Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tieu luan NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH QUẢNG TRỊ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197 KB, 29 trang )

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ LÊ DUẨN TỈNH QUẢNG TRỊ
KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU
CỦA ĐẢNG BỘ BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH QUẢNG TRỊ
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG MỚI

TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA
HỆ TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
Th.sĩ - Nguyễn Thị Hồng Sâm

HỌC VIÊN THỰC HIỆN
Nguyễn Thị Tính
Lớp Trung cấp LLCT-HC
tại chức Bệnh viện Đa khoa tỉnh

Quảng Trị, 2016

1


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

Báo cáo Đảng bộ Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị về thực hiện Nghị
quyết số 22-NQ/TW ngày 02/02/2008 của Ban chấp hành Trung ương
“về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” 2012.


2

C.Mác và Ph.Ăngnghen: Toàn tập, tập 7, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1995.

3

Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.

4

Giáo trình trung cấp Lý luận chính trị - Hành chính: Nghiệp vụ công
tác Đảng ở cơ sở, NXB Lí luận Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014.

5

Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, 2002.

6

Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16/01/2012 của Hội nghị lần thứ 4 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI): Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay.

7

Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 02/02/2008 của Ban chấp hành Trung
ương “Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”.


8

Báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia Văn kiện Đại hội lần thứ XII của
Đảng và Đại hội Đảng bộ thành phố Đông Hà lần thứ XII, thông qua
dự thảo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2015-2020 của Bệnh
viện Đa khoa tỉnh.

9

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, XI, XII của Đảng Cộng
sản Việt Nam.

10 Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần XVI, nhiệm kỳ
2015-2020.
11 V.I. Lênin: Toàn tập, tập 41, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1977.

2


PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA
I. Nhận xét, đánh giá của giảng viên chấm 1:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
II. Nhận xét, đánh giá của giảng viên chấm 2:

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
III. Điểm thống nhất:

- Bằng số:................................
- Bằng chữ:..............................

GIẢNG VIÊN CHẤM 1

GIẢNG VIÊN CHẤM 2

(Ký, ghi rõ họ và tên)

(Ký, ghi rõ họ và tên)

PHẦN MỞ ĐẦU
3


1. Lý do chọn đề tài
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta rất quan tâm đến việc xây dựng tổ chức
cơ sở đảng, coi các tổ chức cơ sở đảng là cấp tổ chức nền tảng, là những đơn vị
chiến đấu cơ bản, những tế bào của Đảng; chất lượng của các đảng bộ, chi bộ cơ sở
là nhân tố cơ bản tạo nên chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách
mạng. Tổ chức cơ sở đảng có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với sự vững mạnh của

Đảng, đây là cấp tổ chức cuối cùng trong hệ thống tổ chức bốn cấp của Đảng ta, là
cấp tổ chức sâu rộng nhất, gắn với các đơn vị cơ sở trên toàn lãnh thổ và các ngành,
các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng tới từng cơ sở,
từng đảng viên và từng người dân.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp thực hiện chủ trương, đường lối, nghị
quyết của Đảng, đồng thời cũng là nơi kiểm nghiệm và góp phần quan trọng vào
việc hình thành, phát triển chủ trương, đường lối của Đảng thông qua những kinh
nghiệm thực tiễn phong phú của đội ngũ đảng viên và quần chúng nhân dân. Tổ
chức cơ sở đảng còn là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân, là mắt khâu
trọng yếu để duy trì mối liên hệ của Đảng với dân; là tổ chức gần dân nhất, trực
tiếp lãnh đạo nhân dân và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân
để phản ánh với Đảng. Dân tin Đảng, theo Đảng hay không là nhờ ở vai trò rất
quan trọng, trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng, cán bộ đảng viên tại cơ sở.
Qua 86 năm chiến đấu xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xây dựng được một hệ thống tổ chức chính trị vững mạnh từ Trung ương đến cơ
sở, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ và khẳng định vai trò là Đảng duy nhất cầm
quyền, lãnh đạo đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững
chắc độc lập dân tộc và các thành quả cách mạng đã giành được. Một trong những
đóng góp hết sức quan trọng vào những thành công của cách mạng đó chính là hệ
thống tổ chức Đảng cơ sở. Trong suốt quá trình cách mạng, từ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt ngày nay trong sự
nghiệp đổi mới đất nước, tổ chức Đảng ở cơ sở đã luôn làm tốt vai trò, nhiệm vụ
4


của mình, là nền tảng của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI đã ghi rõ "Những thành tựu đã đạt được, những tiềm
năng đã khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn
đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân là tổ chức Đảng".
Bước vào thế kỷ XXI, Đảng ta, nhân dân ta đang thực hiện công cuộc đẩy

mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Đây là nhiệm vụ to lớn, khó khăn
và trong điều kiện tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước cũng như thế giới
có nhiều biến động khó khăn. Để hoàn thành được sự nghiệp cách mạng, đòi hỏi sự
nỗ lực phấn đấu của toàn đảng, toàn dân. Hội nghị lần thứ VII - Ban chấp hành
Trung ương Đảng, khoá X, Đảng đã đề ra nghị quyết "Về nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, Đảng
viên", nhằm đưa các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở lên tầm cao mới, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Đánh giá về công tác xây dựng, hoạt động của tổ chức cơ sở đảng thời gian
qua, Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên đạt được một số
kết quả tích cực; chú trọng hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những
vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn. Chức năng, nhiệm vụ các loại hình tổ
chức cơ sở đảng được xác định phù hợp hơn. Công tác phát triển, quản lý, nâng cao
chất lượng đảng viên được quan tâm chỉ đạo. Số lượng đảng viên mới kết nạp hàng
năm đều tăng. Bên cạnh đó, Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu
kém, chậm được khắc phục như: năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ
chức cơ sở đảng còn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng
chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn; tự phê bình và phê bình yếu. Nhiều
cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
Đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao. Tình trạng thiếu trách
nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ

