Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm phát huy tính tích cực của học sinh sinh viên trong dạy học toán ở trường cđsp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.08 KB, 7 trang )

PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH -SINH VIÊN
TRONG DẠY HỌC TOÁN Ở TRƯỜNG CĐSP
PROMOTING STUDENTS’ ACTIVENESS IN TEACHING
MATHEMATICS IN TEACHER TRAINING COLLEGES
Th.S LÊ THỊ XUÂN LIÊN
Trường CĐSP Quảng Trị
TÓM TẮT
Nhờ tính tích cực, tự giác, có ý thức, con người có thể đạt được nhiều tiến bộ trong
đời sống, lao động, học tập. Vì vậy, hình thành và phát triển tính tích cực xã hội là
một trong các nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục, nhằm đào tạo những con người
năng động, thích ứng và góp phần phát triển cộng đồng. Bài viết này đề cập đến
những vấn đề cơ bản của tính tích cực nói chung và tính tích cực trong học tập nói
riêng, các hình thức biểu hiện, các cấp độ, các nguyên tắc, các khía cạnh cơ bản
của tư tưởng tích cực hoá hoạt động, một số cơ sở lý luận của việc tích cực hoá
hoạt động nhận thức. Đông thời nêu lên một số phương pháp dạy học tích cực chủ
yếu trong hệ thống các PPDH. nhằm góp phần đổi mới PPDH ở trường CĐSP hiện
nay

ABSTRACT
Thanks to their activeness, self-consciousness and awareness, people can make a
great deal of progress in their lives, work and learning. Thus, creating and
developing social activeness is one of the key missions of education with the
purpose of making people active and adaptable, which in turn contributes to
community development. This article mentions the fundamentals of activeness in
general and activeness in learning in particular, its forms of expression, levels,
principles, basic features of ideas of activation, a number of theories of activating
cognitive activities. In addition, a number of key active teaching methods within the
teaching method system will be proposed so as to contribute to the present process
of teaching method innovation at teacher training colleges.

1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ VẤN ĐỀ


Tư tưởng nhấn mạnh vai trò tích cực, chủ động của người học, xem người học
là chủ thể của quá trình nhận thức đã có từ lâu. Ở thế kỷ XVII, A.Komenxki đã viết:
Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển
nhân cách… hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo viên (GV) dạy ít hơn, học sinh
(HS) học nhiều hơn”. Tư tưởng này bắt đầu rõ nét từ thế kỷ 18-19 và đã trở nên rất
đa dạng trong thế kỷ XX. Đặc biệt, trào lưu giáo dục hướng vào người học xuất hiện
đầu tiên ở Mỹ, sau đó lan sang Tây Âu và sang châu Á mà chủ yếu là ở Nhật, thể

10


hiện ở các thuật ngữ “Dạy học hướng vào người học”, “Dạy học lấy HS làm trung
tâm” …
Ở nước ta, có nhiều nhà nghiên cứu, nhà giáo dục đã có nhiều bài viết, nhiều
công trình nghiên cứu về PPDH tích cực, lấy HS làm trung tâm, phát huy tính tích
cực (TTC) của HS trong dạy học như Nguyễn Kỳ, Nguyễn Cảnh Toàn, Đặng Thành
Hưng, Trần Kiều, Thái Duy Tuyên, Nguyễn Kế Hào, Trần Bá Hoành, Lê Khánh
Bằng… Đáng chú ý là các dự án đổi mới PPDH ở phổ thông, đại học có nhiều công
trình nghiên cứu, các tài liệu tập huấn về đổi mới PPDH – phát huy TTC của người
học. Những kết quả nghiên cứu đó giúp chúng ta hiểu sâu hơn về phương pháp tích
cực và phát huy TTC của HS-SV trong dạy học nói chung, dạy học môn toán nói
riêng.

