BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
NGUYỄN THÙY DUNG
SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƢ DUY TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (VẬN DỤNG QUA PHẦN LỊCH SỬ
THẾ GIỚI THỜI NGUYÊN THỦY, CỔ ĐẠI VÀ TRUNG ĐẠI,
SGK LỊCH SỬ LỚP 10 – CHƢƠNG TRÌNH CHUẨN)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
SƠN LA, NĂM 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
NGUYỄN THÙY DUNG
SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƢ DUY TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (VẬN DỤNG QUA PHẦN LỊCH SỬ
THẾ GIỚI THỜI NGUYÊN THỦY, CỔ ĐẠI VÀ TRUNG ĐẠI,
SGK LỊCH SỬ LỚP 10 – CHƢƠNG TRÌNH CHUẨN)
Nhóm ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học Lịch sử
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Lê Thị Dung
SƠN LA, NĂM 2015
LỜI CẢM ƠN
Đề tài hoàn thành với sự giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi của Ban chủ nhiệm
khoa Sử - Địa, các thầy cô giáo trong khoa Sử - Địa, đặc biệt là Tổ Phương pháp Lịch
sử. Tôi xin bày tỏ biết ơn chân thành về sự giúp đỡ quý báu đó.
Với tất cả tình cảm của mình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo
hƣớng dẫn – Th.S Lê Thị Dung người đã trực tiếp hướng hẫn, chỉ bảo để đề tài tôi
hoàn thành.
Tôi cũng xin chân thành Phòng khoa học và thư viện trường Đại Học Tây Bắc
đã tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp tài liệu trong quá trình làm đề tài.
Cuối cùng bày tỏ lời cảm ơn đến gia đình, tập thể lớp K52 - ĐHSP Lịch sử và
người thân đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình làm
đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2015
Ngƣời thực hiện
Nguyễn Thùy Dung
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐC
Đối chứng
HS
Học sinh
GV
GV
PPDH
Phƣơng pháp dạy học
TN
Thực nghiệm
THPT
Trung học phổ thông
SGK
Sách giáo khoa
Nxb
Nhà xuất bản
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................4
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ..........................................................................................5
6. Đóng góp của đề tài ...................................................................................................5
7. Cấu trúc của đề tài.......................................................................................................5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG SƠ ĐỒ
TƢ DUY TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG ..........................................................................................................................6
1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................................6
1.1.1. Quan niệm về sơ đồ tư duy ...................................................................................6
1.1.2. Cơ sở xuất phát .....................................................................................................7
1.1.2.1. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực .............................7
1.1.2.2. Đặc điểm nhận thức, tâm lý học sinh trung học phổ thông................................9
1.1.2.3. Đặc trưng của bộ môn lịch sử ..........................................................................10
1.1.3. Thiết kế sơ đồ tư duy ..........................................................................................12
1.1.3.1. Quy trình thiết kế SĐTD ...................................................................................12
1.1.3.2. Phương tiện thiết kế sơ đồ tư duy .....................................................................15
1.1.3.3. Các hình thức thiết kế sơ đồ tư duy ..................................................................16
1.1.3.4. Một số yêu cầu khi thiết kế sơ đồ tư duy ..........................................................26
1.1.4. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử .............27
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................................29
1.2.1 Thực trạng của việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử ở trường trung
học phổ thông hiện nay ................................................................................................29
1.2.2. Nguyên nhân thực trạng ....................................................................................31
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƢ DUY TRONG DẠY
HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (vận dụng qua phần
lịch sử thế giới thời nguyên thủy, cổ đại và trung đại, SGK Lịch sử lớp 10 –
Chƣơng trình Chuẩn) ..................................................................................................33
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của khóa trình lịch sử thế giới thời nguyên
thủy, cổ đại và trung đại (SGK Lịch sử lớp 10 – Chƣơng trình Chuẩn)................33
2.1.1. Vị trí .....................................................................................................................33
2.1.2. Mục tiêu ..............................................................................................................33
2.1.3 Nội dung ...............................................................................................................34
2.2. Một số biện pháp sử dụng sơ đồ tƣ duy trong dạy học lịch sử ở trƣờng trung
học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử thế giới thời nguyên thủy, cổ đại và
trung đại, SGK Lịch sử lớp 10 – Chƣơng trình Chuẩn) ..........................................36
2.2.1. Sử dụng sơ đồ tư duy trong các khâu của quá trình dạy học...........................36
2.2.1.1. Sử dụng sơ đồ tư duy trong bài nghiên cứu kiến thức mới ..............................36
2.2.1.2. Sử dụng sơ đồ tư duy trong bài ôn tập, sơ kết, tổng kết ...................................41
2.2.1.3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong bài kiểm tra, đánh giá ..........................................43
2.2.2. Hướng dẫn HS thành lập và sử dụng sơ đồ tư duy để ghi chép tài liệu, hình
thành phương pháp tự học...........................................................................................45
2.3. Thực nghiệm sƣ phạm..........................................................................................48
2.3.1. Mục đích thực nghiệm .......................................................................................48
2.3.2. Nội dung thực nghiệm ........................................................................................48
2.3.3. Phương pháp thực nghiệm ................................................................................48
2.3.4. Tổ chức tiến hành thực nghiệm.........................................................................49
2.3.5. Kết quả thực nghiệm ..........................................................................................49
KẾT LUẬN ..................................................................................................................52
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của ngành giáo dục sau năm 2015. Đổi mới không có nghĩa là loại bỏ các
phương pháp truyền thống mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và
hạn chế nhược điểm của chúng, đồng thời đưa những PPDH tích cực vào trong dạy
học. Hiện nay, chương trình đào tạo ở các trường phổ thông chứa đựng một khối lượng
kiến thức lớn mà trong một thời gian ngắn học sinh (HS) không thể lĩnh hội hết. Vì
vậy, vấn đề cấp bách là phải tìm ra các phương pháp giảng dạy mới đảm bảo mối liên
hệ giữa quá trình dạy và quá trình học đem lại hiệu quả tối ưu.