5


phận cán bộ, đảng viên. Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng không nghiêm. Sự
đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp ủy chưa tốt.
Trong những năm qua, Đảng bộ Bệnh viện tỉnh đã quán triệt và cụ thể hóa
đường lối của Đảng, từng bước thực hiện hóa trong từng chi bộ và đảng viên, đảm

bảo giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, củng cố tình
đoàn kết làm cho đảng bộ ngày càng vững mạnh. Tuy vậy, trước yêu cầu nhiệm vụ
ngày càng cao của đơn vị, tình hình Đảng bộ và công tác xây dựng Đảng bộ còn
bộc lộ những tồn tại, khuyết điểm, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi
bộ và của toàn Đảng bộ là nhiệm vụ quan trọng hiện nay.
Với những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu: "Nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Trị đáp
ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới" làm đề tài tiểu luận tốt nghiệp cuối khoá hệ
Trung cấp lý luận chính trị.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bộ Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Trị , tiểu luận đề xuất những
giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực sức chiến đấu của Đảng bộ Bệnh viện
đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới.
2.2. Nhiệm vụ
Làm rõ một số vấn đề lý luận về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng bộ Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Trị.
Đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Bệnh viện tỉnh rút ra
một số kinh nghiệm chủ yếu.
Đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng bộ Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Trị giai đoạn hiện nay.
6


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ Bệnh
viện đa khoa tỉnh đáp ứng nhu cầu giai đoạn cách mạng mới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi một đề tài tiểu luận tốt nghiệp, đề tài nghiên cứu năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Trị trong
giai đoạn từ năm 2015-2020ến 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đây là đề tài nghiên cứu về công tác xây dựng Đảng nên tác giả sử dụng
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng ta để nhận xét, đánh giá sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng.
Đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn sự lãnh
đạo của Đảng bộ Bệnh viện đa khoa tỉnh để đi sâu phân tích đánh giá, so sánh, tổng
hợp, điều tra, thống kê, trao đổi ý kiến để hoàn thành đề tài này.

7


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC
LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1.

CÁC KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG

1.1.1

Khái niệm tổ chức cơ sở đảng

Tổ chức cơ sở Đảng là tổ chức của Đảng được thành lập ở đơn vị cơ sở.
Quan niệm về tổ chức cơ sở Đảng, Điều 21, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam được
thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định:
"Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là
hạt nhân chính trị ở cơ sở";

"Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ
sở đảng (trực thuộc cấp uỷ cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn
vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính
thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng uỷ
cơ sở); cấp uỷ cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực
thuộc cấp uỷ cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì
cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích
hợp";
"Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ
đảng trực thuộc";
"Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở, có
các chi bộ trực thuộc đảng uỷ".
Điều 10, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam ghi rõ: "Tổ chức cơ sở đảng được
lập tại đơn vị cơ sở hành chính, sự nghiệp, kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự lãnh
đạo của cấp ủy quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh”.
8


1.1.2. Khái niệm năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng
Năng lực lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của
cơ sở đảng. Năng lực này thể hiện ở những khả năng cơ bản sau: Lãnh đạo công tác
tư tưởng, làm cho các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước thấm sâu trong mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng, tạo sự thông suốt
về tư tưởng, quyết tâm, thống nhất về hành động trong toàn đảng bộ và nhân dân.
Sức chiến đấu của cơ sở đảng là sức mạnh, khả năng vượt qua những khó
khăn, thách thức, những hạn chế, tiêu cực, những trở lực và chống lại có hiệu quả
sự phá hoại của các thế lực thù địch trong quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
chính trị.
1.1.3. Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng

Tổ chức cơ sở Đảng là nơi nối liền các cơ quan lãnh đạo cấp trên của quần
chúng, là chiếc cầu, là bản lề gắn bó Đảng với dân. Mọi tậm tư, nguyện vọng chính
đáng cùa dân vì thế được phản ánh kịp thời lên tổ chức Đảng cấp trên thông qua chi
bộ cơ sở, Đảng bộ cơ sở. Là nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng vào quần chúng và tổ chức cho quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối,
chủ trương, chính sách đó. Đồng thời là nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, kết nạp và
sàng lọc đảng viên; nơi đào tạo cán bộ cho Đảng; nơi xuất phát để cử ra cơ quan
lãnh đạo cấp trên của Đảng; là cửa ngõ quan trọng bảo đảm tính tiên phong, tính
trong sạch của Đảng ta.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin
Các nhà sáng lập học thuyết Mác là những người đầu tiên nêu lên quan điểm, tư
tưởng về tổ chức cơ sở đảng.

