Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.41 KB, 16 trang )

ĐỀ TÀI:
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VÀ VIỆC LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM
Chương 1: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
của triết học Mác – Lênin

-

I. Khái niệm thực tiễn.
1. Thực tiễn
Thực tiễn là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất
lịch sử xã hội của con người làm biến đổi tự nhiên xã hội và bản thân con người.
- Đặc trưng của thực tiễn:
+ Thực tiễn là hoạt động của con người nó là một quan hệ chủ thể và khách thể.
+ Thực tiễn là hoạt động khách quan cảm tính hoạt động vật chất phổ biến.
+ Thực tiễn là hoạt động biến đổi hiện thực.
+Thực tiễn là hoạt động căn bản, nền tảng của mọi hoạt động của con người và
xã hội.
+ Thực tiễn là hoạt động có tính lịch sử xã hội.
 Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất, đối tượng cảm tính có mục đích có
tính lịch sử xã hội của con người với nội dung là chinh phục và cải biến
khách thể tự nhiên xã hội và cấu thành cơ sở phổ biến, động lực phát triển
của xã hội, nhận thức của con người.
Tóm lại bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại của chủ thể và
khách thể .
Hoạt động thực tiễn có tính hướng đích và tính hướng đích này do ý thức và lợi ích
của các tập đoàn xã hội quy định. Hoạt động thực tiễn đa dạng, song có thể chia làm
3 hình thức cơ bản:
+ Lao động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn cơ bản nhất, là hoạt động
trực tiếp tác động vào tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát


triển của xã hội.
+ Hoạt động biến đổi xã hội là hình thức thực tiễn cao nhất, là hoạt động của
con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển và hoàn thiện các thiết
chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt động sản xuất và tạo ra
những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất con người bằng cách đấu tranh
giai cấp và cách mạng xã hội.
+ Thực nghiệm khoa học là hình thức thực tiễn đặc biệt, nhằm mục đích phục
vụ nghiên cứu khoa học và kiểm tra lý thuyết khoa học.
2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
- Thực tiễn là cơ sở nhận thức của con người. Mong muốn nhận thức xuất hiện
cùng với sự phát triển các năng lực thực tiễn của con người.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn là thước đo tính chân thực của các tri thức đã thu
được.
Tóm lại nhận thức của con người phát sinh từ thực tiễn nhằm phục vụ thực
tiễn, phát triển cùng với sự phát triển của thực tiễn và chịu sự kiểm tra của thực tiễn.
Nhận thức phải dựa vào thực tiễn, nhận thức mà tách rời thực tiễn thì căn bản không
giải quyết được vấn đề. Thực tiễn là cơ sở của nhận thức nhưng không coi nhẹ nhận
1


-

thức. Thực tiễn và nhận thức luôn tác động qua lại lẫn nhau. Nhận thức là nhận thức
lý tính, phản ánh tính quy luật và bản chất của hiện tượng khách quan, có vai trò chỉ
đạo trong thực tiễn.
II. Khái niệm lý luận.
1. Khái niệm.
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn phản ánh
những mối liên hệ bản chất, những quy luật của sự vật, hiện tượng.

Để hình thành lý luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh
nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến của
các sự vật hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm.
Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh
nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức ở trình độ thấp
nhưng nó là cơ sở để hình thành lý luận.
 Lý luận là sự nhận thức bản chất mối liên hệ bên trong tất yếu của đối tượng
và diễn đạt kết quả của nhận thức đó bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù,
phán đoán về quy luật nội tại của đối tượng. Hay nói cách khác Lý luận là
kết quả của quá trình nhận thức.
2. Đặc điểm lý luận.
- Về nội dung: Lý luận phản ánh bản chất mối liên hệ tất yếu của đối tượng. Theo
Lê nin cũng là cái phổ biến, quy luật của đối tượng trong tính chỉnh thể toàn vẹn
của nó hoặc của từng mặt xác định của đối tượng.
- Về mặt hình thức: Lý luận diễn đạt nội dung trên bằng các khái niệm phán đoán.
Lý luận có tính trừu tượng, khái quát tổng hợp cao là do các chủ thể đã sử dụng các
thủ thuật nghiên cứu như quy nạp phân tích so sánh. Đặc điểm nổi bật của hoạt
động lý luận là nó có tính gián tiếp đối với các đối tượng nhận thức. Chủ thể phải
vận dụng tối đa tư duy trừu tượng và sức trừu tượng hóa cao chứ không đơn thuần
nắm bắt những tác động trực tiếp vào các giác quan. Chủ thể lý luận phải là người
hoạt động tự giác và tích cực chủ động chiếm lĩnh đối tượng.
3. Cấu trúc của hoạt động lý luận.
Hoạt động lý luận là một hệ thống có cấu trúc cơ bản gồm: Chủ thể (Người hoạt
động lý luận), khách thể (đối tượng của hoạt động lý luận), điều kiện hoạt động của
lý luận, kết quả hoạt động của lý luận.
+ Chủ thể hoạt động của lý luận là con người xã hội có nhu cầu, mục đích, năng lực
trí tuệ, thể lực và có kĩ năng, kinh nghiệm cùng các phương tiện công cụ (vật chất,
tinh thần) cần thiết cho hoạt động đó. Mục đích trực tiếp của chủ thể hoạt động lý
luận là nắm bắt những quá trình mang tính bản chất, quy luật của đối tượng phục vụ
cho việc thực hiện những mục đích lâu dài là thỏa mãn lợi ích kinh tế xã hoạt của

