Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.8 KB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
-------------------Th.S. PHẠM VĂN BÚA (chủ biên)
Th.S. TRẦN KIM TRUNG
Th.S. NGUYỄN THỊ KIM CHI
Th.S. ĐINH VĂN PHƯƠNG

TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
(DÀNH CHO HỆ ĐÀO TẠO TỪ XA)

Cần Thơ, 2009


CHƯƠNG MỞ ĐẦU
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
VÀ Ý NGHĨA HỌC TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
I. Đối tượng nghiên cứu:
1. Khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh:
Khái niệm tư tưởng:
Theo định nghĩa phổ thông nhất, tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý
thức, là biểu hiện quan hệ của con người với thế giới xung quanh.
Khái niệm nhà tư tưởng:
Một người xứng danh là một nhà tư tưởng khi người đó biết giải quyết trước
người khác tất cả những vấn đề chính trị - sách lược, các vấn đề về tổ chức, về
những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự phát.
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh:
Kế thừa kết quả nghiên cứu đã đạt được, dựa trên định hướng cơ bản của
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, các nhà khoa học đã đưa ra định
nghĩa chung nhất về khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh như sau: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của


cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã
hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc là
trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người”.
2. Đối tượng và nhiệm vụ của môn học tư tưởng Hồ Chí Minh:
a. Đối tượng nghiên cứu:
Môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh tập trung nghiên cứu:
- Hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam được thể
hiện qua các bài nói, bài viết và trong quá trình chỉ đạo thực tiễn cách mạng Việt
Nam của Hồ Chí Minh.


- Quá trình vận dụng thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu, môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiệm
vụ làm rõ các nội dung sau:
- Cơ sở khách quan và chủ quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của tư tưởng Hồ Chí
Minh đối với cách mạng Việt Nam.
- Quá trình nhận thức, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh qua các
giai đoạn cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.
- Những đóng góp sáng tạo của Hồ Chí Minh vào kho tàng tư tưởng, lý luận
cách mạng thế giới, đặc biệt là với chủ nghĩa Mác-Lênin.
3. Mối quan hệ của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh với môn học Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và môn Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
a. Mối quan hệ của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh với môn học Những

nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin:
Chủ nghĩa Mác- Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, là nguồn
gốc tư tưởng, lý luận trực tiếp quyết định bản chất cách mạng, khoa học của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; đã làm phong phú thêm kho
tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Vì vậy, môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh có mối quan hệ biện chứng chặt
chẽ, thống nhất vối môn học Những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin.
b. Mối quan hệ của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh với môn học Đường
lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam:


Hồ Chí Minh là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, người sáng lập, giáo
dục, rèn luyện và là lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh là người vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn cho dân tộc và
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam theo mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Trong đường lối của Đảng có tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng, kim chỉ nam cho đường lối của Đảng.
Môn học tư tưởng Hồ Chí Minh gắn bó chặt chẽ với môn học Đường lối cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
sẽ mang lại thế giới quan, phương pháp luận để nắm vững đường lối cách mạng
của Đảng.
II. Phương pháp nghiên cứu:
1. Cơ sở phương pháp luận:
Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải đảm bảo một số nguyên
tắc phương pháp luận sau đây:
a. Đảm bảo sự thống nhất nguyên tắc tính Đảng và tính khoa học:
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải đứng trên cơ sở lập trường, quan
điểm, phương pháp luận chủ nghĩa Mác- Lênin và quan điểm, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Phải đảm bảo tính khách quan, tránh việc áp đặt, cường điệu

hóa hoặc hiện đại hóa tư tưởng của Người.
Tính đảng và tính khoa học có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tính đảng
phục vụ cho tính khoa học, tinh khoa học phục vụ cho tính đảng.
b. Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn:
Thấm nhuần quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, xem thực tiễn là nguồn gốc
của nhận thức, Hồ Chí Minh luôn xuất phát từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam
và cách mạng thế giới, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn đất
nước để xây dựng và phát triển tư tưởng của mình. Quan điểm thực tiễn là biện
pháp nâng cao lý luận và năng lực hoạt động. Vì vậy, khi nghiên cứu, học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh phải quán triệt quan điểm thực tiễn cách mạng Việt Nam và
cách mạng thế giới.