2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DẠY HỌC TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG
HỌC TẬP CỦA HS-SV
2.1. Khái niệm về tính tích cực trong học tập
a) Tính tích cực
Theo từ điển Tiếng Việt [Viện ngôn ngữ học, 1999], tích cực nghĩa là có ý
nghĩa, có tác dụng khẳng định, thúc đẩy sự phát triển. Người tích cực là người tỏ ra
chủ động, có những hoạt động nhằm tạo ra sự biến đổi theo hướng phát triển. Ví dụ:

đấu tranh tích cực, phương pháp phòng bệnh tích cực.
Theo một nghĩa khác, Tích cực là đem hết khả năng và tâm trí vào việc làm. Ví
dụ: Công tác rất tích cực.
Theo từ điển Tiếng Việt, tích cực là một trạng thái tinh thần có tác dụng khẳng
định và thúc đẩy sự phát triển. [Trần Kiều, Nguyễn Thị Lan Anh]
Tích cực là chủ động, hăng hái, nhiệt tình với nhiệm vụ được giao [từ điển
Tiếng Việt, 1994, Hoàng Phê chủ biên]
Tính tích cực (TTC) là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã
hội. Để tồn tại và phát triển, con người luôn tìm tòi, khám phá, cải biến môi trường
để phục vụ cho con người. Tuy vậy, TTC có mặt tự phát và tự giác. Theo Thái Duy
Tuyên, mặt tự phát của TTC là những yếu tố tiềm ẩn bên trong, bẩm sinh, thể hiện ở
tính tò mò, hiếu kỳ, linh hoạt trong đời sống hàng ngày. Mặt tự giác của tính tích
cực là trạng thái tâm lý TTC có mục đích và đối tượng rõ rệt, do đó có hoạt động để
chiếm lĩnh đối tượng đó. Tính tích cực tự giác thể hiện ở óc quan sát, tính phê phán
trong tư duy, trí tò mò khoa học … Nhờ TTC tự giác, có ý thức, con người có thể
đạt được nhiều tiến bộ trong đời sống và phát triển nhanh hơn so với TTC tự phát.
Vì vậy, hình thành và phát triển TTC xã hội là một trong các nhiệm vụ chủ yếu của
giáo dục, nhằm đào tạo những con người năng động, thích ứng và góp phần phát
triển cộng đồng.

11


b) Tính tích cực học tập
Học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi đi học. Thông qua quá trình học tập,
con người nhận thức được, lĩnh hội được những tri thức loài người đã tích luỹ được,
đồng thời có thể nghiên cứu và tìm ra những tri thức mới cho khoa học.
Tính tích cực trong hoạt động học tập về thực chất là tính tích cực nhận thức,
đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình
chiếm lĩnh tri thức. Trong hoạt động học tập, nó diễn ra ở nhiều phương diện khác

nhau: tri giác tài liệu, thông hiểu tài liệu, ghi nhớ, luyện tập, vận dụng, … và được
thể hiện ở nhiều hình thức đa dạng, phong phú.
Các hình thức biểu hiện đó là:
+ Xúc cảm học tập: Thể hiện ở niềm vui, sốt sắng thực hiện yêu cầu của giáo
viên, hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên; thích phát biểu ý kiến của mình
trước vấn đề nêu ra. Hay thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ
rõ.
+ Chú ý: Thể hiện ở việc tập trung chú ý học tập, lắng nghe, theo dõi mọi
hành động của giáo viên.
+ Sự nỗ lực của ý chí: Thể hiện ở sự kiên trì, nhẫn nại, vượt khó khăn khi
giải quyết nhiệm vụ nhận thức. Kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản lòng
trước những tình huống khó khăn. Có quyết tâm, có ý chí vươn lên trong học tập
+ Hành vi: Hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập: hay
giơ tay phát biểu ý kiến, bổ sung các câu trả lời của bạn; ghi chép cẩn thận, đầy đủ,
cử chỉ khẩn trương khi thực hiện các hành động tư duy.
+ Kết quả lĩnh hội: nhanh, đúng, tái hiện được khi cần, chủ động vận dụng
được kiến thức, kỹ năng khi gặp tình huống mới để nhận thức những vấn đề mới.
Đặc biệt, tính tích cực học tập có mối liên hệ nhân quả với các phẩm chất
nhân cách của người học như:
- Tính tự giác: đó là sự tự nhận thức được nhu cầu học tập của mình và có
giá trị thúc đẩy hoạt động có kết quả.
- Tính độc lập tư duy: Đó là sự tự phân tích, tìm hiểu, giải quyết các nhiệm
vụ nhận thức. Đây là biểu hiện cao của tính tích cực.
- Tính chủ động: Thể hiện ở việc làm chủ các hành động trong toàn bộ hoặc
trong từng giai đoạn của quá trình nhận thức như đặt ra nhiệm vụ, lập kế hoạch thực
hiện nhiệm vụ đó, tự đọc thêm, làm thêm các bài tập, tự kiểm tra… Lúc này, TTC
đóng vai trò như một tiền đề cần thiết để tiến hành các hoạt động học tập của người
học.