9


Mác- Ph.Ăngghen là những người đầu tiên nêu lên những quan điểm, tư tưởng
về tổ chức cơ sở Đảng. Hai ông sáng lập ra “Liên đoàn những người cộng sản” và
các chi bộ của liên đoàn, Quốc tế I và các Đảng Cộng sản của Quốc tế II. Trong quá
trình hoạt động cách mạng, hai ông chỉ ra rằng: “Các chi bộ bị buông lỏng về mặt
tổ chức sẽ dẫn đến cắt đứt liên lạc với Ban Chấp hành trung ương, làm cho Đảng
mất chỗ dựa vững chắc và duy nhất”. Hai ông đã đặc biệt nhắc nhở các Đảng cơ sở
khâu đặc biệt quan trọng là củng cố các chi bộ “biến mỗi chi bộ thành trung tâm và
hạt nhân của hiệp hội công nhân, là mắt xích quan trọng, là chỗ dựa vững chắc của
Đảng”.
Kế thừa và phát triển những quan điểm đó, Lênin trong xây dựng và lãnh đạo
Đảng Bônsêvích Nga, Đảng chủ nghĩa dân chủ- xã hội Nga, một đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân đã chỉ rõ: “việc thành lập các tổ chức cách mạng trong các xí
nghiệp, nhà máy là nhiệm vụ đầu tiên, cấp bách của Đảng Chủ nghĩa dân chủ- Xã

hội Nga, mỗi nhà máy phải là một thành trì”.
Khi trở thành Đảng cầm quyền, các tổ chức cơ sở đảng tăng lên cả về số luợng
và phong phú về nội dung, chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động. Lênin
yêu cầu: Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với tư tuởng Đảng phải trao
đổi kinh nghiệm lẫn nhau, phải làm công tác cổ động tuyên truyền, nhưng công tác
tổ chức phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với tất cả mọi tầng
lớp quần chúng lao động, những chi bộ ấy phải thông qua công tác muôn hình
muôn vẻ và rèn luyện mình, rèn luyện Đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ
thống.
Người yêu cầu Đảng Cộng sản phải bằng nhiều biện pháp nâng cao vai trò tổ
chức cơ sở đảng, phát huy tính chủ động, sáng tạo của cơ sở thì những mục tiêu của
chính sách kinh tế của nhà nước Xô Viết mới thành hiện thực.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh

10


Chủ tịch Hồ Chí Minh có cùng quan điểm của Mác-Lênin về tổ chức cơ sở
đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, Người đã kế thừa và phát
triển sáng tạo quan điểm này phù hợp với điều kiện ở nước ta.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến việc xây Đảng ta
thật sự trong sạch vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân. Người căn dặn: Đảng phải luôn nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu, phải luôn tự chỉnh đốn để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang.
1.3. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG
Quán triệt quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hơn
86 năm qua, dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên biết bao kỳ tích vẻ
vang. Ngày nay, Đảng ta đang tiếp tục lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, hội
nhập quốc tế, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ

quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Đây là một nhiệm vụ to lớn,
nặng nề nhưng hết sức vẻ vang trước lịch sử dân tộc và thời đại.
Để thực hiện thành công nhiệm vụ ấy, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Đó là mục tiêu tập trung nhất
của nhiệm vụ xây dựng Đảng, là nhiệm vụ then chốt trong toàn bộ sự nghiệp của
Đảng cũng như sự đòi hỏi của dân tộc.
1.4. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA TỪ THỰC TIỄN
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện một cách toàn diện từ
năng lực định hướng đường lối, chủ trương chính sách, đến năng lực tổ chức và chỉ
đạo thực hiện, động viên, tập hợp quần chúng, kiểm tra, giám sát toàn bộ công việc
của Đảng, làm cho đường lối, chủ trương của Đảng luôn phản ánh được yêu cầu
khách quan thể hiện mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân...
Sức chiến đấu của Đảng được thể hiện qua hành động của tổ chức Đảng và đội
ngũ cán bộ, đảng viên, bằng sự nỗ lực phấn đấu thực hiện lý tưởng cách mạng của
Đảng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu
11


tranh làm thất bại các tư tưởng sai trái, hành động thù địch; có bản lĩnh và dũng khí
chiến đấu với những hiện tượng tiêu cực, thoái hóa trong Đảng và trong xã hội,
cũng như trong chính bản thân mỗi con người, khắc phục tình trạng né tránh, đùn
đẩy, tê liệt sức chiến đấu.
Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 02/02/2008 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khoá X) về “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” đã khẳng định: "Năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu, khả năng nhận thức, vận dụng, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các
chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của cấp ủy
cấp trên của nhiều tổ chức cơ sở đảng còn yếu, chưa đủ sức phát hiện, giải quyết
những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở; có tổ chức cơ sở đảng bị mất sức chiến đấu".
Và Nghị quyết cũng đưa ra nhiều giải pháp, trong đó: "Thực hiện đồng bộ các giải

pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Xây
dựng tổ chức cơ sở đảng phải kết hợp chặt chẽ với thực hiện Cuộc vận động "Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", với xây dựng chính quyền, các
tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở vững mạnh, với nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, đảng viên, trước hết là bí thư đảng bộ, chi bộ, người đứng đầu và các cấp ủy
viên".
Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/1/2012 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (lần thứ 4, khóa XI) về "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay"
đã đề cập đến nhiều nội dung quan trọng trong công tác xây dựng đảng. Trong đó,
nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng đã được nghị quyết nhấn
mạnh: “Chấn chỉnh tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ; thực hiện nghiêm
nguyên tắc tự phê bình và phê bình”.
Một trong những bài học lớn dẫn tới những thành công trong hai mươi năm
đổi mới mà Đảng ta đã rút ra tại Đại hội XI là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính
12


trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân”. Bài học này bao trùm toàn bộ những hoạt động cơ
bản của Đảng nhằm lãnh đạo nhân dân ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước. Tiếp tục tinh thần ấy, Đại hội lần thứ XI cũng chỉ rõ: “...nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống
còn với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân hiện nay”.
Trước tình hình như vậy, để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá XI đã ra nghị
quyết về "Một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay". Qua
một năm thực hiện công tác kiểm điểm tự phê bình và phê bình đã tạo nên chuyển
biến rõ rệt về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên

và trong Đảng. Nghị quyết cũng đã nhận được sự đồng thuận cao trong nhân dân.
Ở tỉnh Quảng Trị, trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, cán
bộ và nhân dân trên địa bàn đã đạt được những thành tựu to lớn, bộ mặt của Tỉnh
nhà ngày càng thay đổi. Năng lực lãnh đạo của Tỉnh uỷ nói chung và các tổ chức cơ
sở đảng nói riêng đã và đang phát huy tốt vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị ở các
cấp.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên về cơ bản có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo
đức lối sống lành mạnh. Nhận thức của các cấp uỷ Đảng về công tác tư tưởng trong
tình hình mới được nâng lên. Công tác quản lý, quy hoạch cán bộ đã và đang thực
hiện nghiêm túc và quy cũ hơn, phát huy tinh thần dân chủ. Các cấp uỷ Đảng đã
thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, giám sát; tiến hành xây dựng, ban hành các
quy chế, quy định xác định rõ nguyên tắc, cơ chế, mối quan hệ trong lãnh đạo, chỉ
đạo của cấp uỷ đối với các tỏ chức trong hệ thống chính trị.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ Bệnh viện đa khoa tỉnh thể
hiện nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, Nghị quyết, chỉ thị của cấp trên và đã vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều
13


kiện thực tiễn của đơn vị, đã tập trung được nguồn lực, khai thác thế mạnh của đơn
vị, phát huy sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của
đảng bộ. Ngoài ra còn thể hiện ở khả năng khắc phục khó khăn, yếu kém, những
biểu hiện tiêu cực và sai trái trong đảng bộ. Đấu tranh ủng hộ cái đúng, cái mới,
phê phán cái cũ, lạc hậu và các thế lực thù địch. Tuy nhiên, còn một số chi bộ và
đảng viên chưa nâng cao ý thức giáo dục chính trị tư tưởng, còn mang tính hình
thức, rập khuôn, hiệu quả thấp. Công tác quản lý đảng viên, cán bộ, công nhân viên
có lúc chưa chặt chẽ, thực hiện quy trình công tác của đơn vị còn gặp một số vướng
mắc,…
Như vậy, từ thực tiễn của tình hình thế giới, trong nước, trên địa bàn tỉnh và
tại Đảng bộ Bệnh viện đa khoa tỉnh trong những năm qua đã và đang đặt ra yêu cầu

đòi hỏi Đảng ta phải chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng cũng như các tổ chức cơ sở đảng để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.

Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH
ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM
2.1.1. Thực trạng
2.1.1.1. Kết quả đạt được
Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Trị được thành lập theo Quyết định số
113/QĐ-UBND ngày 05/8/1989 của UBND tỉnh Quảng Trị với quy mô bệnh viện
hạng II với 300 giường bệnh với chức năng nhiệm vụ:
1. Cấp cứu, Khám bệnh, Chữa bệnh.

5. Phòng bệnh.

2. Đào tạo cán bộ Y tế.

6. Hợp tác Quốc tế.

3. Nghiên cứu Khoa học về Y học.

7. Quản lý kinh tế Y tế

14


4. Chỉ đạo tuyến dưới về chuyên môn, kỹ thuật
Thực hiện chủ trương của tỉnh về việc mở rộng, nâng cấp bệnh viện, từ năm

2015 Bệnh viện được nâng quy mô lên 500 giường bệnh với 25 khoa lâm sàng và
cận lâm sàng, 6 phòng chức năng và 01 tổ quản lý mạng vi tính.
Trong những năm qua, Bệnh viện đã chú trọng công tác tuyển dụng, đào tạo
cán bộ đáp ứng với yêu cầu nâng cao chất lượng chuyên môn và phát triển bệnh
viện toàn diện. Đội ngũ thầy thuốc và cán bộ Bệnh viện đã phát triển cả về số
lượng, đến nay tổng số cán bộ viên chức bệnh viện là 462 người với 184 cán bộ có
trình độ cao đẳng, đại học trở lên (chiếm 40%), trong đó có 02 tiến sĩ, 12 bác sĩ
chuyên khoa II, 14 thạc sĩ, 40 bác sĩ chuyên khoa I, 29 bác sĩ – dược sĩ đại học, Cử
nhân Điều dưỡng – kỹ thuật viên – hộ sinh; 24 đại học khác; 43 cán bộ có trình độ
trung cấp Lý luận chính trị trở lên (chiếm tỷ lệ 09%), Quản lý Nhà nước: 102
(chiếm tỷ lệ 22%). Tổng số đảng viên trong cán bộ viên chức: 142, chiếm tỷ lệ:
31% tổng số cán bộ viên chức.
Hiện đang tiếp tục đào tạo: 02 nghiên cứu sinh Y học, 02 bác sĩ chuyên khoa
II, 09 bác sĩ chuyên khoa I, 06 thạc sỹ, 05 bác sĩ – dược sĩ đại học, 36 cử nhân Điều
dưỡng – kỹ thuật viên – hộ sinh, 05 đại học khác.
+ Những kết quả đạt được
- Thứ nhất, chất lượng giáo dục chính trị tư tưởng được nâng cao
Bệnh viện đã đoàn kết, đồng thuận thực hiện các chủ trương của Đảng và
Nhà nước, thực hiện và tu dưỡng đạo đức, rèn luyện y đức của người thầy thuốc
theo tinh thần của Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay"
Bệnh viện đã phát triển quy mô lên 500 giường bệnh và với sự lãnh đạo của
Đảng ủy, sự quản lý và điều hành của Ban Giám đốc, tập thể cán bộ, đảng viên,
nhân viên của Bệnh viện đã hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao mà trọng tâm
là khám chữa bệnh (KCB) đạt và vượt các chỉ tiêu kế hoạch chuyên môn được
15


giao, triển khai quy trình kỹ thuật của Bộ Y tế, triển khai nhiều kỹ thuật mới tại