Hồ Chí Minh luôn gắn lý luận với thực tiễn. Người khẳng định: thực tiễn
không có lý luận hướng dẫn thì thầm thực tiễn mù quáng, dễ mắc bệnh chủ quan.
Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông.
Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải quán triệt quan điểm lý
luận gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành, phải biết vận dụng những kiến
thức đã học vào thực tiễn để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
c. Quan điểm lịch sử cụ thể:
Theo V.I. Lênin, trong nghiên cứu khoa học phải xem xét một hiện tượng
nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những
giai đoạn phát triển chủ yếu nào và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để
xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào? Vì vậy, khi nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh cần nắm vững quan điểm này, từ đó mới nhận thức đúng bản chất tư
tưởng Hồ Chí Minh.
d. Quan điểm toàn diện và hệ thống:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
cách mạng Việt Nam. Một yêu cầu khoa học khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh trên những bình diện tổng thể hay từng bộ phận là phải luôn luôn quán triệt

mối liên hệ qua lại của các yếu tố, các nội dung khác nhau trong hệ thống tư tưởng
đó và phải lấy hạt nhân cốt lõi là tư tưởng độc lập, tự do, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội.
Trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần nắm vững và đầy đủ hệ thống
các quan điểm của Người. Nếu tách rời một trong các nội dung nào đó trong hệ
thống sẽ dẫn đến có thể hiểu sai về tư tưởng Hồ Chí Minh.
e. Quan điểm kế thừa và phát triển:
Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới. Trong quá
trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã kế thừa tinh hoa văn hóa dân tộc và
văn hóa nhân loại. Đặc biệt, Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận
Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đã bổ sung và phát triển chủ nghĩa


Mác- Lênin trên nhiều lĩnh vực quan trọng và hình thành nên một hệ thống lý luận
mới hết sức sáng tạo.
Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải biết kế thừa, vận dụng
và phát triển sáng tạo tư tưởng của Người trong điều kiện lịch sử mới.
g. Kết hợp nghiên cứu các tác phẩm với thực tiễn chủ đạo của Hồ Chí
Minh:
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà tư tưởng, lý luận mà còn là một nhà cách
mạng thực tiễn. Người đã xây dựng lý luận, vạch cương lĩnh, đường lối, chủ
trương cách mạng và trực tiếp tổ chức lãnh đạo thực hiện. Cho nên nghiên cứu,
học tập tư tưởng Hồ Chí Minh ngoài việc căn cứ vào các tác phẩm còn phải
nghiên cứu những hoạt động thực tiễn của Người để thấy được giá trị của tư tưởng
Hồ Chí Minh đối với lịch sử Việt Nam và nhân loại.
2. Các phương pháp cụ thể:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ môn khoa học, do đó khi nghiên cứu, học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh phải sử dụng những phương pháp cụ thể của bộ môn khoa học
như: phương pháp lịch sử, lôgic, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm nhiều lĩnh vực, cho nên cần sử dụng

phương pháp liên ngành khoa học xã hội – nhân văn, lý luận chính trị…
Mỗi phương pháp có những đặc điểm và yêu cầu khác nhau. Vì vậy, việc vận
dụng các phương pháp và kết hợp các phương pháp cụ thể phải căn cứ vào nội
dung nghiên cứu.
III. Ý nghĩa của việc học tập môn học đối với sinh viên:
1. Nâng cao năng lực, tư duy lý luận và phương pháp công tác.
Hiểu vai tró, vị trí, tác dụng của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng
Việt Nam, từ đó tăng thêm lòng yêu quý lãnh tụ. Nâng cao tri thức khoa học xã
hội – nhân văn, nâng cao trình độ lý luận và nhận thức
2. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và rèn luyện bản lĩnh chính
trị.


Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp nâng cao lòng tự hào về Người, về
Đảng Cộng sản và về Tổ quốc Việt Nam. Tích cực học tập và rèn luyện theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh để phụng sự đất nước, phụng sự nhân dân.

CHƯƠNG I
CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


I. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Cơ sở khách quan:
a. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:
* Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Năm 1858, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn lần
lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân
Pháp.
Cho đến cuối thế kỷ XIX, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, các phong