Bộ môn Lịch sử là một trong những bộ môn khoa học quan trọng không thể
thiếu được ở trường phổ thông. Môn học không chỉ cung cấp cho HS những kiến thức
cơ bản về quá trình phát triển của lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc, trang bị cho HS
những kỹ năng cần thiết mà còn góp phần hình thành nhân cách cho HS, giúp các em
phát triển toàn diện. Tuy nhiên, trong những năm qua việc giảng dạy và học tập lịch
sử ở trường phổ thông nước ta mặc dù đã có những cải thiện đáng kể song vẫn còn tồn
tại nhiều bất cập: Chất lượng dạy học lịch sử giảm sút, hiệu quả, mục tiêu dạy học bộ
môn chưa đạt được, tình trạng HS không thích học lịch sử, chán học sử, sợ sử là một
hiện tượng phổ biến. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề đổi mới toàn diện các
khâu của quá trình dạy học lịch sử, đặc biệt đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề
then chốt, chưa được quan tâm đúng mức, chưa chú ý đến phát triển và đánh giá toàn
diện năng lực của HS. Đổi mới PPDH trở thành vấn đề “nhạy cảm” được cả xã hội
quan tâm.
Ngày nay, để đáp ứng nhu cầu đổi mới PPDH, nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy
học tích cực ra đời. SĐTD là một PPDH khá mới chưa được áp dụng rộng rãi trong
dạy học lịch sử ở nước ta. Đây là PPDH chú trọng vào việc phát hiện và xác định các
mối quan hệ, cấp bậc kiến thức. Phương pháp SĐTD không chỉ dừng lại ở việc cung
cấp kiến thức cho HS mà còn giúp các em xác định mối quan hệ giữa các kiến thức,
kiến thức trọng tâm… Đồng thời, thông qua phương pháp SĐTD hướng dẫn cho các
em một phương pháp tự học, tích cực, hiệu quả cũng như rèn luyện cho các em những
kỹ năng cơ bản cần thiết trong học tập và trong cuộc sống. Qua đó, từng bước nâng
cao chất lượng dạy học môn Lịch sử ở nhà trường phổ thông.
1
Với mong muốn tìm ra một phương pháp tích cực phù hợp với từng đối tượng
HS, phần nào làm thay đổi suy nghĩ của HS về môn Lịch sử, giúp HS dễ học, dễ hiểu
tăng hứng thú trong quá trình học tập và đạt kết quả tốt, nhằm nâng cao chất lượng dạy
học của nền giáo dục Việt Nam, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Sử dụng sơ đồ tư
duy trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử
thế giới thời nguyên thủy, cổ đại và trung đại, SGK Lịch sử lớp 10 – Chương trình
Chuẩn)” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tài liệu nước ngoài
SĐTD là một phương pháp dạy học mới thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học. Ở mỗi thời kì lịch sử khác nhau, các tác giả lại có những quan
niệm, cách nhìn nhận khác nhau về SĐTD, tiêu biểu nhất là các công trình:
Ấn phẩm “Sử dụng trí tuệ của bạn” của tác giả Tony Buzan – người được coi
là cha đẻ của phương pháp sử dụng SĐTD lần đầu tiên giới thiệu với thế giới về
SĐTD vào đầu năm 1974. Tác phẩm đã giới thiệu cho bạn đọc quan niệm về SĐTD,
những ưu điểm khi sử dụng SĐTD trong dạy học, đặc biệt tác giả còn hướng dẫn cho
độc giả quy trình thiết kế một SĐTD một cách khá chi tiết.
Tony Buzan cũng là tác giả của quyển sách nổi tiếng về SĐTD “ How to mind
map” và dịch sang tiếng Việt với tên gọi “ Lập sơ đồ tư duy”. Cuốn sách đã nghiên
cứu sâu về bộ não, trí nhớ, tìm ra quy luật khi xây dựng SĐTD gồm nhiều nhánh, giúp
bộ não ghi nhớ các sự kiện một cách hệ thống, giúp luyện tập trí não.
Từ năm 1975, Joyoe Wycoff đã kết hợp chặt chẽ với Tony Buzan để phát triển
SĐTD thành một công cụ đào tạo tư duy hiệu quả và lôgic. Trong cuốn “Mindmapping
Ứng dụng sơ đồ tư duy” , Joyoe Wycoff đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể trong hành
trình khám phá khả năng của bộ não, khám phá bản thân đồng thời giúp chúng ta ghi
nhớ, thuyết trình, học tập, lập kế hoạch… trong công việc cũng như trong cuộc sống
hàng ngày bằng cách lập SĐTD.
Sau này nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu lý thuyết và kiểm nghiệm thực tiễn
đã thấy rõ hiệu quả khi dạy học với SĐTD như trong cuốn sách “ Sắp xếp ý tưởng với
sơ đồ tư duy”, Luc De Brabandeer đã đưa ra cách sắp xếp ý tưởng trong việc quản lý
công việc hằng ngày, ghi chú có hiệu quả, quản lý các dự án lập SĐTD bằng máy tính.
2
Bên cạnh đó còn có Adam khoo với cuốn “Tôi tài giỏi bạn cũng thế” cũng đã dạy cách
sử dụng SĐTD trong học tập để đạt hiệu quả cao, giúp tăng cường khả năng ghi nhớ
của HS. Với các tài liệu trên đã cho thấy việc ứng dụng SĐTD vào trong quá trình học
hoàn toàn hoàn toàn hợp lý, có thể ứng dụng vào tất cả các cấp học, các môn học.