Bệnh viện để phục vụ và đáp ứng nhu cầu của người bệnh một cách đồng đều ở tất
cả các chuyên khoa, triển khai thực hiện Chỉ thị 05/CT-BYT ngày 10/9/2012 của
Bộ Y tế về việc “Tăng cường thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng khám
bệnh, chữa bệnh sau khi điều chỉnh giá dịch vụ y tế”, huy động trí tuệ của đội ngũ
bác sỹ trong hội chẩn và điều trị bệnh, nâng cấp hệ thống khám bệnh đa khoa trung
tâm, tăng cường khám chuyên khoa, bổ sung giường bệnh nội trú, kiện toàn hệ
thống hồi sức cấp cứu trung tâm và phòng cấp cứu tại các khoa lâm sàng, thành lập
khoa Ung bướu, bổ sung nhân lực thường trực, từng bước nâng cao hiệu quả cấp
cứu và KCB, cung ứng đủ thuốc-vật tư-hóa chất để đáp ứng nhu cầu khám chữa
bệnh và thực tiễn triển khai kỹ thuật mới, nâng cao chất lượng hoạt động cận lâm
sàng, thực hiện các quy trình chuyên môn chăm sóc người bệnh toàn diện,...
- Thứ hai, công tác tổ chức cán bộ và phát triển đảng viên mới.
Bệnh viện luôn chú trọng đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
của cán bộ y tế; ứng dụng kỹ thuật tiên tiến; triển khai xây dựng bệnh viện vệ tinh
của Bệnh viện Trung ương Huế trong các lĩnh vực chấn thương, tim mạch, ung
bướu; hỗ trợ tuyến cơ sở có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực chuyên môn; mỗi năm đội
ngũ y, bác sỹ của Bệnh viện thực hiện hơn 30 đề tài nghiên cứu khoa học, trong đó
có 15% đề tài cấp Sở và cấp tỉnh. Đến nay đã có 74 người trình độ sau đại học,
trong đó 2 cán bộ có học vị tiến sĩ; 11 bác sĩ chuyên khoa II; 40 bác sĩ chuyên khoa
I, 17 thạc sĩ- bác sĩ, 2 thạc sĩ- dược sĩ; 2 dược sĩ chuyên khoa I và đang gửi đi đào
tạo trình độ sau đại học với nhiều bác sĩ khác…Đội ngũ thầy thuốc không ngừng
học tập nâng cao trình độ, tích lũy nhiều kinh nghiệm, làm chủ các phương tiện
máy móc thiết bị, góp phần chữa trị nhiều căn bệnh khó.
Để làm tốt công tác phát triển Đảng, Đảng bộ Bệnh viện Đa khoa gắn công
tác quy hoạch, tạo nguồn, bồi dưỡng phát triển đảng viên với công tác quy hoạch,
đào tạo cán bộ của Bệnh viện và quan tâm hơn nữa đến lực lượng cán bộ trẻ. Khi
xem xét, lựa chọn, quy hoạch phát triển đảng viên phải hết sức chú ý về tiêu chuẩn,
16



đặc biệt là tiêu chuẩn chính trị, năng lực thực hiện nhiệm vụ... Nhờ làm tốt công tác
xây dựng Đảng, trong đó chú trọng phát triển đảng viên mới nên Đảng bộ Bệnh
viên đa khoa nhiều năm liền đạt tiêu chuẩn Trong sạch vững mạnh tiêu biểu.
- Thứ ba, công tác kiểm tra giám sát của cấp ủy
Đảng ủy hàng năm tiến hành kiểm tra đảng viên trong việc chấp hành Chỉ
thị, Nghị quyết của cấp ủy cấp trên, chấp hành Điều lệ đảng và thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong đảng; tiến hành kiểm tra quản lý thu chi đảng phí các
Chi bộ. Nhìn chung qua công tác kiểm tra, giám sát đã giúp cho đảng viên và các
chi bộ nắm vững Điều lệ và các quan điểm chỉ đạo của đảng, chuyển biến tốt cử về
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của từng chi bộ, ý thức chấp hành của đảng
viên được nâng lên, các khuyết điểm, tồn tại trong đơn vị được giải quyết, nội bộ
đoàn kết thống nhất, dân chủ được tôn trọng.
- Thứ tư, công tác dân vận được chú trọng
Bệnh viện luôn coi trọng thực hiện Quy tắc ứng xử của công chức, viên
chức, người lao động làm việc tại các cơ sở y tế; thực hiện 12 điều y đức. Từng cá
nhân ký cam kết với khoa; từng khoa, phòng ký cam kết với lãnh đạo bệnh viện
không xảy ra tiêu cực, gây khó khăn cho người bệnh. Hàng tuần các khoa đều tổ
chức sinh hoạt “Hội đồng người bệnh”; hàng tháng Ban giám đốc cùng với các
phòng chuyên môn, điều dưỡng trưởng các khoa tham gia họp “Hội đồng người
bệnh” để nghe ý kiến phản ánh về những việc làm được, chưa được, những tồn tại,
vướng mắc cần giải quyết, qua đó nhằm tạo sự hài lòng cho bệnh nhân. Bệnh viện
cũng công khai số điện thoại đường dây nóng, đặt các thùng thư góp ý tại nhiều vị
trí trong bệnh viện để tiếp nhận ý kiến phản ánh của người dân, tăng cường đối
thoại giữa nhân viên y tế với bệnh nhân và người nhà của họ, kịp thời khắc phục
những hạn chế. Công đoàn Bệnh viện nhiều lần tập huấn về Quy tắc ứng xử, hướng
dẫn kỹ năng giao tiếp theo Thông tư 07/2014 của Bộ Y tế và các văn bản có liên
quan. Hàng ngày trong giao ban đều có nhắc nhở, chấn chỉnh những việc làm chưa
tốt.
17



