ sản xuất phát triển, khuyến khích phát triển học tập và
nhân rộng các điển hình tiên tiến. Vận động nông dân cải tạo các thủ tục phong kiến, tập
quán, tư duy lạc hậu không phù hợp với nếp sống mới, gây cản trở quá trình sản xuất và
phát triển xã hội. Đẩy mạnh thực hiện quá trình dân chủ hoá, xây dựng nông thôn mới
văn minh hiện đại ở các địa phương.
1.1.1.3. Vai trò của nông dân Vĩnh Phúc
C.Mác và F.Ăng ghen trong quá trình sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học luôn
luôn đánh giá cao vai trò to lớn, vị trí quan trọng của nông dân trong tiến trình lịch sử xã


hội, đã nhận thấy ở nhiều quốc gia, nông dân vẫn là “Nhân tố rất cơ bản của dân cư, của
nền sản xuất và của lực lượng chính trị”. Phân tích cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp,
C.Mác đã chỉ rõ, trong cuộc đấu tranh chống lại mọi sự cường quyền, áp bức và nô lệ, sự
nổi dậy của giai cấp nông dân chống bạo lực tư bản là một điều kiện không thể thiếu để
cách mạng có thể thắng lợi.
Nhận thức rõ vai trò của giai cấp nông dân nhất là ở các nước thuộc địa và nửa thuộc
địa, V.I.Lênin cho rằng vấn đề giải phóng dân tộc thực chất là giải phóng giai cấp nông
dân. Sự liên minh của giai cấp nông dân với giai cấp công nhân là điều kiện có tính bắt
buộc và quyết định cho sự thành công của cách mạng vô sản. Giai cấp công nhân sẽ
không hoàn thành nhiệm vụ của mình “Nếu không đoàn kết giai cấp lao động ở nông
thôn chung quanh Đảng cộng sản và giai cấp vô sản thành thị, nếu Đảng cộng sản của
giai cấp vô sản không giáo dục giai cấp lao động ở nông thôn” [52, tr.208].
Kế thừa và phát triển những tư tưởng, quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc và đánh giá đúng đắn vị trí, vai trò của
nông dân trong tiến trình cách mạng của dân tộc. Đảng ta coi giai cấp nông dân là lực
lượng rất quan trọng trong khối liên minh công nhân, nông dân, trí thức. Cùng với giai

cấp công nhân, đội ngũ trí thức, giai cấp nông dân là chủ lực quân trong cách mạng giải
phóng dân tộc, trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Trải qua gần 80 năm cách mạng ở nước ta đã khẳng định và chứng minh
điều đó.
Cũng như giai cấp nông dân Việt Nam nói chung, nông dân các xã tỉnh Vĩnh Phúc
đóng vai trò rất to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới dự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam,
nông dân Vĩnh Phúc giữ vai trò hết sức to lớn. Họ là đội quân chủ lực của cách mạng, lực
lượng xung kích đi đầu trong đấu tranh chống đế quốc, phong kiến, giành chính quyền và
là lực lượng quan trọng góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng
ngay từ cơ sở. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, hàng vạn con em Vĩnh
Phúc đã tham gia vào bộ đội, dân quân du kích, tham gia dân công tiếp việc cho chiến
trường Điện Biên Phủ, những đoàn xe thồ, những đoàn dân công gùi gánh đêm ngày