12



- Tính sáng tạo: Thể hiện khi chủ thể nhận thức tìm ra cái mới, cách giải
quyết mới, không bị phụ thuộc vào cái đã có. Đây là mức độ biểu hiện cao nhất của
tính tích cực.
Nói về TTC, người ta thường đánh giá nó ở cấp độ cá nhân người học trong
quá trình thực hiện mục đích dạy học chung. Một cách khái quát, I.F. Kharlamop
viết: “Tính tích cực trong hoạt động nhận thức là trạng thái hoạt động của học sinh,
được đặc trưng bởi khát vọng học tập, sự cố gắng trí tuệ với nghị lực cao trong quá
trình nắm vững kiến thức cho chính mình”.
2.2.Các cấp độ của tính tích cực
G.I. Sukina đã chia tính tích cực ra làm ba cấp độ.
a) Tính tích cực bắt chước, tái hiện: Xuất hiện do tác động kích thích bên
ngoài (yêu cầu của GV), nhằm chuyển đối tượng từ ngoài vào trong theo cơ chế
“hoạt động bên ngoài và bên trong có cùng cấu trúc”. Nhờ đó, kinh nghiệm hoạt
động được tích luỹ thông qua kinh nghiệm của người khác.
Tái hiện và bắt chước là TTC ở mức độ thấp. Có thể GV thay đổi một chút dữ
kiện là HS-SV lúng túng không làm được. Nhưng nó lại là tiền đề cơ bản giúp các
em nắm được nội dung bài giảng để có điều kiện nâng TTC lên mức cao hơn.
b) Tính tích cực tìm tòi: xuất hiện cùng với quá trình hình thành khái niệm,
giải quyết các tình huống nhận thức, tìm tòi các phương thức hành động trên cơ sở
có tính tự giác, có sự tham gia của động cơ, nhu cầu, hứng thú và ý chí của học sinh.
Loại này xuất hiện không chỉ do yêu cầu của GV mà còn hoàn toàn tự phát trong
quá trình nhận thức. Nó tồn tại không chỉ ở dạng trạng thái, cảm xúc mà còn ở dạng
thuộc tính bền vững của hoạt động. Ở mức độ này, tính độc lập cao hơn mức trên,
cho phép học sinh tiếp nhận nhiệm vụ và tự tìm cho mình phương tiện thực hiện.
Ý thức tìm tòi giúp các em say mê đi tìm kiến thức mới, khai thác kiến thức
đã học theo nhiều hướng khác nhau, kiểm tra lại những kiến thức đã học trước đó. Ý
thức tìm tòi là phẩm chất của trí tuệ. Đó là sự độc lập trong tư duy, tự mình phát
hiện ra vấn đề, tự mình xác định phương hướng và tìm cách giải đáp, tự mình kiểm

tra, thử lại, đánh giá kết quả đạt được. Đây cũng là tiền đề cơ bản của tính tích cực
sáng tạo.
c) Tính tích cực sáng tạo: thể hiện khi chủ thể nhận thức tự tìm tòi kiến thức
mới, tự tìm ra phương thức hành động riêng và trở thành phẩm chất bền vững của cá
nhân. Đây là mức độ biểu hiện TTC cao nhất. HS-SV có TTC sáng tạo sẽ có thể tìm
được các kiến thức mới không nhờ vào sự gợi ý của người khác, thực hiện tốt các
yêu cầu do GV đưa ra và có tính sáng tạo trong phương pháp. Ở mức này, HS-SV đã
có khả năng tư duy phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, tương tự … để tìm tòi phát
hiện kiến thức mới.