- Thứ năm, công tác lãnh đạo các tổ chức đoàn thể
Bệnh viện đã đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ cơ sở nhằm đảm bảo
quyền làm chủ của cán bộ, CCVC; quyền lợi và nghĩa vụ của người bệnh; giải
quyết kịp thời những khiếu nại của người bệnh trong quá trình KCB đồng thời xây
dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, phát động các phong trào thi đua yêu nước,
đẩy mạnh các hoạt động xã hội và nhân đạo như duy trì Quỹ Nồi cháo vì người
bệnh nghèo để cung cấp suất ăn miễn phí với người bệnh có hoàn cảnh khó khăn tại
Bệnh viện, vận động hiến máu tình nguyện, lập ngân hàng máu sống, tổ chức Đoàn
Thanh niên nêu cao vai trò xung kính trên mọi lĩnh vực công tác và Câu lạc bộ
Thầy thuốc trẻ của Bệnh viện đẩy mạnh các hoạt động tình nguyện chăm sóc sức
khỏe cộng đồng, tăng cường đảm bảo quốc phòng-an ninh trật tự và tích cực phòng
chống cháy nổ, phòng chống bão lụt, phòng chống tệ nạn xã hội...
- Thứ sáu, xây dựng tổ chức đảng
Đảng ủy Bệnh viện Đa khoa luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các chi bộ trực
thuộc, Ban Giám đốc Bệnh viện, cán bộ đảng viên, CCVC của đơn vị thực hiện tốt
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chú trọng thực hiện mô
hình điểm theo hướng dẫn của Ban Thường vụ Thành ủy, việc thực hiện nêu gương
của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt được thực hiện thường xuyên, hàng
tháng kết hợp với công tác đánh giá, phân loại tổ chức đảng và đảng viên hàng năm
gắn với kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) được thực
hiện đảm bảo đúng quy trình, nội dung quy định, dân chủ, khách quan. Qua công
tác đánh giá phân loại hàng năm đã giúp cho các chi bộ trực thuộc và đảng viên
nhìn rõ những ưu điểm và tồn tại của tập thể, của cá nhân từng đồng chí để có
hướng khắc phục.
Quan tâm chỉ đạo và thực hiện tốt công tác quản lý đảng viên và công tác
giáo dục chính trị tư tưởng cho đảng viên; thường xuyên quán triệt đến đảng viên
nói và làm theo nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nâng cao tính tiên phong, gương mẫu

18



trong lao động, học tập, công tác, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên.
2.1.1.2. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình lãnh, chỉ đạo đơn vị,
Đảng bộ vẫn còn những hạn chế nhất định là:
Công tác dự báo, nắm tình hình trên một số lĩnh vực chưa toàn diện. Nên
việc tham mưu cho cấp ủy, chính quyền giải quyết vụ việc xảy ra còn bị động, lúng
túng.
Công tác triển khai Nghị quyết vẫn còn chưa linh hoạt, phong phú, còn ở
dạng đọc nghe nên hiệu quả chưa cao; nội dung sinh hoạt chi bộ chậm đổi mới về
nội dung và hình thức, chưa phong phú và đa dạng.
Tinh thần tự phê bình và phê bình một số đảng viên còn hạn chế, ngại đấu
tranh, sợ va chạm chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Một số đảng viên và quần
chúng chưa tham gia tích cực một số hoạt động của đơn vị, đùn đẩy trách nhiệm
trong công việc.
Thái độ tiếp thu ý kiến của một số đảng viên chưa thể hiện tính cầu thị nhìn
nhận khuyết điểm để sửa chữa, cố tình tìm nguyên nhân để biện minh cho những
hạn chế mình mắc phải dẫn đến đôi lúc xảy ra tranh cãi, nóng nảy không cần thiết.
Trong lãnh đạo chỉ đạo thực hiện kỹ năng giao tiếp và quy tắc ứng xử của
cán bộ công chức viên chức đơn vị còn thiếu sự kiểm tra giám sát.
2.1.2. Nguyên nhân
Trước hết được sự quan tâm lãnh đạo của Thường vụ Đảng ủy, Sở Y tế,
Thường vụ Thành ủy, Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh; sự phối hợp chặt chẽ của
các ban ngành, đoàn thể đã tạo nên sức mạnh tổng hợp trong việc thực hiện nhiệm
vụ khám và chữa bệnh cho nhân dân trên địa bàn.
Quá trình lãnh đạo điều hành của cấp ủy, chỉ huy đã thể hiện được sự toàn
diện, nhạy bén, linh hoạt; biết vận dụng sáng tạo các quan điểm, Chỉ thị, Nghị
19



