Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đề cương ôn tập động vật không xương sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.48 KB, 7 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
Môn: ĐỘNG VẬT KHÔNG CÓ XƯƠNG SỐNG
Câu 1: Đặc điểm cơ bản của Động vật nguyên sinh (Protozoa)? Lấy dẫn chứng
đại diện để mình họa sự đa dạng của các đặc điểm đó?
Các đặc điểm cơ bản của phân giới Động vật nguyên sinh rất đa dạng.
1. Câu tạo cơ thể
-

Cơ thể chỉ có một tế bào (tế bào biệt hóa đa năng) nhưng là những cơ thể

độc lập nên các phần của cơ thể được phân hóa thành các cơ quan tử để thực hiện
các chức phận khác nhau. Một số cơ quan tử không có ở tế bào động vật đa bào: bao
chích, không bào co bóp…
-

Tế bào của động vật nguyên sinh gồm có nhân và tế bào chất. Kích

thước, lượng dịch nhân, hình dạng và cách sắp xếp của nhân thay đổi tùy từng nhóm
ĐVNS khác nhau.
-

Các ĐVNS nhỏ nhất chỉ có kích thước từ 2 - 4µm (họ Pyroplasmidae),

kích thước trung bình là 50 - 150µm. Tuy nhiên cũng có một số ĐVNS có kích thước
lớn, từ vài mm đến vài cm (Trùng cỏ Bursalia dài 1,5mm; Trùng Hai đoạn Porospora
gigantea dài khoảng 1cm; một số trùng có lỗ có đường kính vỏ đạt tới 5 – 6cm).
-

Mỗi nhóm ĐVNS có hình dạng và kiểu đối xứng khác nhau:
+ Không đối xứng: Trùng chân giả
+ Đối xứng tỏa tròn: Amip


+ Đối xứng hai bên: Trùng phóng xạ
+ Đối xứng qua một mặt phẳng duy nhất: Trùng roi

2. Hoạt động sinh lý
-

Đối với nhóm ĐVNS chưa có cơ quan tử vận chuyển thì vận chuyển bằng

cách hình thành chân giả (Trùng Chân giả). Một số nhóm khác có cơ quan tử vận
chuyển rõ ràng như roi (Trùng roi), lông hay tơ (Trùng lông) thì vận chuyển bằng bơi,
lội trong nước.
-

Phần lớn ĐVNS là dị dưỡng (dị dưỡng tiêu hóa hoặc dị dưỡng hấp thụ),

trừ Trùng roi có khả năng tự dưỡng.
-

Tiêu hóa của ĐVNS tiến hành trong tế bào nhờ các không bào tiêu hóa.

-

Cách bắt mồi của ĐVNS khác nhau:


+ Bắt mồi bằng chân giả: Trùng chân giả
+ Bắt mồi bằng sự di chuyển của roi để đưa thức ăn và dưỡng khí vào: Trùng
roi
+ Dùng chất độc của tế bào chích làm tê liệt con mồi: Trùng cỏ
+ Bám vào ruột vật chủ để hút dinh dưỡng: Trùng hai đoạn

-

Bài tiết, điều hòa áp suất thẩm thấu của ĐVNS là các không bào co bóp.

-

ĐVNS có khả năng hình thành bào xác khi gặp điều kiện sống bất lợi.

3. Sinh sản
ĐVNS có một số hình thức sinh sản khác nhau:
-

Sinh sản vô tính là hình thức sinh sản phổ biến ở ĐVNS. Biểu hiện như

sự phân đôi (chia đôi cơ thể theo chiều học hay chiều ngang), nảy chồi, liệt sinh… Kết
quả dẫn tới sự hình thành tập đoàn ĐVNS (Trùng đế giày sinh sản vô tính bằng phân
đôi cơ thể; sinh sản vô tính ở tập đoàn Vonvox…).
-