những tập đoàn giai cấp + Đối tượng hoạt động của lý luận. Là những mặt xác định
của khách thể mà chủ thể lý luận tác động vào nhằm khám phá nắm bắt bản chất
của chúng. Đối tượng có thể là những hiện tượng, quá trình tự nhiên xã hội hoặc đời
sống tinh thần.
+ Điều kiện của hoạt động lý luận là môi trường tự nhiên văn hóa xã hội với những
yếu tố, quá trình vật chất và tinh thần diễn ra trong đó.
+ Kết quả của hoạt động lý luận: là những học thuyết,quan niệm mới là năng lực tư
duy được được nâng lên sau một chu kỳ hoạt động, là sự kết tính chuyển hóa lý luận
vào các lĩnh vực nhận thức khác.
4.
Phân loại lý luận
2


+ Lý luận có những cấp độ khác nhau tùy phạm vi phản ánh và vai trò của nó, có
thể phân chia lý luận thành lý luận ngành và lý luận triết học.
a. Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển
của một ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương pháp luận
hoạt động của ngành đó, như lý luận văn học, lý luận nghệ thuật…
b. Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới và
con người, là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và hoạt động của
con người.
Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ bản là
chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp cho hoạt
động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng những quy luật chung
hay chung nhất. Nó lược bỏ những yếu tố ngẫu nhiên hoặc cái riêng để hình thành
những quy luật chung về quá trình tồn tại, vận động, phát triển và biến đổi của hiện
thực khách quan. Tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học cũng như tri thức lý luận
đều phản ánh hiện thực khách quan để làm phương pháp luận nhận thức và cải tạo
hiện thực khách quan.

Chức năng phương pháp luận của lý luận (hay tri thức luận) cho quá trình hoạt
động thực tiễn ở trình độ chung hay chung nhất. Đó vừa là chức năng phương pháp
luận cho hoạt động nhận thức, vừa là chức năng cho hoạt động cải tạo hiện thực
khách quan. Có phương pháp luận chung nhất, phương pháp luận chung và phương
pháp luận chuyên ngành. Mỗi cấp độ phương pháp luận có vai trò và hiệu quả khác
nhau trong quá trình hoạt động. Mỗi lĩnh vực cụ thể đều có phương pháp luận cụ
thể. Phương pháp luận cụ thể chỉ đúng khi không đối lập với phương pháp luận
chung hay chung nhất.
III.Mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận.
1. Liên hệ vừa thống nhất vừa đối lập giữa thực tiễn và lý luận
a/ Sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận:
- Chúng không thể tách rời nhau, sản phẩm của nhận thức lý luận nảy sinh từ thực
tiễn, thực tiễn quy định nội dung lý luận, lý luận hình thành, phát triển là vì mục
đích thực tiễn.
- Giữa thực tiễn và lý luận có sự tương thích, tương ứng. Thực tiễn cần được soi
tỏ bằng lý luận của nó và lý luận bao giờ cũng là về thực tiễn nhất định. Không
có thực tiễn được soi tỏ bằng lý luận bất kỳ, cũng như không có lý luận về mọi
thực tiễn.
- Đồng nhất biện chứng giữa thực tiễn và lý luận, đó là sự chuyển hoá lý luận
thành thực tiễn, áp dụng thành công lý luận vào thực tiễn, lý luận như một thành
tố, kết quả tất yếu của thực tiễn.
b/ Sự đối lập giữa lý luận và thực tiễn:
- Sự đối lập giữa cái phản ánh, kết quả với cái được phản ánh, nguồn gốc, cơ sở
- Sự đối lập giữa cái bị quy định và cái quy định
- Sự lạc hậu của lý luận so với thực tiễn và ngược lại
2. Vai trò tác động lẫn nhau giữa thực tiễn và lý luận
a/ Thực tiễn giữ vai trò quyết định đối với lý luận
Thực tiễn là hoạt động vật chất, còn lý luận là sản phẩm của hoạt động tinh thần.
Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận; lý luận hình
thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