quyết của Đảng, pháp luật Nhà nước, mệnh lệnh, quy định của ngành vào tình hình
thực tiễn của đơn vị, địa phương; chủ động xây dựng kế hoạch, chương trình hành
động, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu, biện pháp sát đúng để thực hiện; tăng cường
công tác kiểm tra, đôn đốc; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết thống
nhất nội bộ.
Làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đẩy mạnh các phong trào thi
đua, xây dựng kế hoạch chương trình hành động thực hiện tốt cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; phát huy dân chủ, nắm bắt tâm
tư nguyện vọng, khen chê kịp thời, tạo không khí cởi mở, chan hòa trong đơn vị
nhằm động viên cán bộ công nhân viên hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị và
chuyên môn giao.
Vai trò trách nhiệm của một số cấp ủy viên và bí thư các chi bộ có lúc chưa
được đề cao, nên trong lãnh đạo, quản lý, điều hành chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Chế độ sinh hoạt Đảng bộ, nhất là các chi bộ chưa thường xuyên, nội dung
sinh hoạt đơn giản, chất lượng chưa cao. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong
từng chi bộ còn ít, hàng năm phân tích chất lượng đảng viên chưa đạt yêu cầu. Đấu
tranh phê và tự phê bình của đảng viên còn yếu.
Quá trình phấn đấu rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, chấp hành ý
thức tổ chức kỷ luật trong một số ít đảng viên còn yếu, dẫn đến vi phạm kỷ luật.
2.1.3. Một số kinh nghiệm
- Một là, làm tốt công tác tư tưởng, tạo sự đoàn kết trong nội bộ trên cơ sở
giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Tranh
thủ sự chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên.
- Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; bám sát
nhiệm vụ chính trị của đơn vị để xây dựng kế hoạch. Chú trọng hiệu quả quản lý và
điều hành; phát huy vai trò của các tổ chức, đoàn thể trong đơn vị để tạo động lực
phát triển.
20



- Ba là, chú trọng công tác quy hoạch, xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao
chất lượng đội ngũ; đánh giá, bố trí và sử dụng đúng cán bộ là yếu tố quyết định sự
thành công.
- Bốn là, chú trọng công tác kiểm tra, giám sát để phát hiện và khắc phục
những sai sót, phát huy các mặt tích cực; chỉ đạo thực hiện tốt công tác thi đua
khen thưởng, kỷ luật định kỳ và đột xuất.
- Năm là, chỉ đạo các phòng ban làm tốt công tác phối hợp với Bệnh viện
tuyến trên và dưới để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, phục
vụ đắc lực nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
2.2. CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
2.2.1. Các giải pháp
Một là, xác định đúng đắn nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ và lãnh đạo
thực hiện có hiệu quả
Đây là nội dung đặc biệt quan trọng trong quá trình nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ Bệnh viện. Xác định nhiệm vụ chính trị đúng
đắn chi phối toàn bộ quá trình hoạt động của đảng bộ. Mọi hoạt động khác của tổ
chức cơ sở đảng đều xoay quanh và nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và
chuyên môn đã xác định. Nhiệm vụ chính trị còn là phương hướng các giải pháp
chính để phát triển mọi mặt ở cơ sở, là định hướng hoạt động của các tổ chức như:
chính quyền, tổ chức, đoàn thể ở đơn vị.
Để xác định đúng nhiệm vụ chính trị của đơn vị, cấp uỷ, chi bộ phải nắm
vững đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, chủ trương kế
hoạch của cấp trên; nắm chắc đặc điểm, thế mạnh, tình hình thực tế tại đơn vị, tâm
tư nguyện vọng của cán bộ công nhân viên ... Đồng thời, phải lắng nghe ý kiến của
tập thể và nhân dân, tiến hành bàn bạc, thảo luận một cách dân chủ trong đại hội
đảng bộ.
21



Sau khi xác định được nhiệm vụ chính trị, cấp uỷ cần tiến hành công tác tư
tưởng, tạo sự thống nhất trong tập thể đơn vị và chỉ đạo việc cụ thể hoá nhiệm vụ
chính trị thành chương trình, kế hoạch để thực hiện nhiệm vụ chính trị. Đồng thời
phân công cán bộ, đảng viên phụ trách từng mặt công việc để tổ chức thực hiện và
kiểm tra thực hiện.
Qua từng bước tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, đảng bộ cần tiến hành
sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, bổ sung cho nhiệm vụ chính trị hoàn chỉnh hơn.
Sau khi xác định đúng nhiệm vụ chính trị của đơn vị, cần làm tốt công tác
chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị. Trong đó, phải thường xuyên chăm lo bồi
dưỡng nhận thức và năng lực công tác của từng cán bộ, đảng viên. Thực hiện
nghiêm túc Điều lệ Đảng, giữ nghiêm kỷ luật, sự đoàn kết thống nhất trong chi bộ,
đơn vị.
Hai là, nâng cao chất lượng cấp uỷ và đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở đơn vị
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Bởi vậy,
để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ phải nâng cao chất
lượng cấp uỷ và đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt.
Chất lượng cấp uỷ, được tạo nên bởi nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến 3 yếu
tố chủ yếu là: chất lượng từng đảng viên, cấp uỷ viên; số lượng đảng viên, cấp uỷ
viên; cơ cấu cấp uỷ. Nâng cao chất lượng đảng uỷ viên, chi uỷ viên phải tác động
vào 3 yếu tố đó. Trong đó, quan trọng nhất là phải nâng cao chất lượng từng đảng
viên, cấp uỷ viên. Chú trọng công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị
và kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ về công tác đảng cho cấp uỷ viên và đảng viên.
Chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng, và lòng trung thành vào sự nghiệp
cách mạng của Đảng, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác
Hồ đã chọn. Nâng cao nhận thức cho đảng viên về chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đổi mới của Đảng. Giáo dục lối sống lành mạnh,
22