13


2.3.Về nguyên nhân của tính tích cực nhận thức
TTC nhận thức tuy nảy sinh trong quá trình học tập nhưng nó lại là hậu quả
của nhiều nguyên nhân. Nhìn chung, TTC nhận thức phụ thuộc vào những nguyên
nhân sau đây:
- Hứng thú
- Nhu cầu
- Động cơ
- Năng lực
- Ý chí
- Sức khoẻ
- Môi trường
Trong những nhân tố trên đây, có những nhân tố có thể hình thành ngay,
nhưng cũng có những nhân tố chỉ được hình thành qua một quá trình lâu dài dưới
ảnh hưởng của rất nhiều tác động. Vì vậy, việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của
học sinh đòi hỏi một kế hoạch lâu dài và toàn diện của GV trong khi dạy học .
2.4. Một số cơ sở lý luận của việc tích cực hoá hoạt động nhận thức
Tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS-SV là một trong những nhiệm vụ

chủ yếu của người thầy trong quá trình dạy học. Vì vậy, việc nghiên cứu nó về lý
luận và thực tiễn, việc vận dụng nó trong dạy học như thế nào luôn là trung tâm chú
ý của các nhà giáo dục.
Tích cực hoá là một tập hợp các hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của
người học từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể
tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập.
a) Cơ sở triết học
Theo quan điểm triết học duy vật biện chứng, mâu thuẫn là động lực thúc đẩy
sự phát triển. Một vấn đề được gợi cho HS-SV học tập chính là mâu thuẫn giữa yêu
cầu nhận thức kiến thức mới và vốn liếng kiến thức cùng kinh nghiệm sẵn có của
bản thân học sinh.
b) Cơ sở tâm lý học
Dạy học phát huy TTC của HS dựa trên cơ sở tâm lý học cho rằng nhân cách
của trẻ em được hình thành thông qua các hoạt động chủ động và sáng tạo, thông
qua các hành động có ý thức. Theo Rubestein: “Con người chỉ thực sự nắm vững cái
mà chính bản thân giành được bằng lao động của mình”. HS-SV sẽ thông hiểu và
ghi nhớ những gì đã trải qua trong hoạt động nhận thức của bản thân bằng cách này
hay cách khác. Con người chỉ bắt đầu tư duy tích cực khi đứng trước một khó khăn
về nhận thức cần phải khắc phục, một tình huống gợi vấn đề.

14


c) Cơ sở giáo dục học
Dạy học phát huy TTC của HS-SV còn phù hợp với nguyên tắc phát huy
TTC và tự giác trong giáo dục, vì nó gợi được động cơ học tập của chủ thể, phát huy
nội lực bên trong, giúp người học có năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, làm
cho việc giải quyết vấn đề không chỉ còn trong phạm trù của phương pháp dạy học
mà còn mang sắc thái của phạm trù mục tiêu, góp phần phát triển nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài.

d) Cơ sở lý thuyết hoạt động
Việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh dựa trên cơ sở “nhân
cách được hình thành thông qua hoạt động chủ động, sáng tạo và có ý thức”.
Quá trình dạy học là quá trình thống nhất, biện chứng giữa hoạt động dạy của
thầy và hoạt động học của trò, trong đó hoạt động học là trung tâm. Sự thống nhất
của các quá trình dạy và học được thể hiện ở sự tương ứng các giai đoạn hoạt động
của cả thầy và trò. Chỉ có sự kết hợp chặt chẽ giữa những tác động, điều khiển bên
ngoài của GV - tạo môi trường học tập (hình thức tổ chức dạy học, phương thức
hành động, phương tiện vật chất, thái độ tình cảm của thầy…) - với sức căng thẳng
trí tuệ bên trong của HS nhằm thích nghi với môi trường đó, mới có thể tạo nên cơ
sở cho việc học tập có kết quả.
2.5. Một số khía cạnh cơ bản của tư tưởng tích cực hoá hoạt động học tập
(TCHHĐHT) của HS-SV
Dạy học nhằm TCHHĐHT của HS dựa trên nguyên tắc “Phát huy tính tích
cực, tự giác và sáng tạo của HS-SV”. Thực chất, đó là quá trình tổ chức, hướng dẫn
HS-SV tìm hiểu, phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề trên cơ sở tự giác và được tự
do, được tạo khả năng và điều kiện để chủ động trong hoạt động học tập của học.
Sau đây là một số khía cạnh cơ bản của tư tưởng đó:
a) Đề cao tính nhân văn trong giáo dục
- Giáo dục không chỉ phục vụ số đông mà còn phục vụ cho nhu cầu của số
đông: nhu cầu về các lĩnh vực khác nhau, một người không chỉ giới hạn hiểu biết ở
một lĩnh vực mà có nhu cầu hiểu biết nhiều lĩnh vực khác nhau, làm nhiều nghề
khác nhau. Theo đó, giáo dục cung cấp cho họ những kiến thức, kỹ năng cần thiết,
với những khoảng thời gian linh hoạt, phù hợp, tôn trọng nhu cầu của mọi người.
- Con người vốn có sẵn tiềm năng, giáo dục cần và có thể khai thác tối đa
tiềm năng đó, đặc biệt là tiềm năng sáng tạo. Vì vậy có thể nói học tập là sáng tạo.
Giáo dục giúp con người qua học tập trở thành con người có tri thức và kỹ năng
mới, tạo điều kiện cho con người thể hiện mình trên các lĩnh vực, phát triển nhân
cách con người. Trên cơ sở hiểu biết, con người sống tốt hơn, có ích hơn cho bản
thân và cộng đồng.