Geoff Petty trong cuốn “Dạy học ngày nay” đề xuất một trong những PPDH
hiệu quả là hệ thống hoá kiến thức bằng sơ đồ lịch sử. Tác giả cho rằng “các kiểu sơ
đồ (Sơ đồ mạng - Spider Map, Sơ đồ khái niệm - Concept Map, Sơ đồ tư duy của Tony
Buzan’s Mind Map) rất hữu ích trong việc trình bày thông tin dưới dạng hình ảnh và
dễ dàng cho việc ghi nhớ kiến thức đã học”. Vì vậy, GV hoàn toàn có thể sử dụng các
kiểu sơ đồ (đặc biệt là SĐTD) trong quá trình dạy học.
Như vậy, qua các công trình nghiên cứu trên, các nhà khoa học đều có một cái
nhìn rất cơ bản và khá toàn diện về vấn đề sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học .
Trên cơ sở kế thừa, phát triển các quan điểm giữa các thế hệ, một khung lí thuyết
chung về SĐTD được hình thành và được vận dụng rộng rãi trong các khâu khác nhau
của quá trình dạy học.
2.2. Tài liệu trong nước
Ở trong nước đã có công trình nghiên cứu và vận dụng SĐTD trong dạy học.
Người đi tiên phong trong lĩnh vực này phải kể đến Tiến sĩ Trần Đình Châu và Tiến sĩ
Đặng Thị Thu Thủy với nhiều bài báo khoa học và nhiều cuốn sách như “Thiết kế sơ
đồ tư duy dạy - học môn toán”, “ Dạy tốt - học tốt các môn học bằng sơ đồ tư duy”
(Dùng cho GV, sinh viên sư phạm, HS trung học cơ sở và THPT)... Trong đó, đáng
lưu ý nhất là cuốn “ Dạy tốt - học tốt các môn học bằng sơ đồ tư duy”, các tác giả đã
nêu ra vai trò của SĐTD trong dạy - học, giới thiệu cách thiết kế SĐTD trên phần mềm
và trên bảng phụ, giấy, bìa và cách tổ chức dạy học với SĐTD. Những cuốn sách trên
do nhà giáo dục phát hành đã thu hút được sự quân tâm của các cấp quản lý giáo dục
và đội ngũ thầy cô, phụ huynh và các em HS.
Tác giả Nguyễn Chí Thuận trong đề tài “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học
lịch sử ở trường phổ thông” trên cơ sở nghiên cứu lí luận chung về SĐTD, tìm hiểu
khá chi tiết về thực trạng sử dụng SĐTD ở trong các nhà trường phổ thông hiện nay,
ông đã đưa ra được một số biện pháp sử dụng SĐTD trong dạy học lịch sử nhằm gây
hứng thú học tập cho HS.
3
Nhận thấy được hiệu quả khi sử dụng SĐTD vào dạy học, nhiều bài báo về
SĐTD xuất hiện như bài “Khả năng vận dụng sơ đồ tư duy vào dạy học từ loại Tiếng
Việt” của GV Phan Thị Quỳnh Nga, GV trường Trung học sơ cở Huỳnh Thúc
Kháng – thành phố Huế ( tạp chí giáo dục số 348). Tác giả đã đưa ra khái niệm về
SĐTD và khả năng vận dụng SĐTD vào trong các bước khâu dạy học tiếng Việt.
Ngoài ra, còn có nhiều bài báo của các GV khác như:“ Ứng dụng sơ đồ tư duy
trong dạy học Lịch Sử ở trường Trung học cơ sở” của ThS. Nguyễn Thị Thanh ThúyTrường Cao đẳng sư phạm Hà Nội (tạp chí giáo dục số 337), bài báo đã nêu ra khái
niệm cũng như vai trò của SĐTD trong dạy học, quy trình sử dụng SĐTD trong dạy
học Lịch sử ở trường THCS. Bài báo “ Sử dụng sơ đổ tư duy hướng dẫn học sinh ôn
tập tổng kết kiến thức phần kim loại - Hóa học 12” của Tiến sĩ Vũ Thị Thu Hoài –
Trường Đại học Giáo dục - Đại học quốc gia Hà Nội (tạp chí giáo dục số 340), tác
giả đã giới thiệu về khái niệm và phương pháp thiết lập SĐTD, cách thức sử dụng
SĐTD trong dạy học Hóa học.
Trong các đề tài cũng như các bài báo viết về việc sử dụng SĐTD trong dạy học
đều cho thấy hiệu quả do SĐTD đem lại trong dạy học, góp phần quan trọng vào đổi
mới phương pháp dạy học. Phần lớn các nghiên cứu về SĐTD vào dạy học ở nước ta
mới dừng lại ở các bài báo, sáng kiến kinh nghiệm trong một số môn như: Toán, Lịch
sử, tiếng Việt, Hóa học chỉ mới tìm hiểu về mặt lí luận và ứng dụng vào một số bài học
cụ thể.
Từ những cách nhìn đa chiều trên, chúng ta thấy rằng việc vận dụng lý thuyết
SĐTD vào trong quá trình dạy học ở Việt Nam đã được các nhà giáo dục quan tâm
nghiên cứu và đưa vào ứng dụng trong thực tế giảng dạy.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc sử dụng SĐTD trong dạy học lịch sử phần Lịch sử thế giới thời nguyên
thủy, cổ đại và trung đại, SGK lịch sử 10 - Chương trình Chuẩn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận chung về SĐTD. Trên cơ sở đó
chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số cách thức sử dụng SĐTD trong dạy học phần Lịch sử
thế giới thời nguyên thủy, cổ đại và trung đại, SGK lịch sử 10 - Chương trình Chuẩn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4
4.1. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng phương pháp SĐTD vào dạy học lịch sử phần Lịch sử thế giới thời
nguyên thủy, cổ đại và trung đại, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của HS qua
đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở các trường phổ thông.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về sử dụng SĐTD trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
- Khảo sát thực tiễn đánh giá thực trạng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tôi đã sử dụng những phương
pháp chủ yếu :
* Phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Nghiên cứu lý luận có liên quan đến đề tài .