trong sáng, học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Thực hiện nếp sống "cần - kiệm - liêm - chính - chí công vô tư", chống
lại các biểu hiện tiêu cực, xa hoa, lãng phí hoặc độc đoán, chuyên quyền.
Ba là, nâng cao chất lượng sinh hoạt của đảng bộ, chi bộ; thực hiện
nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng; tăng cường giáo dục đội
ngũ đảng viên:
Sinh hoạt chi bộ, đảng bộ là hình thức hoạt động và lãnh đạo chủ yếu của chi
bộ, đảng bộ cơ sở. Chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ cơ sở không chỉ quyết định
sức sống, sự phát triển của đảng bộ, chi bộ mà còn biểu hiện năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nêu rõ, một trong
những nhiệm vụ của công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng hiện nay là
"đổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt chi bộ, đảng bộ", "nâng cao chất lượng
sinh hoạt chi bộ đảng".
Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, cần thực hiện sinh hoạt chi bộ theo
Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW, ngày 02/3/2012 của Ban Tổ chức Trung ương về
Hướng dẫn nội dung sinh hoạt chi bộ. Cần chú ý thực hiện nghiêm túc, có nền nếp
chế độ sinh hoạt định kỳ, thực hiện đúng lịch sinh hoạt hàng tháng; nội dung sinh
hoạt cần thiết thực, đi thẳng vào vấn đề trọng tâm của đơn vị. Thực hiện nghiêm
túc, đúng quy định các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tổ
chức dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng. Đổi mới hình thức sinh
hoạt chi bộ trên cơ sở kết hợp 2 hình thức sinh hoạt: chính trị, chuyên đề. Mỗi quý,
các chi bộ phải sinh hoạt chuyên đề ít nhất 01 lần để cập nhật, bồi dưỡng kiến thức
mới cho đảng viên trong chi bộ.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê bình theo nội dung
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá XI về: tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống gắn với việc thực hiện Quy định về những điều đảng
viên không được làm; về công tác tổ chức và cán bộ; việc thực hiện nguyên tắc tập
23



trung dân chủ “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”; tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức cách
mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, thực sự tiên phong, gương mẫu, đủ năng lực hoàn
thành nhiệm vụ được giao.
Bốn là, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong
sạch, vững mạnh, thực hiện tốt việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng:
Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng,
Đảng ta tiến hành cuộc vận động xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững
mạnh.
Đảng ủy phải quán triệt toàn thể cán bộ, đảng viên và quần chúng trong đơn
vị nhận thức sâu sắc về cuộc vận động xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch,
vững mạnh. Từ đó, yêu cầu mỗi một cán bộ, đảng viên và quần chúng trong đơn vị
thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước, các cuộc vận động của các cấp ngành; thực hiện nghiêm túc Điều lệ
Đảng và Quy định những điều đảng viên không được làm; thực hiện thắng lợi Nghị
quyết của Chi bộ và nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
Hàng năm, phải tiến hành đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng
theo hướng dẫn số 07-HD/BTCTW ngày 11/10/2011 của Ban Tổ chức Trung ương.
Để thực hiện tốt việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh,
cần tổ chức nghiêm túc việc đăng ký chỉ tiêu phấn đấu xây dựng chi bộ, đảng bộ
trong sạch, vững mạnh hàng năm. Trên cơ sở đó, cần thường xuyên kiểm tra việc
thực hiện và tổ chức đánh giá, phân loại tổ chức cơ sở đảng nghiêm túc, thường
xuyên rút kinh nghiệm.

24



Năm là, phát huy vai trò của chính quyền, tổ chức đoàn thể ở đơn vị
tham gia vào công tác xây dựng Đảng:
Để phát huy vai trò của chính quyền, tổ chức đoàn thể ở đơn vị tham gia vào
công tác xây dựng Đảng ở cơ sở thì cần tập trung vào những điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức
của cán bộ, quần chúng trong đơn vị về vị trí, vai trò của đảng bộ, làm cho họ hiểu
rằng, tham gia vào hoạt động nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
đảng bộ là trách nhiệm và quyền lợi của họ. Từ đó, động viên cán bộ đảng viên,
quần chúng tham gia tích cực vào xây dựng đảng bộ.
Thứ hai, Các tổ chức đoàn thể trong đơn vị tham gia vào hoạt động nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng theo chức năng, nhiệm
vụ của mình và sự lãnh đạo của tổ chức đảng.
Thứ ba, Cấp uỷ cần quan tâm lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt Quy chế dân
chủ ở cơ sở.
Thứ tư, Xây dựng quy chế rõ ràng, cụ thể và duy trì thành nền nếp việc tổ
chức cho các đoàn thể phê bình cán bộ, đảng viên và đảng bộ.
Thứ năm, Tích cực bồi dưỡng những người ưu tú trong các đoàn thể quần
chúng để kết nạp vào Đảng.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
Để đưa công tác kiểm tra, giám sát thành nền nếp, đạt chất lượng và hiệu quả
cao, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
cần chú trọng một số vấn đề sau:
Về nhận thức, phải coi trọng công tác kiểm tra, giám sát và xem đây là công
cụ đắc lực để đánh giá năng lực lãnh đạo của đảng bộ và phải được tiến hành
thường xuyên. Trong công tác kiểm tra, giám sát, cấp uỷ và mỗi đảng viên phải đổi
25


×