Sinh sản hữu tính: ở mức độ thấp là sự hình thành các giao tử giống nhau

hay khác nhau (Trùng roi) hay có hiện tượng sinh sản hữu tính bằng cách tiếp hợp
(Trùng cỏ). Hình thức xen kẽ giữa sinh sản vô tính và hữu tính trong vòng đời có thể
thấy ở Trùng bào tử: Sinh sản vô tính tạo ra rất nhiều cá thể (ở một vật chủ) và sinh
sản hữu tính tạo ra các mầm giao tử và các giao tử (ở một vật chủ khác).
Câu 2: Các hình thức sinh sản của Động vật nguyên sinh? Nêu đại diện minh
họa
Ở ĐVNS có các hình thức sinh sản vô tính và hữu tính.
 Sinh sản vô tính:
-


Sinh sản vô tính bằng phân đôi: Trùng biến hình, Trùng mắt (phân đôi

theo chiều dọc), Trùng đế giày (phân đôi theo chiều ngang).
-

Sinh sản vô tính liệt sinh: Trùng sốt rét. Từ một các thể, một TB sau khi

sinh sản cho nhiều TB. Trước hết nhân phân chia thành nhiều phần, sau đó chất
nguyên sinh cũng phân chia thành số phần tương ứng. Cuối cùng, mỗi phần nhân
cùng một phần chất nguyên sinh tách ra tạo thành một cá thể mới.
 Sinh sản hữu tính:
-

Đồng giao tử (các giao tử đực và cái hoàn toàn giống nhau về hình dạng,

kích thước và khả năng hoạt động):


Dị giao tử (các giao tử đực và cái có khác nhau về hình dạng và kích

-

thước cũng như khả năng hoạt động; thường là giao tử đực nhỏ hơn và hoạt động tích
cực hơn):
Noãn giao (giao tử đực là tinh trùng rất nhỏ, hoạt động tích cực; giao tử

-

cái là trứng rất lớn và không hoạt động):

Hiện tượng tiếp hợp: Đây là kiểu sinh sản hữu tính rất đặc trưng của

-

Trùng lông bơi. Chúng không tạo thành giao tử mà hiện tượng trao đổi bộ nhân xảy ra
khi 2 cá thể ghép đôi (tiếp hợp), sinh sản bằng phân chia chỉ xảy ra sau khi rời bạn
ghép đôi.
Trong quá trình tiếp hợp, 2 cá thể Trùng lông bơi khác dòng ghép đôi. Màng TB
phía bụng bị dung giải tạo cầu nối TBC giữa 2 cá thể. Nhân lớn tiêu biến dần,
nhân bé giảm phân cho 4 tiền nhân đơn bội. Ba trong số 4 tiền nhân tiêu biến,
chỉ còn lại 1 tiền nhân nguyên phân để cho 2 tiền nhân mới. Tùy theo chúng ở lại
hay di chuyển sang cơ thể bạn ghép đôi mà có tên gọi là tiền nhân định cư hoặc
tiền nhân di động. Tiền nhân di động của cá thể này sau khi gặp tiền nhân định
cư của cá thể kia sẽ phối hợp thành nhân kết hợp mang vốn di truyền mới. Tiếp
theo, 2 cá thể rời nhau. Nhân kết hợp trong mỗi cá thể nguyên phân để cho 4
nhân bé và 4 nhân lớn rồi phân chia vô tính để cho 4 cá thể mới.


Hiện tượng xen kẽ giữa sự sinh sản vô tính và sự sinh sản hữu tính

qua các thế hệ của cùng một loài: Trùng sốt rét Plasmodium.


Ý nghĩa của sinh sản vô tính và hữu tính:

Câu 3: Chu trình phát triển của Trùng sốt rét Plasmodium vivax và bệnh sốt rét ở
Việt Nam?
 Trùng sốt rét sống ký sinh trong hồng cầu. Chu trình phát triển phải qua 2 vật
chủ với 2 hình thức sinh sản khác nhau: sinh sản vô tính trong máu của ĐVCXS
và sinh sản hữu tính bằng sự hình thành tử bào tử trong các ĐVKXS (muỗi).



Chu trình phát triển không phải trải qua môi trường ngoài nên được gọi là

bào tử trần, không có vỏ đặc biệt bảo vệ.
 Chu kỳ sinh sản của Trùng sốt rét ở người và muỗi có 2 giai đoạn: giai đoạn
sinh sản vô tính trong người và giai đoạn sinh sản hữu tính trong cơ thể muỗi
truyền bệnh.