3


- Thực tiễn là cơ sở của lý luận: Đối với chủ nghĩa Mác, thực tiễn trước hết là
sự hoạt động sản xuất vật chất, nó là cơ sở sinh sống của con người, nó quyết định
sự sinh tồn của xã hội. Lý luận xuất hiện trên cơ sở của thực tiễn, nó là kết quả tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn của con người. Không có thực tiễn thì không có lý luận
khoa học. Thực tiễn đề ra những vấn đề mà lý luận cần phải làm sáng tỏ, cần phải
giải đáp. Chỉ có lý luận nào gắn với thực tiễn, phục vụ cho nhu cầu thực tiễn và
được thực tiễn kiểm tra thì mới có lý do để tồn tại lâu dài.
- Thực tiễn là động lực của lý luận: Hoạt động thực tiễn góp phần làm hoàn
thiện các mối quan hệ của con người với tự nhiên, với xã hội. Thực tiễn mà trước
hết là thực tiễn sản xuất vật chất đã thúc đẩy các ngành khoa học ra đời, các lý luận
phát triển.
- Thực tiễn là mục đích của lý luận: Mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao
năng lực hoạt động của con người trong thế giới hiện thực khách quan để đem lại
cho con người ngày càng nhiều lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao và đa
dạng, để đáp ứng nhu cầu đó phải thông qua hoạt động thực tiễn, hoạt động thực
tiễn sẽ biến đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích của con người. Lý luận quay về
xâm nhập vào thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, làm cho thực tiễn ngày càng
hiệu quả hơn.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận: Lý luận chỉ được coi là chân lý
khi nó phù hợp với hiện thực khách quan mà nó phản ánh, và nó được thực tiễn
kiểm nghiệm. C. Mác nói: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt
đến chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là
một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân
lý”.
b/ Lý luận giữ vai trò xác định mục tiêu, khuynh hướng cho hoạt động thực
tiễn
Lý luận tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua

hoạt động của con người. Lý luận một khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành
“lực lượng vật chất”. Lý luận có thể vượt trước các dữ liệu thực tiễn, do lý luận chỉ
ra các mối liên hệ chung, có thể dự báo được xu hướng vận động của sự việc. Lý
luận có thể mang tính trừu tượng và khái quát cao, tính logíc và tính hệ thống chặt
chẽ thì lý luận mới có khả năng thuyết phục người khác.
Tuy lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh khái quát những vấn đề sinh động
của thực tiễn, và nó do thực tiễn quy định, phụ thuộc vào thực tiễn; nhưng nó có
tính độc lập tương đối so với thực tiễn, nó có thể tác động trở lại thực tiễn và góp
phần làm biến đổi thực tiễn. Khi lý luận tác động trở lại thực tiễn:
- Trường hợp lý luận đúng: thì lý luận có vai trò tác động tích cực đối với thực
tiễn, một khi nó phản ánh đúng thực tại khách quan và thâm nhập được vào quần
chúng. C. Mác nói: vũ khí phê phán không thể thay thế được sự phê phán bằng
vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ được bằng lực lượng vật chất.
Những quy luật cũng sẽ trở thành vật chất khi nó thâm nhập sâu vào quần
chúng.
- Trường hợp lý luận sai: nếu là lý luận sai lầm, ảo tưởng, chủ quan, giáo điều,
kinh nghiệm chủ nghĩa… thì sẽ tác động tiêu cực trở lại đối với thực tiễn, kiềm
hãm sự phát triển của thực tiễn. C. Mác viết: cái cụ thể sỡ dĩ là cụ thể vì nó là sự
tổng hợp của nhiều tính quy định, do đó, nó là sự thống nhất của cái đa dạng.
Cho nên trong tư duy, nó biểu hiện ra là một quá trình tổng hợp, là kết quả, chứ
không phải là điểm xuất phát, mặc dù nó là điểm xuất phát thực sự và do đó
4


cũng là điểm xuất phát của trực quan và của biểu tượng… phương pháp đi từ
trừu tượng đến cụ thể chỉ là cái phương pháp nhờ nó mà tư duy quán triệt được
cái cụ thể và tái tạo nó với tư cách là một cái cụ thể trong tư duy.
3.
Yêu cầu của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
a/ Thừa nhận thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, cần chú ý những vấn