những phong trào “Hiến của cải cho kháng chiến”, “Hũ gạo tiết kiệm” của nông dân
Vĩnh Phúc đã góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ oai hùng, đây mãi
mãi là niềm tự hào của nông dân Vĩnh Phúc.
Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ hàng chục vạn con em Vĩnh Phúc đã trực
tiếp tham gia chiến đấu trên các chiến trường, nhiều người đã anh dũng hy sinh, nhiều
tấm gương diệt Mỹ xuất sắc đã được nhà nước tặng thưởng danh hiệu cao quý “Anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân” như anh hùng liệt sỹ Nguyễn Viết Xuân. ở hậu phương
những phong trào “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Phong trào
mỗi người làm việc bằng hai”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt” đã trở thành truyền thống
thi đua của cơ sở, góp phần làm nên thắng lợi Mùa xuân năm 1975, giải phòng hoàn toàn
miền Nam Việt Nam. Đây là niềm vinh dự tự hào của nông dân Vĩnh Phúc.
Trong công cuộc phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội, nông dân Vĩnh
Phúc có nhiều đóng góp quan trọng, tích cực trên mặt trận sản xuất, tạo ra ngày càng
nhiều của cải vật chất cho xây dựng xã hội chủ nghĩa. Các phong trào sản xuất nông
nghiệp liên tục phát triển, ngày càng đem lại hiệu quả kinh tế cao, phong trào hợp tác hoá

những năm 1959 - 1960, phong trào làm phân chuồng, phân xanh được triển khai tích cực
những chiến dịch “Làm phân vùi thân Mỹ - Diệm” được triển khai nhanh. Phong trào làm
thuỷ lợi, phong trào làm ngô bầu,… đặc biệt là phong trào khoán hộ năm 1968 đã đánh
dấu bước chuyển đổi to lớn trong sản xuất nông nghiệp, tạo ra tính tự chủ trong sản xuất,
thúc đẩy sản xuất phát triển năng xuất lao động tăng cao, các phong trào cải tiến cơ chế
quản lý phong trào dồn điền, đổi thửa đưa cơ giới hoá vào nông nghiệp và phong trào
thâm canh tăng vụ ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất được triển khai
đồng bộ, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Các phong trào làm
đường giao thông nông thôn, kiên cố hoá kênh mương, xây dựng trường học, nhà trẻ, nhà
mẫu giáo, bệnh xá, xây dựng làng xã văn hoá,… được đông đảo nông dân hưởng ứng
tham gia, đem lại hiệu quả cao.
Trong thời kỳ đổi mới, nông dân Vĩnh Phúc có vai trò to lớn trong việc chuyển đổi
cơ cấu kinh tế, bước đầu hình thành những vùng sản xuất hàng hoá tập trung, nhiều trang
trại và khu nuôi trồng thuỷ sản phát triển, cơ giới hoá từng bước được khuyến khích đưa


vào sản xuất, hiệu quả sản xuất lao động ngày càng cao, năng xuất và chất lượng nông
sản hàng hoá từng bước được nâng cao, tạo sức cạnh tranh trên thị trường trong nước,
cung cấp ngày càng nhiều nông sản, hàng hoá, thực phẩm tiêu dùng cho nhân dân trong
tỉnh, thủ đô Hà Nội và các vùng lân cận.
Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Vĩnh
Phúc, nông dân là lực lượng lao động cơ bản, chủ lực quân tiến công vào đói nghèo, lạc
hậu. Họ là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn; cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho các ngành công
nghiệp của tỉnh và của vùng.
Có thể nói, trong lịch sử cách mạng cũng như trong công cuộc đổi mới, tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nông dân Vĩnh Phúc có vai trò rất quan trọng,
luôn luôn là chủ lực quân, lực lượng xung kích trên các mặt trận, trong cuộc đấu tranh
bảo vệ và xây dựng quê hương Vính Phúc, cùng với nông dân và các lực lượng khác
trong xã hội góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

1.1.2. Khái quát tình hình của Đảng bộ xã tỉnh Vĩnh Phúc
1.1.2.1. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp xã
Điều 118 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Các đơn vị hành chính của nước
CHXHCN Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã. Thành phố trực thuộc trung
ương chia thành quận, huyện và thị xã. Huyện chia thành xã, thị trấn. Thành phố thuộc
tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Việc thành lập HĐND và
UBND các đơn vị hành chính do luật định”.
Theo quy định trên, đơn vị hành chính của nước ta được chia thành 4 cấp:
- Cấp Trung ương
- Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, gọi chung là cấp tỉnh.
- Huyện, thành phố thuộc tỉnh, quận, thị xã gọi chung là cấp huyện.
- Xã, phường và thị trấn gọi chung là cấp xã.