- Đọc và phân tích các tài liệu là các bài viết trên các tạp san chuyên ngành, các
luận án, các báo cáo khoa học, các tư liệu… có liên quan đến đề tài. Từ đó, tổng hợp,
hệ thống rút ra các kết luận cần thiết phục vụ cho tiến trình nghiên cứu.
* Phương pháp điều tra khảo sát :
Sử dụng phiếu điều tra đối với GV và HS để tìm hiểu thực trạng việc sử dụng
SĐTD trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
* Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Sử dụng SĐTD để dạy học một số bài trong phần Lịch sử thế giới thời nguyên
thủy, cổ đại và trung đại, SGK lịch sử 10 - Chương trình Chuẩn nhằm xác định tính
khả thi của các biện pháp sư phạm đã đề xuất.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài hoàn thành sẽ là nguồn tài liệu tham khảo thiết thực cho cả GV, sinh
viên, HS vận dụng để việc đổi mới PPDH thực sự góp phần nâng cao hiệu quả dạy học
lịch sử ở trường THPT.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy
học lịch sử ở trường trung học phổ thông.
5
Chương 2: Một số biện pháp sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử ở trường
trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử thế giới thời nguyên thủy, cổ đại và
trung đại, SGK Lịch sử lớp 10 – Chương trình Chuẩn).
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
SƠ ĐỒ TƢ DUY TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan niệm về sơ đồ tư duy
SĐTD còn gọi là lược đồ tư duy, bản đồ tư duy là một khái niệm xuất hiện cách
đây vài thế kỉ nhưng phải đến những năm 60 của thế kỉ XX, khái niệm này mới chính
thức được phát triển, phổ biến rộng rãi trong công chúng, đặc biệt là trong môi trường
giáo dục. Do đó, cần phải có một quan niệm đúng đắn về SĐTD trong công tác dạy
học lịch sử ở nhà trường phổ thông hiện nay.
Theo tác giả Tony Buzan, SĐTD là phương pháp được đưa ra như là một phương
tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não, liên lạc, liên hệ các dữ
kiện với nhau. Sự liên kết này tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả ý tưởng trung tâm
của người dạy (hay người học) một cách đầy đủ và rõ ràng nhất.
Ở một khía cạnh khác, tác giả Quảng Văn Hải lại cho rằng SĐTD là phương pháp
kết nối mang tính đồ họa có tác dụng lưu giữ, sắp xếp và xác lập ưu tiên đối với mỗi
loại thông tin bằng cách sử dụng từ hay hình ảnh then chốt hoặc gợi nhớ nhằm làm bật
lên những kí ức cụ thể và phát sinh các ý tưởng mới. Mỗi chi tiết gợi nhớ trong SĐTD
là chìa khóa khai mở các sự kiện, ý tưởng và thông tin, đồng thời khơi nguồn tiềm
năng của bộ não kì diệu.
Từ những cách nhìn đa chiều trên, theo chúng tôi, SĐTD là một mạng liên kết
các ý tưởng với nhau. Đây là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý
tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử
dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc
biệt, SĐTD không yêu cầu một tỷ lệ, một cách thức xây dựng mà linh hoạt trong việc
sử dụng hình ảnh màu sắc, đường nét, từ ngữ cách bố trí, sắp xếp sao cho phù hợp với
từng đối tượng, với khả năng tư duy khác nhau của người học.
6
Từ một hình ảnh, một từ khóa ở trung tâm, việc triển khai ý tưởng thông qua
nhánh, thể hiện các ý chính xoay quanh chủ đề, các nhánh phụ được phát triển và mở
rộng không ngừng, có thể thêm bớt các nhánh thể hiện kích cỡ độ đậm nhạt của
màu sắc hình ảnh cho những gì đang muốn lưu ý, nhấn mạnh làm nổi bật các dữ
kiện, chi tiết. Với những ưu điểm trên, chúng ta có thể vận dụng SĐTD vào hỗ trợ
dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa sau
mỗi chương, mỗi kỳ học hoặc tóm lược một cuốn sách, có thể sử dụng trong kiểm
tra – đánh giá cũng như giúp lập kế hoạch công tác…
SĐTD là bước đi kế tiếp giúp ta phát triển từ lối tư duy hàng dọc “một chiều” đến
tư duy hàng ngang “hai chiều” đến tư duy mở rộng “đa chiều”. Ta có thể so sánh
SĐTD với bản đồ một thành phố. Màu trung tâm SĐTD giống như trung tâm của
thành phố và tượng trưng cho ý tưởng quan trọng nhất. Những đường chính tỏa ra từ
trung tâm tượng trưng cho các nhánh chính trong quá trình tư duy, các con đường nhỏ
hơn hay các nhánh đường tượng trưng cho các nhánh tư duy tỏa ra từ các nhánh chính
và cứ tiếp tục như vậy SĐTD phát triển, mở rộng đến khi hết ý tưởng …
Nghiên cứu SĐTD trên, chúng ta thấy rõ ràng bất kỳ từ khóa hay hình ảnh chủ
đạo nào cũng có thể làm trung tâm phát sinh một SĐTD mới và từ đó lại tiếp tục mở
rộng. Ngoài ra, việc mở rộng cũng hoàn toàn bác bỏ quan niệm rằng phát sinh ý tưởng
khó hơn nhiều so với việc tổ chức và biên soạn ý tưởng. Khả năng của SĐTD là vô
hạn, khó khăn nhất là quyết định điểm dừng.