trào đấu tranh của nhân dân nổ ra và lan rộng khắp cả nước. Các cuộc khởi nghĩa
vũ trang dưới khẩu hiệu “Cần Vương” do các sĩ phu, văn thân lãnh đạo cuối cùng
cũng thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
Sang đầu thế kỷ XX, dưới chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp,
xã hội nước ta có sự chuyển biến và phân hóa mạnh mẽ. Do ảnh hưởng của “Tân
thư” ở Trung Quốc và trào lưu cải cách ở Nhật Bản, phong trào yêu nước của nhân
dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản. Đại biểu là Phan Bội Châu và
Phan Chu Trinh, với phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy tân…
nhưng tất cả đều bị dập tắt do chưa có hướng đi đúng. Hệ tư tưởng tư sản cũng
không lãnh đạo được phong trào chống Pháp.
Trước sự khủng hoảng sâu sắc về đường lối, sứ mệnh lịch sử đặt ra cho cả
dân tộc Việt Nam là phải tìm con đường cứu nước đúng đắn. Phong trào yêu nước
của nhân dân ta muốn giành thắng lợi phải đi theo một con đường mới.
* Bối cảnh thời đại:
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh
tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Chúng đã xác lập quyền thống trị
trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các
dân tộc thuộc địa.
Thắng lợi cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm “thức tỉnh các dân
tộc Châu Á”. Cách mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập


chính quyền Xô Viết, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người, mở ra con
đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa.
Tháng 3 năm 1919 Quốc tế cộng sản (Quốc tế thứ 3) ra đời, chủ trương đoàn
kết phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa Phương Tây và phong
trào giải phóng thuộc địa phương Đông trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung
là chủ nghĩa đế quốc.
b. Những tiền đề tư tưởng -lý luận:
* Giá trị truyền thống dân tộc:

Truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất; tinh thần tương thân tương ái,
lòng nhân nghĩa, ý thức cố kết cộng đồng; ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn
thử thách; trí thông minh, tài sáng tạo quý trọng hiền tài, khiêm tốn… là tiền đề tư
tưởng, lý luận xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong những giá trị đó,
chủ nghĩa yêu nước là giá trị thiêng liêng cao quý nhất, trong lịch sử dân tộc Việt
Nam.
Chủ nghĩa yêu nước có trong mỗi con người Việt Nam, là cội nguồn của trí
tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm của người Việt Nam và là chuẩn mực đạo đức cơ
bản của cả dân tộc. Hồ Chí Minh đúc kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng,thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ,
to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và cướp nước”
* Tinh hoa văn hóa nhân loại:
Văn hóa phương Đông: Hồ Chí Minh tiếp thu những mặt tích cực của Nho
giáo. Đó là các triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; đó là ước
vọng về một xã hội bình trị, hòa mục, hòa đồng; là triết lý nhân sinh, tu thân
dưỡng tính; đề cao văn hóa lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học.
Hồ Chí Minh còn tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng vị tha, từ bi
bác ái, nếp sống có đạo đức, bình đẳng, dân chủ, đề cao lao động, chống lười


biếng… của Phật giáo. Ngoài ra, Người còn tiếp thu tư tưởng của Lão Tử, Mạc
Tử, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn.
Văn hóa phương Tây: Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tiếp thu những tư tưởng
tiến bộ của nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây; những giá trị của bản
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách mạng Pháp và các giá trị về
quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập
Mỹ.
* Chủ nghĩa Mác- Lênin:

Trước sự khủng hoảng về đường lối cứu nước của dân tộc, xuất phát từ lòng
yêu nước, Nguyễn Tất Thành quyết định rời quê hương ra đi tìm đường cứu nước.
Thực tiễn trong gần 10 năm tìm tòi, khảo nghiệm, nhất là sau khi đọc Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin
(7/1920) Nguyễn Ái Quốc đã: “cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng,…vui
mừng đến phát khóc…” vì đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc. Như vậy,
chính Luận cương của Lênin đã nâng cao nhận thức của Hồ Chí Minh về con
đường giải phóng.
Chủ nghĩa Mác- Lênin là thế giới quan, phương pháp luận của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Thế giới quan và phương pháp luận Mác- Lênin đã giúp Hồ Chí Minh
tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước. Đó là
con đường cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh coi việc tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin trước hết phải
nắm vững phương pháp biện chứng; phải vận dụng lập trường, quan điểm và
phương pháp của chủ nghĩa Mác- Lênin để giải quyết những vấn đề thực tiễn của
cách mạng Việt Nam.
2. Nhân tố chủ quan:
- Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã không ngừng quan
sát, nhận xét thực tiễn, khám phá các quy luật vận động xã hội, đời sống văn hóa
và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lý


luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực
tiễn, từ đó mà lý luận của Hồ Chí Minh mang giá trị khách quan, cách mạng và
khoa học.
- Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn.
Với bản lĩnh kiên định, luôn tin vào nhân dân; khiêm tốn, giản dị, ham học
hỏi; nhạy bén với cái mới, có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn, Hồ
Chí Minh đã khám phá ra lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới. Kiên trì