Đối với các xã, tuỳ điều kiện cụ thể để chia thành thôn, bản, làng là các địa bàn cụm
dân cư để tiện quản lý hành chính. Xã được xác định là cấp cơ sở, nền tảng của hệ thống
tổ chức hành chính nhà nước, là nơi trực tiếp đưa chỉ thị, nghị quyết của Đảng vào cuộc
sống, là cơ sở thực tiễn rất quan trọng để tổng kết, đánh giá việc thực thi chủ trương
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Đồng thời là nơi thông qua thực
tiễn để kiểm nghiệm những đúng, sai của đường lối chính sách từ đó để điều chỉnh cơ chế
chính sách của Đảng, Nhà nước cho phù hợp với thực tiễn của cuộc sống.
Cùng với hệ thống hành chính nhà nước, các tổ chức đảng cũng được thành lập
tương ứng. Điều 10, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam (khoá X) quy định:
1. Hệ thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống hành chính của nhà
nước.
2. Tổ chức cơ sở đảng được lập tại đơn vị cơ sở hành chính sự nghiệp, kinh tế hoặc
công tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Đảng
bộ các xã, thị trấn có chi bộ trực thuộc, trong đó có các chi bộ thôn (thuộc xã), chi bộ khu

phố (thuộc thị trấn) [24].
Căn cứ Hiến pháp và Điều lệ Đảng, hiện nay, tổ chức đảng của tỉnh Vĩnh Phúc được
lập theo các đơn vị hành chính là đảng bộ tỉnh; đảng bộ cấp huyện và đảng bộ cấp xã.
Các đảng bộ xã là các đảng bộ trực thuộc đảng bộ huyện. Trong đảng bộ xã có các chi bộ
thôn, làng, bản trực thuộc.
Theo cơ cấu tổ chức được quy định như trên, hiện nay toàn tỉnh Vĩnh Phúc có 237
đảng bộ cơ sở, trong đó có 137 đảng bộ xã, phường; 340 chi bộ với tổng số 47.324 đảng
viên.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở của Vĩnh Phúc bao gồm
các chức danh: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch, Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân; Chủ
tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Mặt trận, trưởng các đoàn thể Thanh
niên, Phụ nữ, Nông dân, Cựu chiến binh; các đồng chí trong Ban thường vụ, Ban Chấp
hành Đảng ủy xã. Dưới cấp xã là các thôn, làng bản có các chi bộ trực thuộc. Mỗi chi bộ
có một bí thư và từ một đến hai phó bí thư. Ngoài ra, trong bộ máy cấp xã còn có một số
chức danh chuyên môn khác. Đây là những nhân cốt trong lãnh đạo, quản lý và điều hành


các hoạt động trên địa bàn xã, có trách nhiệm tổ chức lãnh đạo chăm lo phát triển kinh tế
xã hội của địa phương, chăm lo đời sống nhân dân, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã
hội trên phạm vi địa bàn của xã.
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của các đảng bộ xã
- Căn cứ Điều lệ Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng, các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư, chức
năng, nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã ở tỉnh Vĩnh Phúc được quy định như sau:
- Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo phát triển kinh tế - xã
hội; xây dựng hệ thống chính trị ở xã vững mạnh, nông thôn giàu đẹp, văn minh; không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn
nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Lãnh đạo chính quyền thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội

theo Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh, huyện và đảng bộ xã; lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, thực
hiện tốt các chính sách xã hội, xoá đói, giảm nghèo.
Lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của
chính quyền ở cơ sở theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
thường xuyên nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân để phản ánh với tổ chức đảng, chính
quyền cấp trên; trực tiếp giải quyết nhu cầu, nguyện vọng và chăm lo lợi ích của nhân
dân trong xã.
Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở
địa phương; đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể, tính mạng và tài sản của nhân dân; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã
hội, nhất là ma tuý, mại dâm.
- Thường xuyên chăm lo công tác chính trị, tư tưởng; tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên và