A. Giai đoạn sinh sản vô tính trong cơ thể người
Trùng sốt rét sau khi được muỗi Anopheles truyền vào máu người, bắt đầu sinh
sản vô tính qua 2 thời kỳ:
1. Thời kỳ ngoài hồng cầu:
Trước khi hút máu, khi đốt người, muỗi đã bơm nước bọt vào cơ thể người cùng
với Trùng sốt rét dưới dạng tử bào tử.
Tử bào tử theo máu xâm nhập vào gan. Chúng chỉ tồn tại trong máu từ nửa giờ
đến 1h, vì máu không phải là môi trường thích hợp của chúng.
Đến gan, tử bào tử xâm nhập vào tế bào gan, dồn nhân tế bào gan về một phía,
chúng ăn (bằng cách thẩm thấu) chất nguyên sinh của tế bào và bắt đầu lớn lên thành
liệt thể là một dạng tròn, chuẩn bị sinh sản. Khi đủ điều kiện, liệt thể sinh sản bằng
hình thức liệt sinh cho ra nhiều liệt tử. Các liệt tử phá vỡ tế bào gan, chui vào tế bào
gan khác và tiếp tục liệt sinh.
Thời kỳ này kéo dài 14 ngày. Bệnh nhân chưa có triệu chứng gì. Số lượng liệt tử
trong gan rất lớn. Đại bộ phận liệt tử xâm nhập vào máu, một số ít xâm nhập vào tế
bào gan khác để tiếp tục liệt sinh như trên.
2. Thời kỳ trong hồng cầu:
Liệt tử từ gan vào máu, xâm nhập vào hồng cầu, bắt đầu giai đoạn trong hồng
cầu. Chúng hút hết huyết cầu tố và huyết cầu tố trong cầu trùng biến thành một sắc tố
có hạt màu đen (melanin).

Chúng lớn lên rất nhanh thành liệt thể. Liệt thể liệt sinh cho nhiểu liệt tử. Tới mức
độ chín, liệt thể phá vỡ hồng câu và giải phóng liệt tử. Lúc này ứng với cơn sốt xảy ra
trong lâm sàng.
Liệt tử rời bỏ hồng cầu và chui vào hồng cầu mới để tái diễn quá trình trước
trong đó. Cứ như vậy, liệt sinh có thể xảy ra một vài lần trước khi sinh sản hữu tính.
Cuối cùng, không hình thành các liệt tử mà hình thành nên các mầm giao tử
(gametocyte): mầm giao tử lớn và mầm giao tử bé. Các mầm giao tử này không tiếp
tục phát triển thêm trong cơ thể người mà sẽ phát triển thành giao tử ở muỗi. Nếu
không được muỗi hút vào, sau một thời gian, chúng bị tiêu hủy; chúng không có khả
năng gây bệnh nếu không qua muỗi.
Thời gian hoàn thành chu kỳ sinh sản vô tính trong hồng cầu của Plasmodium
vivax kéo dài khoảng 48h. Trong hồng cầu, chúng đã gây ra 2 tác hại lớn:


Ăn hết hemoglobine và phá vỡ hàng loạt hồng cầu.




Thải chất bã đen – melanin rất có hại cho hồng cầu.

B. Giai đoạn sinh sản hữu tính ở muỗi Anopheles
Khi muỗi hút máu người, các mầm giao tử có trong máu người bệnh được truyền
sang cơ thể muỗi sốt rét. Mầm giao tử vào ống tiêu hóa của muỗi Anopheles sẽ phát
triển thành giao tử.
Ở dạ dày muỗi, mầm giao tử lớn tiếp tục phát triển cho 1 giao tử cái, còn mầm
giao tử nhỏ lại sinh ra roi bằng cách kéo dài chất nguyên sinh. Giao tử cái và giao tử
đực thụ tinh cho ra hợp tử. Hợp tử có khả năng di động, gọi là trứng động (ookinet).
Về sau, trứng động lách qua thành dạ dày muỗi vào thể xoang, dần dần phân
chia ra nhiều bào tử không màng. Chúng lên tuyến nước bọt của muỗi. Khi muỗi đốt