Ngược lại, sự ghi chú tuần tự theo dạng liệt kê hoàn toàn đối nghịch với cơ chế tư
duy, bởi khi ta phát sinh một ý tưởng thì nó lại cắt rời các mối liên kết hệ thống với
những ý tưởng đi trước và theo sau. Việc liên tục cắt rời các ý tưởng đã kìm hãm quá
trình tư duy tự nhiên. Do đó, việc lập SĐTD sẽ phát huy được tối đa khả năng sáng tạo
của mỗi người.
1.1.2. Cơ sở xuất phát
1.1.2.1. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực
Từ cuối những năm 50 của thế kỉ XX trở về trước, nền giáo dục Việt Nam bị chi
phối bởi tư tưởng dạy học “lấy GV làm trung tâm”. Theo lối dạy học này, người GV
giữ vai trò độc tôn về chuyên môn, và tất nhiên độc tôn cả về phương pháp dạy học.
Có thể nói, GV là yếu tố chủ chốt quyết định việc dạy và học có chất lượng. Vai trò
của người học bị xem nhẹ, “chỉ là những con ong chăm chỉ” lắng nghe và ghi chép lời
7
giảng giải của thầy. Cách dạy và học như vậy không những không phát huy được tính
tích cực học tập của HS mà còn làm cho các em mất dần đi tư duy sáng tạo, độc lập
của mình. Sự tồn tại lâu dài của lối dạy học này đưa đến hệ quả làm cho nền giáo dục
Việt Nam chìm đắm trong tụt hậu, yếu kém, HS ra trường không có được năng lực
thiết yếu để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của xã hội. Trước thực trạng
trên, đòi hỏi giáo dục Việt Nam cần có sự thay đổi. Và vấn đề đổi mới PPDH theo
hướng tích cực cũng được manh nha từ đó. Tuy nhiên, phải đến thập niên đầu tiên của
thế kỉ XXI, đổi mới PPDH mới thực sự trở thành một cuộc cách mạng, điều này được
thể hiện rõ nét trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa
XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW): “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức,
kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.
Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập
nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp
sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa,
nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong
dạy và học”. Kể từ đây, các PPDH tích cực được vận dụng rộng rãi trong quá trình dạy
học ở các nhà trường phổ thông.
PPDH tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những
phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của người học. Đổi mới PPDH không có nghĩa là chúng ta loại bỏ tất cả các PPDH
truyền thống. Hiện nay, để tiến kịp với thời đại, ngoài việc duy trì các PPDH truyền
thống, chúng ta nên sử dụng một số PPDH hiện đại như dạy học dự án, dạy học nêu
vấn đề, phương pháp động não, phương pháp đóng vai… đặc biệt là phương pháp sử
dụng SĐTD vào trong quá trình dạy học nhằm phát huy tính tực giác, tích cực, độc lập
của HS trong học tập. Có thể nói, cùng với đổi mới công tác kiểm tra – đánh giá, đổi
mới PPDH đang là vấn đề sống còn giữ vai trò then chốt quyết định nâng cao chất
lượng dạy học.
Thực hiện tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, trong các giờ học GV
phải xác định nhiệm vụ là phải đổi mới phương pháp và sử dụng phương tiện dạy học
theo hướng tích cực, đầu tư nhiều hơn nữa vào công tác thiết kế bài dạy và tổ chức dạy
học trên lớp theo tinh thần tổ chức các hoạt động học tập cho HS. GV cần phải sử
8
dụng linh hoạt SĐTD trong bài nghiên cứu kiến thức mới, bài ôn tập sơ kết, tổng kết,
bài kiểm tra – đánh giá… để gây hứng thú học tập, nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở
trường phổ thông.
1.1.2.2. Đặc điểm nhận thức, tâm lý học sinh trung học phổ thông
* Đặc điểm nhận thức
Quá trình dạy học về bản chất là quá trình nhận thức của HS. Quá trình nhận
thức của HS về cơ bản cũng diễn ra theo quy luật nhận thức chung của xã hội loài
người. Quy luật này được Lênin chỉ rõ: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu
tượng, từ tư duy trìu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận
thức tâm lý, nhận thức hiện thực khách quan”.
Quá trình nhận thức của HS là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào trong
ý thức của các em và có tính độc đáo so với quá trình nhận thức chung của xã hội loài
người, của các nhà khoa học. Nó được tiến hành trong quá trình dạy học với những
điều kiện sư phạm nhất định. Quá trình nhận thức của HS không phải tìm ra cái mới
cho nhân loại mà phải tái tạo những tri thức của loài người trong bản thân mình từ kho
tàng hiểu biết chung của xã hội loài người.
Tri trức lịch sử có những đặc trưng riêng khác biệt khác so với các môn học
khác. Lịch sử bao gồm các sự kiện, hiện tượng đã diễn ra trong quá khứ, nó đòi hỏi
tính trìu tượng rất cao, óc tưởng tượng phong phú để dựng lại một hình ảnh chân thực
về sự kiện đã trải qua mà không còn lặp lại nữa. Để “trực quan sinh động” thì PPDH
của GV đóng vai trò quan trọng. Thông thường, ở trường phổ thông HS tri giác các sự
kiện hiện tượng lịch sử qua lời giảng của thầy, đồ dùng trực quan, sách giáo khoa. Do
đó, HS buộc phải thực hiện các thao tác đơn giản như nghe, quan sát, tri giác từ đó
hình dung và tưởng tượng lại các sự kiện đã diễn ra trong quá khứ như thế nào. Tiếp
đó đề hoàn thành quá trình nhận thức lịch sử, HS phải chuyển sang một giai đoạn nhận
thức cao hơn - nhận thức lý tính: phân tích, tổng hợp, so sánh… vạch ra dấu hiệu bản
chất. Cuối cùng, qua quá trình nhận thức HS phải hiểu được bản chất của sự kiện, hiện
tượng lịch sử, biết đánh giá nhìn nhận chúng một cách hợp lý. Do đó, việc vận dụng
SĐTD vào trong quá trình dạy học là phù hợp với con đường nhận thức của HS, đồng
thời, đây còn là thước đo hữu hiệu để “đo” khả năng “biết”, “hiểu” và “vận dụng” của
HS trong mỗi tiết học.