chân lý và định ra các quyết sách đúng đắn, sáng tạo để đưa cách mạng Việt Nam
đến thắng lợi.
Sự khổ công học tập để chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại, vốn
kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào chủ nghĩa
quốc tế để có thể tiếp cận chủ nghĩa Mác-Lênin.
Với tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt
thành cách mạng, một trái tim yêu nước thương dân, Hồ Chí Minh sẵn sàng chịu
đựng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.
II. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng
cứu nước.
Nghệ Tĩnh là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, lao động cần cù, đấu tranh
chống ngoại xâm; là quê hương của nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử Việt
Nam: Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu….
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, gần gũi với nhân
dân. Tấm gương lao động cần cù, ý chí kiên cường vượt qua mọi khó khăn, đặc
biệt là tư tưởng thương dân, lấy dân làm hậu thuẫn của cha; lòng nhân hậu, nhẫn
nại, thủy chung son sắt của mẹ đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách
Hồ Chí Minh.
Từ thưở thiếu thời, Nguyễn Tất Thành đã tận mắt thấy cuộc sống nghèo khổ,
bị áp bức bóc lột của đồng bào mình; sự tàn ác của thực dân Pháp và thái độ ươn
hèn của bọn phong kiến Nam triều. Người đã biết đến sự thất bại của phong trào


Cần vương, phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân của
Phan Chu Trinh. Những điều tai nghe, mắt thấy; sự hy sinh xương máu của dân
tộc đã nung nấu lòng căm thù và thôi thúc Người đi tìm đường cứu nước.
Phát huy truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc, truền thống tốt đẹp
của gia đình, quê hương, với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Hồ Chí Minh đã
sớm nhận ra những hạn chế của những người đi trước. Từ đó Người đã lựa chọn

con đường đi sang phương Tây để tìm đường cứu nước.
2. Thời kỳ từ năm 1911- 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng
dân tộc.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc sang phương Tây
tìm con đường cứu nước.
Qua khảo sát thực tiễn, Nguyễn Tất Thành đã rút ra nhiều kết luận: trên thế
giới chỉ có hai giống người đó là người bóc lột và người bị bóc lột và chỉ có một
tình hữu ái đó là tình hữu ái vô sản. Quan trọng hơn là Người đã nhận rõ cội
nguồn của mọi sự đau khổ là chủ nghĩa tư bản.
Thực tiễn trong gần 10 năm tìm đường cứu nước, nhất là khi đọc Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (tháng
7 năm 1920), Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cách mạng vô sản, đấu tranh
giành độc lập cho dân tộc và đem lại tư do hạnh phúc cho nhân dân.
Tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế cộng sản
và tham gia sáng lập Đảng Cộng Pháp. Từ chủ nghĩa yêu nước Nguyễn Ái Quốc
đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin; từ người yêu nước trở thành chiến sĩ cộng sản.
3. Thời kỳ từ năm 1921-1930: Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng
Việt Nam.
Đây là thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận cực kỳ sôi nổi và phong phú
của Nguyễn Ái Quốc nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và các
dân tộc thuộc địa. Đặc biệt, với tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925),
Đường cách mệnh (1927) và Cương lĩnh thành lập Đảng (Chính cương vắn tắt,


Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt - 1930) đã hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về con đường cách mạng Việt Nam.
Con đường cách mạng Việt Nam được Hồ Chí Minh vạch ra bao gồm những
nội dung cơ bản sau:
- Bản chất của chủ nghĩa thực dân là “ăn cướp” và giết người. Vì vậy, chủ
nghĩa đế quốc là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và

nhân dân lao động toàn thế giới.
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
- Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính
quốc có mối quan hệ khăng khít với nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể nổ
ra trước và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc.
- Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mệnh” đánh đuổi
giặc ngoại xâm và giành độc lập tự do.
- Cách mạng muốn thắng lợi phải xây dựng khối liên minh công nông.
- Cách mạng muốn thành công trước hết phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo.
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân.
4. Thời kỳ từ năm 1930- 1945: Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập
trường cách mạng.
Vào cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Quốc tế cộng sản
bị chi phối nặng bởi khuynh hướng “tả”. Khuynh hướng này đã trực tiếp tác động
vào phong trào cách mạng Việt Nam.
Trên cơ sở xác định chính xác con đường cần phải đi của cách mạng Việt
Nam, Nguyễn Ái Quốc đã kiên trì bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp, về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng vô
sản, chống lại những biểu hiện “tả” khuynh trong Đảng.
Tháng 7 năm 1935, trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế
giới mới, Đại hội VII Quốc tế cộng sản đã nghiêm khắc tự phê bình về những sai
lầm “tả khuynh”.