các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thanh niên, thiếu niên. Lãnh đạo chính quyền và các
đoàn thể xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh ở thôn (ấp, bản,…) và trong từng gia đình,
chú trọng tuyên truyền và nhân rộng gương người tốt, việc tốt, các nhân tố tích cực trên mọi
lĩnh vực.
Tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành đúng đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương; kịp thời nắm bắt tâm
tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để giải quyết và báo cáo lên cấp trên.
Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh chống các quan điểm sai trái,
những hành vi nói, viết và làm trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
- Lãnh đạo, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn
thể trong hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh; xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tích cực tạo nguồn cán bộ, từng bước trẻ hoá đội ngũ
cán bộ, công chức xã; thực hiện chính sách đối với cán bộ ở cơ sở theo phân cấp; giới
thiệu những người đủ tiêu chuẩn, có tín nhiệm trong tổ chức đảng và nhân dân để bầu vào
các chức danh chủ chốt của HĐND, UBND, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân
theo luật định và điều lệ của mỗi tổ chức; lựa chọn, giới thiệu cán bộ tham gia vào các cơ
quan lãnh đạo của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân ở cấp trên và cán bộ chủ chốt ở
cơ sở do cấp trên quản lý.
- Lãnh đạo xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở xã vững mạnh,
thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của mỗi đoàn thể. Lãnh đạo
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương,
trước hết là những chủ trương, chính sách về nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
- Thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở vững
mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên,
nhất là việc phát hiện và đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu
hiện tiêu cực khác; chú trọng củng cố, xây dựng và nâng cao chất lượng lãnh đạo của các
chi bộ, tổ đảng ở thôn (ấp, bản…). Thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng,


nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình; thực hiện có nền
nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng nhất là sinh hoạt chi bộ, đảm bảo tính lãnh
đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu.
- Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu. Có biện
pháp quản lý, phân công nhiệm vụ và tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được
giao. Làm tốt công tác động viên khen thưởng, kỷ luật đảng viên; xử lý nghiêm, kịp thời
những cán bộ, đảng viên vi phạm điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Làm tốt công tác
tạo nguồn và phát triển đảng viên.
1.2 Công tác vận động nông dân của Đảng bộ xã tỉnh Vĩnh phúc - quan niệm, vị
trí, vai trò và nội dung, phương thức vận động nông dân
1.2.1. Quan niệm công tác vận động nông dân của Đảng bộ xã tỉnh Vĩnh Phúc

1.2.1.1. Quan niệm về công tác vận động nông dân của Đảng
Nhận thức được vai trò và sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân, trong cách
mạng vô sản, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến công tác vận động nhân dân,
coi đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong toàn bộ hoạt động của
Đảng, là một nội dung của liên minh công - nông - trí thức do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta xác định công tác dân vận là một vấn đề lớn của
cách mạng. Đảng đặt lên hàng đầu nhiệm vụ tập hợp quần chúng nhân dân, góp thành lực
lượng toàn dân để thực hiện mục tiêu của cách mạng. Đảng xác định tất cả tổ chức của
Đảng đến mọi cán bộ, đảng viên đều phải tiến hành công tác dân vận. Khi đã có chính
quyền, Đảng tiến hành công tác vận động nhân dân thông qua hệ thống chính trị và tổ
chức đảng chịu trách nhiệm chính, thường xuyên chăm lo công tác vận động nhân dân.
Theo V.I.Lênin công tác dân vận “Là trách nhiệm của toàn thể những người Dân chủ xã
hội”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể
và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên việt, Việt minh)…đều phải phụ trách
dân vận” [53, tr.691].
Công tác dân vận là công tác tuyên truyền, tổ chức, động viên và lãnh đạo quần
chúng trong một cuộc đấu tranh [53, tr.42]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dân vận là vận
động tất cả các lực lượng của mỗi người dân, không để sót một người dân nào, góp

×