đề sau:
Thực tiễn chỉ là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tính toàn
vẹn của nó.
Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát
một giai đoạn nào đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực tiễn.
Ngoài tiêu chuẩn thực tiễn còn có thể có những tiêu chuẩn khác như: tiêu
chuẩn logic, tiêu chuẩn giá trị…
Qua đó, yêu cầu xây dựng lý luận phải xuất phát từ thực tế, dựa trên cơ sở
thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn. Nếu xa rời thực tiên sẽ dẫn đến các sai lầm của bệnh
chủ quan, duy ý chí, giáo điều, quan liêu,…tức lý luận suông.
b/ Lý luận phản ánh trung thực đối tượng như nó vốn có và phải được vận
dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong lịch sử; Thực tiễn phải được
chỉ đạo bởi lý luận. Lý luận đóng vai trò chỉ đạo dẫn đường cho thực tiễn. Lý luận
phải không ngừng được bổ sung, đổi mới phát triển hơn để đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn.
Hoạt động của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi
đường: Chính nhờ có lý luận soi đường, hoạt động thực tiễn của con người mới có
hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận
vì lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, vạch ra các phương
pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển các mối
quan hệ thực tiễn, dự báo được những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế, thất bại
có thể có trong quá trình hoạt động. Chính vì vậy, C.Mác đã nói: “Vũ khí của sự phê
phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất
chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận sẽ trở thành lực lượng
vật chất, một khi nó xâm nhập vào quần chúng”. Khi vận dụng lý luận vào thực tiễn
cần lưu ý:
- Phân tích một cách cụ thể mỗi tình hình. Nếu vận dụng lý luận một cách máy
móc, giáo điều, kinh viện thì chẳng những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm
phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn.
- Từ lý luận chúng ta cần xây dựng các mô hình dành cho hoạt động thực tiễn

hướng theo những mục khác nhau. Cần đưa ra những dự báo về các diễn biến, các
mối quan hệ, lực lượng tiến hành và những phát sinh của nó trong quá trình phát
triển để phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết
quả cao.
- Phải bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những
khiếm khuyết của lý luận, hoặc thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn.
- Lý luận có thể mang lại hiệu quả, hoặc không mang lại hiệu quả, hoặc kết
quả chưa rõ ràng. Khi đó, giá trị của lý luận do thực tiễn quy định. V.I.Lê nin nhận
xét rằng: “thực tiễn cao hơn nhận thức, vì nó có ưu điểm không những của tính phổ
biến, mà cả tính hiện thực trực tiếp”.
Tóm lại lý luận khoa học và thực tiễn cấu thành sự thống nhất giữa các mặt
đối lập. Trong đó vai trò quyết định thuộc về thực tiễn. Chính thực tiễn quyết định
5


những đặc trưng cấu trúc căn bản của quá trình nhận thức ở cả giai đoạn cảm tính
lẫn lý tính.Trong quan hệ với thực tiễn lý luận giữ vai trò vạch kế hoạch.

Chương 2: Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1. Để phát triển lý luận phải luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu
của thực tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn
Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam và quốc tế để tiếp tục
hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam chính là thể hiện cụ thể tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt
động cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Con đường đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay có những
đặc điểm những vấn đề riêng của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh điểm xuất
phát kinh tế của nước ta thấp lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa và không còn các nước xã hội chủ nghĩa đi trước giúp đỡ do điều

kiện chính trị thế giới biến đổi một cách căn bản; phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế đang lâm vào thoái trào tạm thời. Mặc dù vậy, sau cơn biến động lớn về
chính trị trên thế giới, các đảng cộng sản cầm quyền ở Trung Quốc, Cuba... vẫn tiếp
tục lãnh đạo cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội, song mỗi nước lại có hoàn cảnh rất
khác nhau, những bước đi và cách làm khác nhau. Việc học tập và vận dụng kinh
nghiệm tốt, những mô hình hiệu quả trong công cuộc xây dựng đất nước của các
nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới giúp chúng ta đỡ mò mẫm, đỡ phạm những sai
lầm của người đi trước. Nói cách khác, những tìm kiếm, phát triển lý luận về chủ
nghĩa xã hội, con đường và các giải pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước có
thể là kinh nghiệm tham khảo chứ không thể áp dụng máy móc, rập khuôn. Trong
nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh rằng
“phải có sự kết hợp biện chứng giữa việc chú trọng đặc điểm riêng của dân tộc với
giá trị phổ biến trong kinh nghiệm các nước”. Đồng thời, việc hình thành những
quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là công việc
rất khó khăn. Mô hình xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa chưa có trong thực tiễn
lịch sử, càng chưa có khi chúng ta xây dựng một nước có nền kinh tế chưa phát
triển như nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua
những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội nước ta. Từ thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta và lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội, Đại hội IX khẳng
định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về
khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh
tế hiện đại”. Vấn đề nghiên cứu, tìm tòi để làm luận chứng cho lý luận về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta vẫn đang tiếp tục. Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ năm khóa IX đánh giá: “Công tác lý luận chưa theo kịp sự
phát triển và yêu cầu của cách mạng” và nhấn mạnh: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận, góp phần làm rõ hơn nữa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở

nước ta”.
6


Trong các kỳ đại hội Đảng gần đây, song song với con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội, Đảng cũng đã nhận định đất nước ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức.
Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ rõ – tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan
liêu, “diễn biến hòa bình” do các thế lực thù địch gây ra – đến nay vẫn tồn tại và
diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào.
Điều cần nhấn mạnh là: tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của một bộ phận không những cán bộ, đảng viên đang cản trở việc
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm
lòng tin trong nhân dân; nước ta vẫn còn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống
nhân dân còn thấp, trong khi đó cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nếu
chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì sẽ càng tụt hậu xa hơn về kinh tế. Nhận
định được những khó khăn này Đảng cần phải đưa ra những đường lối, chính sách
sát với thực tiễn hơn nữa, để đối phó, và giải quyết những nguy cơ, khó khăn đang
cận kề.
2. Trong hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận khoa học là phương pháp, khi vận
dụng lý luận phải phù hợp với không gian và thời gian
Lý luận được hình thành không chỉ là sự tổng kết thực tiễn mà còn là mục đích
cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Sự phát triển của thực tiễn trong lịch sử đã được
lý luận khái quát. Mặc dù thực tiễn diễn biến phức tạp, ít khi lặp lại hoàn toàn, song
thực tiễn nào cũng mang tính khách quan, mang tính khuynh hướng. Chính vì lý
luận có khả năng phản ánh thực tiễn dưới dạng quy luật mà lý luận có khả năng trở
thành phương pháp luận cho thực tiễn. V.I. Lênin đã nói rất đúng rằng “Không có lý
luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”. Từ khi ra đời đến nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động cách mạng của mình. Kiên định lập trường đó, Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đảng và nhân dân
ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Chính vì chủ nghĩa Mác –
Lênin là hệ thống lý luận không chỉ được hình thành trong những điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội, trong sự phát triển của khoa học tự nhiên cũng như những thành
tựu của lý luận thế kỷ XVIII – XIX mà còn được khái quát từ thực tiễn phong trào
cách mạng của quần chúng lao động, đồng thời nó phù hợp với thực tiễn của lịch
sử.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại”. “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và nhân dân ta”.
Lý luận không chỉ có kế thừa mà còn có tính cách mạng, tính dự báo. Khả
năng đó đã được thực tiễn cách mạng nước ta chứng minh. Nhưng lý luận chỉ khái
quát thực tiễn dưới hình thức khuynh hướng. Sự phát triển phong phú, đa dạng,
phức tạp của thực tiễn, đặc biệt là thực tiễn chính trị - xã hội càng đòi hỏi phải dựa
vào khuynh hướng cơ bản của lý luận để bổ sung, hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa
xã hội phù hợp thực tiễn nước ta hiện nay.
Vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với cuộc cách mạng khoa học và công
7


nghệ hiện nay chính là khẳng định độc lập về tư tưởng của chúng ta. Coi trọng lý
luận chính là vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học nhân loại đã đạt được vào
điều kiện cụ thể của nước ta. Khoa học và công nghệ không chỉ phản ánh chân lí
khách quan mà còn phản ánh nhu cầu và nguyện vọng khách quan của con người.
Thành tựu của khoa học và công nghệ đã tác động sâu sắc đến các lĩnh vực của đời

sống xã hội thế giới. Không có một quốc gia nào đứng ngoài sự tác động của nó.
Khoa học và công nghệ là sự kế thừa và tích hợp thành tựu của quá khứ và hiện tại,
sự cố gắng không mệt mỏi của bao thế hệ, là thành tựu mang tính nhân loại. Con
đường phát triển ngắn nhất và bền vững nhất hiện nay của các quốc gia chậm phát
triển là tranh thủ thời cơ, ứng dụng triệt để thành tựu của khoa học và công nghệ
nhân loại để phát triển đất nước. Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn
đấu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, chúng ta phải nhanh chóng
tiếp cận và ứng dụng triệt để sự phát triển của khoa học và công nghệ thế giới mới
có thể phát huy hết tiềm năng vốn có. Chính vì vậy, định hướng phát triển khoa học
và công nghệ nước ta trong thời gian tới là: “Tập trung xây dựng và phát triển tiềm
lực khoa học và công nghệ của đất nước, tăng năng lực tiếp thu, làm chủ thích nghi,
cải tiến các công nghệ hiện đại nhập từ nước ngoài trong một số lĩnh vực sản xuất,
dịch vụ, kết cấu hạ tầng, rút ngắn thời gian chuyển giao công nghệ, sớm đưa vào
ứng dụng trong sản xuất”.
Lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin khi vận dụng vào thực tiễn
phải quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể, đồng thời biết tiếp thu những thành tựu
của tư duy nhân loại trong xây dựng nền kinh tế thị trường, thành tựu về xây dựng
bộ máy nhà nước pháp quyền, cơ chế quản lý khoa học, công nghệ, văn hóa, xã hội
để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Một trong những lĩnh vực hoạt động của con người mà thực tiễn và lý luận
được kết hợp một cách mật thiết là lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào
tạo đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm phát triển từ khi nền cộng hòa được
thiết lập. Trong quá trình cách mạng, giáo dục và đào tạo đã góp phần đào tạo lớp
người lao động mới có lý tưởng cách mạng, có năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vượt
qua mọi khó khăn, có sức khỏe và có kỷ luật. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến,
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới càng
chứng tỏ giáo dục, đào tạo nước ta đã đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy thế, giáo dục và đào tạo nước ta còn nhiều bất cập. Mô hình các bậc
học, các loại hình đào tạo chưa thật khoa học và ổn định, chưa thật phù hợp với
thực tiễn. Nội dung, chương trình, chất lượng đào tạo chưa đáp ứng sự phát triển
của nền kinh tế thị trường, của sự phát triển khoa học và công nghệ. Từ Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ VII, giáo dục và đào tạo được xác định là quốc sách hàng
đầu. Theo đó, đầu tư hàng năm cho giáo dục và đào tạo được tăng lên. Mục tiêu
giáo dục và đào tạo của nước ta là mở mang dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Đại hội IX xác định: “Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê
hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức
tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu
nghèo hèn. Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề
nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về
khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và
nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh doanh, nhà quản lý. Chính sách sử dụng lao
động và nhân tài phải tận dụng mọi năng lực, phát huy mọi tiềm năng của các tập
thể, cá nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”. Giáo dục và đào tạo
8