Trải qua quá trình thực hành cách mạng, cọ sát với thực tiễn, quan điểm của
Nguyễn Ái Quốc đã được chứng minh là đúng đắn. Với quan điểm đó Người đã
trực tiếp lãnh đạo thành công cách mạng tháng Tám năm 1945, giành lại nền độc
lập dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
5. Thời kỳ từ 1945 - 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển,
hoàn thiện.

Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Hồ Chí Minh chủ trương củng cố chính quyền non trẻ, đẩy lùi giặc đói,
giặc dốt, khắc phục nạn tài chính thiếu hụt. Về đối ngoại, cùng lúc phải đương đầu
với nhiều kẻ thù, Hồ Chí Minh đưa ra tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” và vận
dụng thực hiện thành công tư tưởng đó để bảo vệ củng cố chính quyền cách mạng
trong tình thế “nghìn cân treo sợi tóc”.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1945), Hồ Chí Minh đưa ra
đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn
diện, trường kỳ, tự lực cách sinh. Tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp kháng chiến với
kiến quốc; tư tưởng về cuộc chiến tranh nhân dân: toàn dân, toàn diện, trường kỳ,
tự lưc cánh sinh đã trở thành cơ sở cho đường lối kháng chiến chống thực dân
Pháp của Đảng và Nhà nước ta.
Năm 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Việt
Nam thông qua Cương lĩnh và Điều lệ mới của Đảng, đề ra chủ trương, đường lối
đúng đắn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Dưới sự lãnh đạo
của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi.
Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhưng
đất nước vẫn bị chia cắt bởi âm mưu gây chiến và xâm lược của đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai. Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng đề ra hai
nhiệm vụ chiến lược: miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục làm
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chống Mỹ


Xuất phát từ thực tiễn, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhiều vấn đề đã tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện: tư
tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
tư tưởng về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; tư tưởng về xây dựng
Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền….
III. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh:

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển
dân tộc:
a. Tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam vì tư
tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sản phẩm của dân tộc, thời đại; là tinh hoa văn
hóa của Việt Nam và của nhân loại, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà
còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế
giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta để giải quyết những vấn đề thực tiễn cách mạng Việt
Nam một cách linh hoạt, khoa học và hiệu quả.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống những quan điểm lý luận, tư
tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
về cải biến cách mạng đối với thế giới, về đạo đức, phong cách, phương pháp Hồ
Chí Minh… Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII khẳng định “Đảng lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động”.
Nét đặc sắc nhất trong Tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề giải phóng dân tộc
và định hướng cho sự phát triển của dân tộc trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin
gắn liền với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
b. Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt
Nam.


Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ lý luận dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi của cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân ta trên con đường
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận thức đúng những vấn đề lớn có

liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển xã hội và bảo đảm quyền
con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch ra đường lối
cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
ta tới thắng lợi.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển thế giới:
a. Phản ánh khát vọng thời đại:
Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, không chỉ là sản phẩm của dân tộc,
của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại
tiến bộ. Bởi lẽ, Người có những cống hiến xuất sắc về lý luận cách mạng giải
phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội theo con
đường cách mạng vô sản.
Việc xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và
các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội; về hòa bình, hợp
tác, hữu nghị giữa các dân tộc… có giá trị to lớn về mặt lý luận và đang trở thành
hiện thực của nhiều vấn đề quốc tế ngày nay.
b. Tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người:
Đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là việc xác định con
đường cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa thoát khỏi ách nô dịch của chủ
nghĩa đế quốc. Các dân tộc thuộc địa cần phải đoàn kết, liên minh với nhau trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại,
đặc điểm của thời đại, đặt cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa vào phạm


trù cách mạng vô sản: xác định giai cấp lãnh đạo, phương pháp cách mạng và
hướng phát triển của phong trào giải phóng dân tộc. Người khẳng định: “Trong
thời đại đế quốc chủ nghĩa ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp
vô sản và Đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi, trước hết là nông
dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong Mặt trân thống nhất,

với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là của phe
xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi”.
c. Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ lý luận soi đường cho cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, xóa bỏ được mọi hình thức áp bức,
bóc lột, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Trong lòng nhân dân thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh là bất diệt. Tư tưởng Hồ
Chí Minh là nguồn cổ vũ đối với tất cả các dân tộc thuộc địa châu Á, châu Phi
đứng dậy đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến,
đấu tranh cho độc lập tự do. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đường cho các dân tộc
đi tới thực hiện ước mơ cao đẹp của con người.