9
* Đặc điểm tâm lý của học sinh trung học phổ thông
So với HS Trung học cơ sở, HS THPT đã có sự trưởng thành về mặt nhận thức,
tư duy, tình cảm và giao tiếp ở các em đã được hình thành ý thức về bản thân, tính phê
phán…
Ở độ tuổi này các em thích thể hiện khả năng của mình trước tập thể, thích
khám phá cái mới một cách chủ động trong các giờ học, thích tham gia vào các hoạt
động tự khai thác, chiếm lĩnh kiến thức một cách tích cực, không còn thụ động. Tuy
nhiên, GV cũng cần phải chú ý năng lực tư duy của các em, vì ở độ tuổi này năng lực
tư duy của các em vẫn chưa hoàn thiện đôi khi còn nóng vội thiếu chuẩn xác. Do vậy,
cần có sự hướng dẫn của GV để giúp các em nhanh chóng hoàn thiện khả năng nhận
thức của mình.
Đối với các em HS lớp 10 THPT, các em có độ tuổi từ 15 đến 16 tuổi và đang
trong giai đoạn phát triển hình thành và phát triển nhận thức mạnh mẽ. Ở giai đoạn này
các em bắt đầu chuyển sang một nấc thang học tập mới từ Trung học cơ sở sang
THPT. Chính vì thế mọi tác động của GV trong giai đoạn này đều ảnh hưởng đến sự
phát triển tâm lý của các em.
Ở lứa tuổi này các em đã hình thành được khả năng quan sát, phân tích, khái
quát và khả năng tự học tự nghiên cứu tri thức dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của GV.
Với đặc điểm như trên các em thích đi sâu tìm hiểu các sự kiện cũng như lý giải các
sự kiện đó, các em thường tìm hiểu đến nguồn gốc các vấn đề.
Tuy nhiên, ở lứa tuổi này tâm lý của các em vẫn chưa ổn định, không thích
học tập gò bó quá nhiều, đôi lúc còn có tư tưởng “ mộng mơ” nên các em rất mất tập
chung, phân tán trong học tập.
Với những đặc điểm tâm sinh lí nêu trên đặt ra yêu cầu khi đổi mới PPDH phải
tìm ra phương pháp dạy học hiện đại, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của các em HS
THPT. Vận dụng SĐTD trong quá trình dạy học sẽ đáp ứng được yêu cầu đó.
1.1.2.3. Đặc trưng của bộ môn lịch sử
Như chúng ta đã biết bộ môn lịch sử có những đặc trưng riêng so với các môn
văn hóa khác. Nói đến lịch sử là nói đến những gì đã diễn ra trong quá khứ, không bao
giờ lặp lại, cũng không thể mô phỏng hình hóa trong phòng thí nghiệm đúng như nó đã
tồn tại. Đặc điểm của tri thức lịch sử đã chi phối nhận thức lịch sử. Nhiệm vụ của
người giảng dạy lịch sử là làm thế nào để HS dễ dàng tưởng tượng, hình dung lại
10
những sự kiện, hiện tượng đó đúng như nó từng tồn tại. Đây không phải yêu cầu dễ đối
với GV lịch sử. Mặc khác, học lịch sử không thể dừng lại ở việc HS nắm các sự kiện
một cách chung chung hay điểm qua một vài sự kiện chính, mà phải nhận thức được
toàn bộ nội dung cơ bản của lịch sử xã hội loài người. Từ đó HS thể tìm ra được mối
liên hệ bản chất giữa các sự kiện để so sánh, đánh giá, nhận xét… theo tư duy của
mình. Hay nói cách khác, học lịch sử không chỉ cần “biết”, “nhớ” mà phải đi tới
“hiểu” những quy luật về bài học kinh nghiệm.
Như vậy, sức mạnh của tri thức không chỉ giới hạn ở việc giúp cho HS có biểu
tượng đầy đủ chính xác về bức tranh quá khứ mà các em không trực tiếp quan sát.
Ngoài ra, sức mạnh của tri thức lịch sử làm cho người học có ý thức về xã hội, suy
nghĩ cảm thụ về những gì đã xảy ra để có trách nhiệm với hiện tại và định hướng cho
tương lai tốt đẹp hơn “quá khứ thuộc về những người xây dựng tương lai” ( Mác).
Tri thức lịch sử là một trong những nền văn hóa quan trọng của nền văn hóa
nhân loại. Học lịch sử không chỉ biết lịch sử nước mình mà còn hiểu biết về lịch sử
nước khác, từ đó hiểu được sự phát triển lịch sử của xã hội loài người nói chung. Sự
nhận thức một cách tích cực đúng đắn như vậy sẽ giúp chúng ta có hành động và thái
độ biết giữ gìn bản sắc dân tộc trong mối quan hệ với thế giới. Những hiểu biết lịch sử
sẽ giúp cho con người có văn hóa toàn diện, sâu sắc, giáo dục con người một cách
hoàn thiện và đầy đủ khi nói tới vai trò và tác dụng giáo dục của bộ môn lịch sử trong việc
giáo dục thế hệ trẻ G.Tsecnưsepxki đã viết: “có thể không biết, không cảm thấy say mê
học toán, tiếng Hi Lạp hoặc chữ La Tinh… nhưng dù sao đã là người có giáo dục mà
không yêu thích lịch sử thì chỉ có thể là một người không phát triển đầy đủ trí tuệ”.