người, chúng sẽ xâm nhập vào cơ thể người.
Lúc đốt, vô số tử bào tử chui vào máu người. Từ muỗi sang người, trước tiên tử
bào tử chui vào các TB nội mô của các mạch, sinh sản trong đó một thời gian ngắn và
ngay đó, chúng rời nội mô vào mạch để chui vào hồng cầu. Chỉ vào thời gian ấy, mới
bắt đầu giai đoạn đầu của chu kỳ sống như đã mô tả.
Câu 4: Đời sống ký sinh dã để lại dấu vết gì lên hình thái, cấu tạo và sinh sản,
phát triển của giun giẹp ký sinh? Lấy sán lá gan Fasciola hepatica làm dẫn chứng minh
họa.
Nhóm giun giẹp sống ký sinh được xuất hiện từ nhóm giun giẹp sống tự do trong
nước và đất ẩm, có những biến đổi thích nghi sau:
1. Tiêu giảm lông, hình thành và phát triển giác bám, móc bám.
- Cấu tạo cơ thể của sán lá gan giống với sán lông ở nhiều điểm, tuy nhiên, do
có đời sống ký sinh nên ở sán lá gan, lớp biểu mô có lông tiêu biến, lớp tế bào hình
thành biểu mô có lông chuyển sâu vào trong nhu mô đệm.
- Đồng thời, ở sán lá gan hình thành 2 giác bám, một giác bám bụng và một giác
bám miệng. Giác bám có hình đĩa, được biến đổi từ hệ cơ. Ngoài giác bám còn có các
gai cuticun giúp cho sán bám chắc hơn vào cơ thể vật chủ.
2. Một số hệ nội quan tiêu giảm, hệ sinh dục lưỡng tính, phát triển phức tạp và
nhiều trứng.
- Sán lá gan ăn thức ăn trong ruột và máu của vật chủ, tiêu hóa nội bào là chính.
Do vậy, ở sán lá gan không có ruột sau và hậu môn.


- Hệ thần kinh của sán lá gan gồm đôi hạch não nằm trên hầu và các đôi dây
thần kinh. Các cơ quan cảm giác tiêu giảm.
- Sán lá gan không có hệ tuần hoàn và hệ hô hấp.
- Sán lá gan lưỡng tính, hệ sinh dục phát triển phức tạp. Cơ quan sinh dục đực
gồm 2 tuyến tinh lớn, 2 ống dẫn tinh nhỏ chập với nhau thành ống phóng tinh, tận
cùng là cơ quan giao phối. Cơ quan sinh dục cái gồm tuyến trứng (nhỏ hơn tuyến tinh),
ống dẫn trứng từ tuyến trứng đổ vào ootyp; ngoài ra có noãn hoàng ngắn, phình to, đổ

vào ootyp. Từ ootyp có tử cung dài, phân nhánh, chứa nhiều trứng, đổ vào lỗ sinh dục
cái trong huyệt sinh dục.
- Vòng đời của sán lá gan trải qua nhiều giai đoạn phát triển với những điều kiện
nhất định (trứng phải có nước, ấu trùng phải gặp các loài ốc thích hợp, các giai đoạn
tiếp theo phải vào được cơ thể trâu, bò hay người). Vì vậy, xác suất để sán là gan xâm
nhập được vào vật chủ phù hợp và kết thúc vòng đời là không cao, nên sán lá gan cần
phát triển cơ quan sinh dục để hình thành nhiều trứng.
3. Chu trình phát triển của sán lá gan: từ trứng qua redia đến aldolescaria
+ Sán lá gan trưởng thành trong nội quan của ĐVCXS. Trứng theo phân rơi vào
nước, nở thành miracidium có lông bơi di chuyển tự do trong nước.
+ Sau một thời gian, miracidium xâm nhập vào cơ thể vật chủ trung gian thứ nhất
là một loài ốc, mất lông bơi và chuyển thành sporocyst chứa tế bào mầm.
+ Các tế bào mầm của sporocyst phát triển thành redia chứa các tế bào mầm
mới, và từ tế bào mầm này cho ra cercaria có đặc điểm giống với trưởng thành.
+ Sau một thời gian, cercaria bám vào lá cây thủy sinh, rụng đuôi, kết vỏ cứng
tạo thành bào xác. Cũng có khi cercaria có phần đầu kết vỏ trong suốt nằm trong nội
quan của vật chủ trung gian thứ hai trước khi vào vật chủ chính (gọi là metacercaria).
+ Dạng cercaria hay metacercaria là dạng nhiễm bệnh sán lá gan ở trâu bò. Khi
trâu bò ăn cỏ, bào xác vào ruột và tại ruột trâu bò, vỏ bào xác bị phân hủy, sau đó sán
lá gan non được giải phóng, theo ống mật vào gan và sống ký sinh ở đấy.
Như vậy, vòng đời của sán lá gan qua 2 vật chủ khác nhau: Trâu bò hay người
mang giai đoạn trưởng thành nên được gọi là vật chủ chính, còn ốc mang giai đoạn ấu
trùng nên gọi là vật chủ trung gian.
4. Có hiện tượng xen kẽ thế hệ sinh sản vô tính và hữu tính
Vòng đời của sán lá gan có hiện tượng xen kẽ thế hệ sinh sản hữu tính (ở vật
chủ chính) và sinh sản vô tính (nhờ các tế bào mầm trong cơ thể ấu trùng). Đây có thể