CHƯƠNG II
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
I.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
1.Sơ lược quan điểm của Các Mác, Ănghen và Lênin về vấn đề dân tộc:
- Các Mác, Ănghen đã nêu ra các quan điểm cơ bản có tính chất phương
pháp luận để nhận thức và giải quyết những vấn đề về nguồn gốc, bản chất của
vấn đề dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công nhân
và Đảng của nó với vấn đề dân tộc.
- Theo quan điểm của Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu dài của lịch
sử. Trước dân tộc là những hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc,
bộ lạc. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các nhà
nước dân tộc tư bản chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính
sách xâm lược, nô dịch các dân tộc nhược triển, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt từ
đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Sau cách mạng tháng mười Nga, với sự
hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới phong trào giải phóng dân tộc phát

triển mạnh mẽ nhiều nước thuộc địa cũ trở thành các quốc gia dân tộc độc lập.
Khi bàn về sự phát triển của vấn đề dân tộc, Lênin cũng đề cập đến hai xu
hướng phát triển của vấn đề dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản:
+ Xu hướng thứ nhất là sự thức tỉnh của ý thức dân tộc của phong trào đấu
tranh chống áp bức dân tộc dẫn đến thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.
+ Xu hướng thứ hai là với việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ
giữa các dân tộc sẽ dẫn đến việc phá hủy các rào ngăn cách dân tộc, thiết lập sự
thống nhất quốc tế giữa các dân tộc.
Xu hướng thứ nhất chiếm ưu thế trong thời kỳ mới phát triển, còn xu hướng
thứ hai là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản già cỗi sắp chuyển sang xã hội chủ
nghĩa; cả hai xu hướng đều phát triển trong điều kiện đối kháng giai cấp gay gắt.


Tuy nhiên chủ nghĩa tư bản và cách mạng dân tộc tư sản không thể giải quyết
được vấn đề dân tộc mà chỉ làm mối xung đột dân tộc ngày càng tăng lên. Chỉ có
cách mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội mới giải quyết được vấn đề này.
2.Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh được đề cập ở đây không phải
là vấn đề dân tộc nói chung mà là vấn đề dân tộc thuộc địa trong thời đại cách
mạng vô sản.
Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng của các
dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc,
xóa bỏ ách áp bức bóc lột thực dân, thực hiện quyền tự quyết, thành lập nhà nước
dân tộc độc lập.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản
được thể hiện trong mấy luận điểm cơ bản để giành độc lập và phát triển sau đây:
a) Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các
dân tộc.
Hồ Chí Minh đã từng nói: Cái mà tôi cần nhất trên đời là: đồng bào tôi
được tự do, tổ quốc tôi được độc lập

- Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên
ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của
cách mạng Pháp và tiếp nhận những nhân tố có giá trị trong hai bản tuyên ngôn
bất hủ ấy.
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ 1776 có đoạn nói về quyền bình đẳng:
"tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp: "người ta sinh
ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi".


- Từ đó, Người đã khái quát nên chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của
các dân tộc: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
- Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các nước đồng
minh thừa nhận, Người gửi đến hội nghị hòa bình Véc xay bản yêu sách 8 điểm,
đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Đây là hình thức thử nghiệm đầu tiên của Hồ Chí Minh về sử dụng pháp lý
tư sản trong đấu tranh bằng phương pháp hòa bình. Bản yêu sách từ nội dung đến
lời lẽ đều rất ôn hòa, chưa đề cập vấn đề độc lập hay tự trị, mà mới chỉ tập trung
hai nội dung cơ bản:
- Một là đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người Đông Dương
như đối với người Châu Âu (như xóa bỏ các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ
khủng bố, đàn áp những người yêu nước mà Hồ Chí Minh gọi là những người
trung thực nhất trong nhân dân; xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh (một cách độc
tài).
- Đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân đó là các quyền tự do
ngôn luận, báo chí, tự do lập hội, hội họp, tự do cư trú.