phải xuất phát từ thực tiễn kinh tế xã hội nước ta, đáp ứng sự phát triển của đất
nước, phấn đấu để rút ngắn khoảng cách giữa giáo dục và đào tạo nước ta với các
nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
3. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Nếu chúng ta tuân thủ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tức là
nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn và phải tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, phải
bổ sung phát triển lý luận (do thực tiễn luôn vận động và phát triển nên phải thường
xuyên tổng kết xem nó thừa thiếu nhằm bổ sung phát triển nó cho phù hợp). Nắm
vững quan điểm này có ý nghĩa trong việc góp phần hạn chế trong việc mắc phải sai
lầm của bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn.
Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi
thường lý luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn, hạ thấp vai trò lý luận. Người
mắc bệnh kinh nghiệm thường thỏa mãn với vốn kinh nghiệm bản thân, không chịu
học để nâng cao trình độ lý luận, coi thường khoa học kỹ thuật, thiếu nhìn xa trông

rộng, dễ bảo thủ trì trệ và sẽ bị thất bại trong thực tiễn khi điều kiện, hoàn cảnh thay
đổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như
một mắt sáng một mắt mù”.
Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai trò lý luận, coi nhẹ
thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử cụ thể, áp dụng
kinh nghiệm một cách rập khuôn, máy móc. Bệnh giáo điều biểu hiện rất đa dạng
như:
- Bệnh sách vở, hiểu lý luận một cách trừu tượng, nặng về diễn giải những gì đã
có trong sách vở mà không đối chiếu với cuộc sống. Đề ra những chủ trương và chính
sách không xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của thực tiễn đất nước mà xuất phát từ
sách vở.
- Vận dụng sai lý luận vào thực tiễn, chỉ biết trích dẫn, không quan tâm đến
thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lý luận.
- Tiếp nhận những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học một cách đơn
giản, phiến diện mang tính chất cảm tính, từ đó biến chúng thành những tín điều và
áp dụng rập khuôn chủ nghĩa xã hội của nước ngoài vào xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong nước. Áp dụng rập khuôn, máy móc kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội
của nước khác; áp dụng chính sách kinh tế thời chiến vào thời bình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “phải học tập tinh thần chủ nghĩa Mác – Lênin,
học tập lập trường quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác –Lênin để áp
dụng giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng
ta”. Người còn khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành lý
luận mù quáng, lý luận mà không có thực tiễn là lý luận suông”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn luôn hiểu rõ và thấm nhuần
phương châm lý luận cách mạng không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho
hành động cách mạng, lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc mà đầy đủ tính
sáng tạo lý luận luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ thực tiễn
của cuộc sống. Với cách nhìn đó tuy đề cao lý luận, nhưng người không xem
thường kinh nghiệm. Người rất coi trọng tổng kết kinh nghiệm coi đó là một biện

pháp để thống nhất lý luận và thực tiễn, vừa nâng cao trình độ lý luận vừa nâng cao
khả năng hoạt động thực tiễn.
9


Nhận thức sâu sắc về sự nguy hiểm của bệnh kinh nghiệm và giáo điều, từ Đại
hội Đảng lần thứ VI (1986) Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, tư duy và
đề ra phương hướng đổi mới của Đảng ta. Tại đại hội Đảng IX, Đảng đã chỉ rõ phải
“Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ
và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn, từng nước cụ thể hóa,
bổ sung, phát triển đường lối, chính sách của Đảng; đấu tranh với những khuynh
hướng tư tưởng sai trái”. Tại đại hội Đảng lần thứ X, Đảng cũng nhận định đường
lối đổi mới của Đảng phải “xuất phát từ thực tiễn” và Đảng phải “thường xuyên
tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển”. Một
lần nữa tại đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng khẳng định “Kiên định con đường đổi
mới, chống giáo điều” và “Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm
sáng tỏ một số vấn đề về Đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới,
không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước”.