Trong thực tế, người học chưa thấy hết được vai trò, ý nghĩa quan trọng của bộ
môn lịch sử; mặc khác còn rất nhiều người cho rằng học lịch sử chỉ là nhớ. Nhưng đó
không phải là mục đích cuối cùng của việc học tập lịch sử, lịch sử là môn học đòi hỏi
phải tư duy sáng tạo trong việc nắm bản chất sự kiện lịch sử. Tuy vậy, cũng khẳng
định rằng việc phát triển tư duy sáng tạo đối với với HS trong dạy học lịch sử là một
vấn đề khó – khó ở chỗ do đặc trưng của bộ môn luôn xuất phát từ sự kiện cụ thể.
Để thực hiện được yêu cầu này, GV lịch sử cần vận dụng nhiều phương pháp
dạy học khác nhau, trong đó sử dụng SĐTD để giúp HS nắm được kiến thức lịch sử
vừa phát huy được tính sáng tạo của các em. Đây là một trong những phương pháp dạy
học lịch sử mới để tiến hành đổi mới phương pháp dạy học lịch sử hiện nay.
11
1.1.3. Thiết kế sơ đồ tư duy
1.1.3.1. Quy trình thiết kế SĐTD
Trước khi tập vẽ SĐTD cần lưu ý cách ghi nội dung ở cần lưu ý các nhánh ở
SĐTD bằng cách vận dụng“phương pháp ghi chép hiệu quả” của tác giả Stella
Cottrell:
1. Dùng từ khóa và ý chính.
2.Viết cụm từ, không viết thành câu.
3. Dùng các chữ viết tắt.
4. Có tiêu đề .
5. Đánh số các ý.
6. Liên kết ý nên dùng nét đứt, mũi tên, số màu sắc,…
7. Ghi chép nguồn gốc thông tin có thể tra cứu lại dễ dàng.
8. Sử dụng màu sắc để ghi.
Để hình thành một SĐTD ta sẽ làm theo các bước đây:
Bước 1: Xác định từ khóa
Mindmap được tạo thành bởi hầu hết các từ khóa nên nó tiết kiệm được rất
nhiều thời gian trong và ghi nhớ. Với những từ khóa, ta có thể nắm bắt được nội dung
của các điều mà ta muốn ghi nhớ. Chính vì vậy, khi thiết kế SĐTD chúng ta nên tự tập
cho mình thói quen chú ý đến từ khóa, ghi nhớ từ khóa là đủ cho chúng ta ghi nhớ
được nội dung truyền đạt.
Bước 2: Vẽ chủ đề ở trung tâm:
Đọc kỹ nội dung của bài học, chương cần thành lập SĐTD, suy nghĩ và lựa
chọn từ khóa, từ trung tâm của bài viết, viết vào trung tâm bảng (hoặc giấy). Như vậy,
trung tâm của sơ đồ sẽ là một từ khóa hay hình ảnh chủ đạo thể hiện nội dung chính
của toàn bộ sơ đồ và yêu cầu phải viết bằng chữ in hoa. Chủ đề trung tâm cần gây sự
chú ý để chúng ta dễ nhìn nhận vấn đề. Ví dụ:
12
Hình 1: Từ khóa trung tâm bài 11 “ Tây Âu thời hậu kỳ trung đại”
Bước 3: Xác định các ý chính:
Từ từ khóa và chủ đề trung tâm, vẽ các nhánh chính, trên các nhánh đó viết các
ý chính của chủ đề trung tâm một cách ngắn gọn, là những khái niệm hoặc những từ
khóa liên quan đến chủ đề. Chỉ sử dụng các thuật ngữ quan trọng để viết trên các
nhánh.
Hình 2: Các nhánh cấp 1: Bài 11: “ Tây Âu thời hậu kỳ trung đại”
Bước 4: Xác định các ý phụ cấp nhỏ hơn:
Mỗi ý chính sẽ có các ý phụ cấp nhỏ hơn, sau khi xác định ý chính ta tiếp tục
triển khai xác định các ý phụ, gồm ý phụ cấp 1 từ ý chính, ý phụ cấp 2 từ ý phụ cấp
1… để tạo ra sự liên kết. Chúng ta nên vẽ nhiều nhánh cong hơn đường thẳng, như thế
sẽ làm cho SĐTD của chúng ta trở nên mềm mại, uyển chuyển và dễ nhớ hơn. Tất cả
các nhánh của một ý nên tỏa ra từ một điểm và cùng một màu.
13
Hình 3: Các nhánh cấp 2: Bài 11: “ Tây Âu thời hậu kỳ trung đại”
Bước 5: Thêm các hình ảnh minh họa:
Ở bước này chúng ta thêm các hình ảnh liên quan nhằm giúp các ý quan trọng
thêm nổi bật, cũng như lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn. Vì bộ não của con người tiếp thu
hình ảnh tốt hơn chữ viết.
Hình 4: SĐTD có hình ảnh minh họa bài 11: “ Tây Âu thời hậu kỳ trung đại”
Như vậy, toàn bộ quy trình thiết kế SĐTD có thể được tóm tắt qua sơ đồ sau:
14
Hình 5: Các bước thiết kế SĐTD
1.1.3.2. Phương tiện thiết kế sơ đồ tư duy
Nghĩa của cụm từ SĐTD không hiểu theo nghĩa bản đồ thông thường mà được
hiểu là một hình thức ghi chép theo mạch tư duy của mỗi người bằng việc kết hợp nét
vẽ, màu sắc và chữ viết. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, việc thiết kế SĐTD theo mạch
tư duy của mỗi người SĐTD không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe như bản đồ thông
thường, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng
màu sắc, hình ảnh, cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một nội dung nhưng mỗi người
có thể “thể hiện” nó dưới dạng SĐTD theo một cách riêng do đó việc lập SĐTD
phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
Để chuẩn bị cho một tiết học bằng SĐTD không quá phức tạp vì phương tiện
thiết kế SĐTD khá đơn giản như: giấy vở HS, khổ giấy A3, A4 bìa cứng, bảng phụ,
bảng lớn, phấn màu, bút chì màu, tẩy…hoặc sử dụng phần mềm vẽ SĐTD.