Mặc dầu vậy, bản yêu sách đã không được chấp nhận. Sự thật ấy đã giúp
Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: "muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể
trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình".
- Sau khi đã trở thành lãnh tụ có uy tín, tại hội nghị thành lập Đảng cộng
sản Việt Nam do Người chủ trì đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng trong
chính cương vắn tắt và cả trong lời kêu gọi là:
a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
b) Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước chủ trì hội nghị trung ương 8 của
Đảng, Người chỉ rõ: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết
thảy". Người chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh, ra báo Việt Nam độc lập, thảo
10 chính sách của Việt Minh, trong đó mục tiêu đầu tiên là "cờ treo độc lập, nền


xây hòa bình". Nội dung cơ bản của chính sách nhằm thực hiện hai điều: một là
làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, hai là làm cho dân Việt Nam hoàn toàn
tự do. Người đã đức kết ý chí đấu tranh cho độc lập tự do của nhân dân ta trong
một câu nói bất hủ: "Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết
giành cho được độc lập".
- Cách mạng tháng tám thành công, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập,
khẳng định trước thế giới và nhân dân: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và thật sự đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết tâm tất cả tinh thần và lực lượng, tình mệnh và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy".
Trong các bức thư và điện văn gởi tới Liên Hợp Quốc và chính phủ các
nước vào thời gian đó, Người đã trịnh trọng tuyên bố rằng "Nhân dân chúng tôi
thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến
đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho tổ
quốc và độc lập cho đất nước".
- Kháng chiến toàn quốc bùng nổi thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ

quyền dân tộc, Người ra lời kêu họi vang dậy núi sông: "Không! Chúng ta thà hi
sinh tất cả chứ nhất định không chịu làm nô lệ".
- Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh leo thang ra miền Bắc,
chủ tịch Hồ Chí Minh lại đưa ra một chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại:
"Không có gì quý hơn độc lập tự do". Với tinh thần chiến đấu kiên cường của
nhân dân ta buộc Mỹ phải ký hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình
ở Việt Nam, phải chấp nhận điều 1 của chương 1 nói về các quyền dân tộc vàu
nhân dân Việt Nam: "Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như hiệp định Giơnevơ năm
1954 về Việt Nam đã công nhận".
Tóm lại, "Không có gì quý hơn độc lập tự do" không chỉ là tư tưởng mà còn
là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là nguồn sức mạnh làm
nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của Việt Nam, đồng thời


cũng là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Vì vậy,
Người không chỉ được tôn vinh là "Anh hùng giải phóng dân tộc" của Việt Nam
mà còn được thừa nhận là "Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các
dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX"
b) Ở các nước đấu tranh giành độc lập, chủ nghĩa dân tộc chân chính
vẫn là một động lực lớn.
Chủ nghĩa dân tộc ở đây theo Bác đó là chủ nghĩa yêu nước chân chính và
tinh thần dân tộc trong sáng, là truyền thống quý báu từ rất lâu đời của dân tộc ta.
Nó hòan tòan khác về chất so với chủ nghĩa dân tộc sô vanh, dị kỷ, bá quyền...
c) Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
*Quan điểm cơ bản của Mac-Ănghen, Lênin về mối quan hệ biện chứng
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp:
Vấn đề dân tộc ở thời đại nào cũng được nhận thức và giải quyết trên lập
trường và theo quan điểm của một giai cấp nhất định. Các nhà kinh điển của chủ

nghĩa Mác Lênin nhấn mạnh rằng: chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và
cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc.
Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Mác Ănghen đã đề cập mối quan hệ giai
cấp và dân tộc. Các ông viết: Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách
thống trị của giai cấp tư sản, ở giai đoạn đầu nó mang tính chất dân tộc, vì "Phong
trào vô sản là phong trào độc lập của đại đa số". Vì vậy, "cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc
đấu tranh dân tộc". Từ đó Mác kêu gọi: "giai cấp vô sản ở mỗi nước trước hết phải
giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở
thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu".
Theo Mác Ănghen, trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp vô sản mới
thống nhất được lợi ích của giai cấp mình với lợi ích của nhân dân lao động và của
cả dân tộc. Có triệt để xóa bỏ ách áp bức dân tộc, mới đem lại độc lập thật sự cho
dân tộc mình và cho các dân tộc khác. Chỉ có giai cấp vô sản với bản chất cách


mạng và sứ mệng lụch sử của mình mới có thể thực hiện được điều này. Chỉ có
cuộc cách mạng do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo mới thực hiện được sự
thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Tuy nhiên, ở thời đại Mác Ănghen, các ông không đi sâu giải quyết vấn đề
dân tộc vì về cơ bản vấn đề dân tộc ở Tây Âu đã được giải quyết trong cách mạng
tư sản; nhất là các ông chưa có điều kiện bàn nhiều về vấn đề dân tộc thuộc địa.
Đúng như Lênin đã từng nhận xét, đối với Mác, so với vấn đề giai cấp vô sản thì
vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu thôi.
Bước sang thời đại Lênin, chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế
giới, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô
sản. Lênin mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một
hệ thống lý luận, được coi là học thuyết về cách mạng thuộc địa. Theo Lênin, cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không thể giành được thắng lợi nếu
nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa.