Chương 3. Thành tựu đạt được và một số hạn chế
1. Thành tựu đạt được trong quá trình vận dụng nguyên lý thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn của Đảng vào thời kỳ quá độ ở Việt Nam
Năm 1986, nhận thức được những sai lầm trong đường lối chính sách của
mình, tại đại hội Đảng VI (12/1986) Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn
diện tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đường lối đổi mới ấy được điều chỉnh,
bổ sung và phát triển liên tục qua các đại hội Đảng VII, VIII, IX, X. Qua hơn 20
năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và nhân dân ta đã thu được nhiều thành tựu

to lớn về mọi mặt, mang nhiều ý nghĩa lịch sử.
a) Kinh tế
Trong giai đoạn đổi mới từ sau 1986, Đảng đã xác định lấy đổi mới kinh tế là
trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về kinh tế. Tư tưởng chủ đạo của đường lối
đổi mới kinh tế là: giải phóng mạnh mẽ mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác tốt
và có hiệu quả mọi khả năng của đất nước, của mọi thành phần kinh tế; trên cơ sở
phát huy các nguồn lực trong nước là chính, mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút mạnh
mẽ và có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài; hình thành một cơ cấu kinh tế hợp
lý; phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và đổi mới quan hệ
sản xuất (cả về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) nhằm bảo
đảm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất,
tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự phát triển. Mọi sự tăng trưởng và phát triển đều
hướng tới “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”. Đại hội VI
(12/1986) xác định những mục tiêu cụ thể về kinh tế cho những năm còn lại của
chặng đường đầu tiên là:
- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy;
- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất;
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nhờ có định hướng đúng đắn này mà trong 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới,
kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển mình to lớn.
Đất nước thoát khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh:
10


1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu
phát triển về lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu được
đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ
chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới

đời sống kinh tế xã hội và giải phóng sức sản xuất.
- 1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt được tốc
độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện. GDP bình quân hàng năm
tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
- 1996-2000: Giai đoạn này là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng
tài chính – kinh tế khu vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền
kinh tế nước ta trước những thử thách. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, Việt Nam
vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm.
- 2001-2005: Nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP bình
quân mỗi năm đạt 7.5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%. GDP theo giá
hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng,
tương đương với 640USD.
Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn – 1 triệu tấn lương
thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước
ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2
về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
- 2006-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào nước ta đạt tỷ lệ cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45
tỷ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm
ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai
đoạn 2001-2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so
với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP bình
quân đầu người đạt 1.168USD. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng
công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với sản xuất thị trường.
Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần năm 1988 là
46,3%, năm 2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%. Trong nội bộ ngành nông
nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ

trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị
xuất khẩu.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là
21,6%, năm 2005 lên 41%. Công nghiệp và xây dựng phát triển mạnh với thiết bị
công nghệ ngày càng hiện đại.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1%
năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển
với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ, tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý có bước
phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả. Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển
kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần
kinh tế.
-

11


Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệuquả,
tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh
tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo
hướng xóa bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm
của doanh nghiệp trong kinh doanh.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực
và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38%
GDP của cả nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở
thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan
trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân
sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.

- 2011-2015:
+ Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, từ 18,13% năm 2011 xuống còn
khoảng 2% vào năm 2015, thấp nhất trong 15 năm qua. Mặt bằng lãi suất giảm,
năm 2015 chỉ bằng 40% so với năm 2011; dư nợ tín dụng tăng 17%, cao nhất kể từ
năm 2011, chất lượng tín dụng từng bước được cải thiện. Tỉ giá được điều chỉnh
phù hợp; thị trường ngoại hối cơ bản ổn định; niềm tin vào đồng tiền Việt Nam tăng
lên; khắc phục một bước quan trọng tình trạng đô-la hoá, vàng hoá trong nền kinh
tế.
Kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 18%/năm, tỉ trọng xuất khẩu
sản phẩm chế biến, chế tạo tăng mạnh; nhập khẩu tăng 15%/năm; tỉ lệ nhập siêu
giảm từ 10,2% năm 2011 xuống còn 3,6% năm 2015. Cán cân thanh toán quốc tế
thặng dư khá cao; dự trữ ngoại hối năm 2015 đạt mức cao nhất từ trước đến nay.
+ Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý và phục hồi khá cao vào
những năm cuối; chất lượng tăng trưởng có bước được nâng lên
Tăng trưởng GDP năm 2015 ước đạt trên 6,5%, cao nhất trong 5 năm qua,
vượt kế hoạch đề ra (6,2%); bình quân 5 năm đạt khoảng 5,9%/năm, trong đó công
nghiệp, xây dựng tăng 6,74%/năm, nông lâm thủy sản tăng 3,01%/năm, dịch vụ
tăng 6,31%/năm. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng; GDP năm 2015
đạt khoảng 204 tỷ USD, bình quân đầu người 2.228 USD (tính theo sức mua ngang
giá là trên 5.600 USD).
+ Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn
thiện và được xác định cụ thể hơn, từng bước thực thi có hiệu quả và tạo được sự
đồng thuận trong xã hội.
+ Phát triển nguồn nhân lực và khoa học công nghệ đạt được những kết quả
tích cực. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân; mạng lưới được mở rộng; cơ cấu
đào tạo hợp lý hơn, quy mô và chất lượng được nâng lên. Chú trọng bảo đảm công
bằng trong tiếp cận giáo dục, nhất là vùng khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số.
Thực hiện kiên cố hóa trường lớp học và nhà công vụ cho giáo viên. Đổi mới
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông và thi tốt nghiệp trung học phổ
thông, tuyển sinh cao đẳng, đại học. Tỉ lệ nhập học mầm non đạt mức cao; hoàn