Một số phần mềm SĐTD tiêu biểu:
- Phần mềm Buzan’s iMindmapTM
- Phần mềm Inspiration
- Phần mềm Visual Mind
- Phần mềm FreeMind
Vì vậy, có thể vận dụng với bất kỳ điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà
trường hiện nay. Điều quan trọng là GV hướng dẫn cho HS có thói quen lập SĐTD
trước hoặc sau khi học xong một bài hoặc một chủ đề một chương, để giúp các em có
cách sắp xếp kiến thức một cách khoa học, lôgic.
15
1.1.3.3. Các hình thức thiết kế sơ đồ tư duy
Thiết kế sơ đồ tư duy thủ công: SĐTD có thể được sử dụng rộng rãi trong các
trường học, nó có thể được thiết kế thủ công đơn giản trên bảng hoặc trên giấy.
Trên bảng: Với một ít phấn màu các loại khác nhau, GV có thể cùng HS lần
lượt thể hiện các ý trên SĐTD bởi các màu các màu khác nhau và những ý được triển
khai từ một nội dung thì có màu giống nhau.
Trên giấy: GV và HS có thể sử dụng các khổ giấy lớn cùng với bút chì, bút màu
để vẽ SĐTD. Ngoài ra HS có thể tự thiết kế SĐTD vào vở thể hiện nội dung bài học.
Quy trình thiết kế như sau:
- Xác định chủ đề trung tâm và thể hiện bằng chữ in hoa vào trung tâm giấy hoặc
bảng. Nếu viết vào giấy thì chúng ta nên sử dụng tờ giấy trắng không kẻ ô, đặt nằm
ngang (giấy trắng giúp sáng tạo hơn, không bị những ô vuông cản trở suy nghĩ, giấy
ngang giúp ta có không gian rộng hơn để trình bày các ý tưởng).
- Xác định các ý chính liên quan tới chủ đề trung tâm và mỗi ý nghĩa ta sử dụng
màu khác nhau.
- Triển khai các ý phụ từ ý chính.
Với cách thiết kế thủ công này, GV và HS có thể thể hiện khả năng sáng tạo cũng
như năng lực hội họa, thẩm mĩ của bản thân. Ta có một số ví dụ thiết kế SĐTD bằng
tay như sau:
Hình 6: SĐTD Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương Đông
16
Thiết kế sơ đồ tư duy trên máy tính: Một SĐTD có thể được thực hiện dễ dàng
trên một tờ giấy với các loại màu, tuy nhiên cách thức này có nhược điểm là khó lưu
trữ, thay đổi chỉnh sửa. Một giải pháp được hướng đến là sử dụng các phần mềm để
tạo SĐTD. Hiện nay, có khá nhiều phần mềm vẽ SĐTD, mỗi phần mềm có ưu, nhược
điểm riêng. Các phần mềm này được cung cấp phổ biến trên mạng internet, trong số
các phần mềm dùng để vẽ SĐTD có phần mềm có bản quyền, có phần mềm dùng thử:
Phần mềm Inspiration: Sản phẩm thương mại của công ty Inspiration Software,
Inc. Sản phẩm có phiên bản cho trẻ em rất dễ dùng và nhiều màu sắc. Có thể dùng thử
trong 30 ngày .
Phần mềm Visual Mind: Là sản phẩm của công ty Mind Technologies. Phần mềm
dễ sử dụng và linh hoạt trong việc sắp xếp các nút chứa khóa. Có thể dùng thử trong
30 ngày.
Phần mềm FreeMind: Là sản phẩm hoàn toàn miễm phí, được lập trình trên Java.
Các icon chưa được phong phú, tuy nhiên chương trình có đầy đủ chức năng để thực
hiện mindmapping.
Phần mềm Buzan’s iMindmapTM : một phần mềm thương mại, tuy nhiên có thể tải
bản dùng thử 30 ngày. Phần mềm do công ty Buzan Online Ltd thực hiện. Đây là một
phần mềm rất hữu hiệu bởi các tính năng ưu việt như linh hoạt, dễ trình chiếu, có thể
xuất sang powerpoint hay sang ảnh để gắn vào word. Hiện nay, phần mềm imindmap
được sử dụng nhiều nhất là phần mềm mindmap 6.01. Trong giới hạn của đề tài, chúng
tôi xin giới thiệu cách sử dụng phần mềm thiết kế SĐTD phổ biến này. Để tiến hành
vẽ SĐTD ta có các bước sau:
Bước 1 : Khởi động phần mềm
Mở phần mềm Imindmap6 đã cài trong máy tính ( phần mềm đã được Dowload về máy).
17
Hình 7: Trang chủ phần mềm imindmap6.0 và SĐTD
Bước 2: Di chuyển chuột tới “ New mind map” để mở trang mới và tiến hành thiết kế.
Hình 8: Màn hình trang mới để thiết kế SĐTD
Bước 3: Tạo bản đồ mới
- Chọn hình ảnh trung tâm cho bản đồ (chọn hình ảnh có sẵn hoặc vào Browse ở
góc trái phía dưới để chọn các hình ảnh mong muốn từ máy tính). Click chọn một hình
nền cho Central Idea.
18
Hình 9 : Hình nền cho Central Idea
Sau đó Click vào Choose, màn hình Central Idea xuất hiện trên sơ đồ.
Hình 10 : Central Idea xuất hiện trên sơ đồ
- Chỉnh sửa Central Idea, thay đổi tiêu đề:
+ Click đúp chuột vào Central Idea, điền nội dung cho hình ảnh trung tâm, viết
vào ô “Central Idea” rồi ấn Enter.
+ Central Idea với tiêu đề mới
19