Từ đó, Người đã bổ sung khẩu hiệu của Mác thành "Vô sản toàn thế giới và các
dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!". Đúng như Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định:
"Lênin đã đặt tiền đề cho một thời đại mới, thặt sự cách mạng trong các nước
thuộc địa".
Tóm lại, Mác Ănghen, Lênin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối
quan hệ biện chứng giữa các vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận và phương pháp
luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng sản về vấn đề dân
tộc và thuộc địa. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu và mục tiêu của cách mạng vô
sản ở Châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn "đặt lên
hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn
thể giai cấp vô sản". Điều đó hoàn toàn đúng với đòi hỏi của thực tiến cách mạng
vô sản ở Tây Âu đang đặt ra lúc bấy giờ.
*Tư tưởng Hồ Chí Minh:
Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ
nghĩa Mác Lênin. Khi viết rằng: "Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự


nghiệp của giai cấp vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được
chút ít thắng lợi trong một nước nào đó thì đó càng là thắng lợi cả cho người An
Nam", tức là Người đã nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai
cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận Mác Lênin và quan điểm trên
phù hợp với đặc điểm lịch sử xã hội của Việt Nam.
Diễn giảng về vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề này bằng việc
đưa ra các quan điểm của Mác Lênin:
Khi Mác Ănghen viết "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" là lúc mà đối
kháng giai cấp trong thời đại tư sản ở châu Âu đã đơn giản hóa. "Xã hội ngày càng
chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, 2 giai cấp hoàn toàn đối lập nhau: giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản".
Vào sinh thời của Mác, Ănghen, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa tư bản đã

được mở rộng, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc lập chưa phát triển mạnh, chưa
có ảnh hưởng đến sự tồn tại và suy vong của chủ nghĩa tư bản. Trung tâm cách
mạng thế giới vẫn ở châu Âu, vận mệnh của loài người vẫn được coi là phụ thuộc
vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước tư bản công nghiệp phát triển. Do
đó, tương lai của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa cũng được nhìn nhận
trong sự phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc.
Trái lại, vấn đề đặt ra trước mắt cho các thuộc địa phương Đông không phải
là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản, mà trước hết là phải đấu tranh giành lại
độc lập cho dân tộc, có độc lập dân tộc rồi mới có địa bàn để tiến lên làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa yêu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc không cho phép ỷ lại, ngồi chờ thắng lợi của cách mạng vô sản ở châu Âu
để được trả lại nền độc lập cho các dân tộc thuộc địa. Từ thực tiễn đó, Hồ Chí
Minh đi đến luận điểm: các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình,
đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao
động thế giới để trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, rồi từ đó


tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp
cách mạng vô sản thế giới.
Qua đó có thể khẳng định ngay từ khi trở thành người Cộng sản, Hồ Chí
Minh đã thực hiện được sự kết hợp đúng đắn dân tộc với giai cấp, chủ nghĩa yêu
nước với cách mạng quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp dân tộc với giai cấp, dân tộc với quốc tế,
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội được thể hiện ở những luận điểm sau đây:
- Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất
nước.
+ Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết: ở các nước thuộc địa “chủ nghĩa dân
tộc là một động lực lớn của đất nước”. Chủ nghĩa dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc nói
ở đây chính là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân
Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là một động lực tinh

thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Nó
khác về chất so với chủ nghĩa dân tộc Sôvanh, vị kỷ của giai cấp tư sản đã bị lịch
sử lên án.
+ Theo phân tích của Nguyễn Ái Quốc, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát
triển, nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, cuộc đấu tranh giai
cấp ở đây không diễn ra giống như ở Phương Tây.
Báo cáo về bản chất, tính chất Nguyễn Ái Quốc gởi Quốc tế Cộng sản:
Bởi vì xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét “về mặt cấu trúc
kinh tế, không giống các xã hội Phương Tây thời Trung cổ cũng như thời cận đại,
và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây”.
Nói về sự phân hóa giai cấp, Người chỉ rõ: “những địa chủ hạng trung và
hạng nhỏ và những kẻ mà ở đó được coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên luôn…
bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ…”nếu như nông
dân gần như chẳng có gì thì địa chủ không có vốn lũy gì lớn…, nếu thợ thuyền
không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột
của họ là máy móc;… sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó


×