coi là hình thức sinh sản không đực ở vật chủ trung gian. Sinh sản không đực đã làm
tăng nhanh số lượng ấu trùng để tăng xác suất gặp vật chủ.

5. Sinh sản nhiều để hạn chế rủi ro, để phát tán mạnh và cho nhiều cơ hội
Số trứng của sán lá gan rất lớn, hàng nghìn hay hàng chục nghìn (trong khi số
lượng của sán lông chỉ tính hàng trăm). Số trứng nhiều, có thêm khả năng sinh sản
đơn tính và vô tính là các biểu hiện thích nghi của động vật ký sinh phải chịu nhiều
khó khăn trong vòng đời để gặp lại vật chủ là môi trường sống thích hợp. Quy luật này
phổ biến ở động vật ký sinh, gọi là “luật số lớn”.

Câu 5: Các hình thức sinh sản của Ruột khoang? Nhận xét gì về hình thức phát
triển xen kẽ thế hệ của Ruột khoang?
Động vật Ruột khoang có 2 cách sinh sản: Sinh sản vô tính (mọc chồi, cắt
ngang, cắt dọc) và sinh sản hữu tính. Ở nhiều nhóm phát triển có xen kẽ thế hệ.
1. Sinh sản vô tính:


Thủy tức sinh sản vô tính bằng đâm chồi khi điều kiện sống thuận lợi:

Các chồi mọc lên từ vùng sinh chồi ở phần giữa cơ thể thủy tức. Từ một mấu
lồi lớn dần lên rồi xuất hiện lỗ miệng và các tua miệng. Thủy tức con sau khi
hình thành sẽ tách khỏi cơ thể mẹ sống độc lập. Có khi chồi con chưa kịp
tách khỏi, chồi mẹ đã mọc thêm chồi cháu, chồi chắt…


Trong tập đoàn thủy tức, thủy tức sinh sản vô tính bằng cách mọc chồi.

Các cá thể sinh sản bắt nguồn từ một chồi của tập đoàn nhưng mọc lên
thành một trụ rỗng, từ đó nảy các chồi sứa, tách khỏi trụ rỗng và bơi tự do.


San hô sinh sản vô tính theo lối sinh chồi hoặc cắt đôi. Chồi san hô


cũng mọc như chồi của thủy tức. Chồi mới sinh có thể không tách khỏi chồi
mẹ để hình thành tập đoàn.
Thông thường, san hô sinh sản cắt đôi theo chiều dọc nhưng một số lại cắt
đôi theo chiều ngang (Fungia). Nửa mới được cắt ra sẽ hình thành bộ xương
mới.
2. Sinh sản hữu tính:
 Ở thủy tức, khi gặp điều kiện sống bất lợi, chúng chuyển sang sinh sản
hữu tính. Hợp tử được hình thành có vỏ bảo vệ sống tiềm sinh cho đến khi
điều kiện sống thuận lợi trở lại thì tiếp tục phát triển.



×