15


- Giáo dục tạo ra cho người học một môi trường, là tổ hợp các thành tố, để họ
có thể tự giác, tự do (trong suy nghĩ, trong việc làm, trong tranh luận hướng tới mục
đích mà họ tự giác chấp nhận), tự khám phá. Các thành tố đó gồm: hình thức học tập
đa dạng; nội dung học tập phù hợp với khả năng và mong muốn của người học; quan
hệ thầy, trò là bè bạn, hợp tác, dân chủ, bình đẳng;… Tuy nhiên, sự tự giác, tự do, tự
khám phá đó phải nằm trong khuôn khổ có sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội, giữa nhu cầu người học với nhu cầu phát triển quốc gia; giữa hiệu
quả tác động của GV với mục tiêu xã hội.
b) Đề cao tính hoạt động
Tối đa hoá sự tham gia hoạt động của người học với phương thức chỉ đạo là
tự nhận thức, tự phát triển, tự thực hiện, tự kiểm tra, tự đánh giá. Qua đó hình thành
và phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của mỗi học sinh. Bốn yêu cầu đối với khía
cạnh trên là:
- Xác lập vị trí chủ thể của người học, bảo đảm tính tự giác, tích cực, sáng tạo
của hoạt động học tập.
- Dạy học phải dựa trên sự nghiên cứu tác động của những quan niệm và kiến
thức sẵn có của người học, nhằm khai thác những mặt thuận lợi, hạn chế mặt khó
khăn, nghiên cứu những chướng ngại hoặc sai lầmcó thể có của những kiến thức đó
trong quá trình học tập của HS.
- Dạy học không chỉ nhằm mục đích là tri thức và kỹ năng bộ môn, mà quan
trọng hơn cả là dạy việc học, dạy cách học cho HS-SV.
- Quá trình dạy học phải bao hàm cả việc dạy cách tự học thông qua việc để
HS-SV tự hoạt động nhằm đáp ứng các nhu cầu của bản thân và của xã hội.
c) Đề cao vai trò thúc đẩy (theo nghĩa kích thích, tạo điều kiện cho sự phát
triển) tiềm năng ở mỗi HSSV của thầy giáo.
Cụ thể hoá ở các nhiệm vụ sau:

- Thiết kế: Thầy giáo xác định, hoạch định toàn bộ kế hoạch giảng dạy (mục
đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức…).
- Uỷ thác: Thầy giáo biến được ý đồ dạy của mình thành nhiệm vụ nhận thức
tự nguyện, tự giác của HS-SV và HS-SV đảm nhiệm quá trình hoạt động để kiến tạo
tri thức.
- Điều khiển: Thầy hướng dẫn, tổ chức quá trình học tập sao cho HS-SV tự
tìm tòi, tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ đó.
- Thể thức hoá: đánh giá hoạt động học tập của HS-SV, xác định vị trí kiến
thức mới trong hệ thống tri thức đã có và hướng dẫn khả năng vận dụng kiến thức
đó.

16



×