thành trước hạn mục tiêu trẻ em đi học tiểu học đúng độ tuổi. Xã hội hoá giáo dục
đào tạo được đẩy mạnh; thí điểm cơ chế tự chủ đối với một số trường đại học công
lập. Chú trọng đào tạo nghề, tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 51,6% vào năm 2015.
12


+ Ứng dụng khoa học và đổi mới công nghệ có bước tiến bộ, nhất là trong
các lĩnh vực nông nghiệp, thông tin truyền thông, y tế, xây dựng. Thị trường khoa
học công nghệ có bước phát triển, giá trị giao dịch tăng 13,5%/năm. Số lượng sáng chế
và các giải pháp hữu ích đăng ký bảo hộ gấp gần 2,2 lần so với giai đoạn 2006 2010. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2015 tăng 19 bậc so với
năm 2010.
+ Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội chuyển dịch tích cực, trong đó đầu tư công
giảm từ 35,5% năm 2010 xuống còn khoảng 30% năm 2015, đầu tư của dân cư và
doanh nghiệp trong nước tăng từ 36,1% lên 42%.
+ Về tái cơ cấu thị trường tài chính, trọng tâm là các ngân hàng thương mại.
Tập trung xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém. Đến
tháng 9 năm 2015, nợ xấu còn 2,9% (tháng 9/2012 là 17,43%) và đã giảm 17 tổ
chức tín dụng. Thanh khoản và an toàn hệ thống được bảo đảm; cung ứng vốn tốt
hơn cho nền kinh tế và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Quy mô thị trường chứng
khoán tăng, mức vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt khoảng 33% GDP và thị trường
trái phiếu đạt khoảng 23% vào cuối năm 2015.
+ Về cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trọng tâm là các tập đoàn
kinh tế và tổng công ty. Tập trung vào cổ phần hoá, thoái vốn đầu tư ngoài ngành và
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. DNNN tập trung hơn vào những lĩnh vực
then chốt, thiết yếu. Quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu được tăng cường.
Đã sắp xếp 465 DNNN, trong đó cổ phần hóa 353 doanh nghiệp. Việc thoái vốn đầu
tư ngoài ngành và bán bớt phần vốn tại các doanh nghiệp cổ phần hóa thu về cao
hơn giá trị sổ sách, gấp 1,47 lần.
+ Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới.
Tập trung tổ chức lại sản xuất. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học công

nghệ; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; đẩy mạnh khai thác hải sản xa bờ.
Hình thành một số khu nông nghiệp công nghệ cao, tổ hợp nông - công nghiệp dịch vụ quy mô lớn. Đa dạng hóa các loại hình hợp tác liên kết, gắn sản xuất với
chế biến và tiêu thụ. Nhân rộng các mô hình có hiệu quả cao. Khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Thu
hút được nhiều nguồn lực và sự tham gia của người dân vào xây dựng nông thôn
mới. Đến nay, đã có 9 huyện và 1.132 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 12,7%.
Dự kiến đến cuối năm 2015, có khoảng 1.500 xã đạt chuẩn, chiếm 16,8%.
+ Về tái cơ cấu công nghiệp, dịch vụ.
Cơ cấu công nghiệp chuyển dịch tích cực; tỉ trọng công nghiệp khai khoáng
giảm; tỉ trọng công nghiệp chế biến chế tạo, điện, điện tử có công nghệ cao tăng từ
49,8% năm 2010 lên khoảng 51% năm 2015. Năng lực và trình độ công nghệ ngành
xây dựng được nâng lên. Các ngành dịch vụ, du lịch tiếp tục tăng trưởng.
b. Xã hội
+ Văn hoá, xã hội có bước phát triển, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời
sống nhân dân tiếp tục được cải thiện:
Mở rộng đối tượng và nâng mức hỗ trợ người có công. Đến nay, có khoảng
98,5% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của
dân cư trên địa bàn. Tạo việc làm cho trên 7,8 triệu người. Tỉ lệ hộ nghèo giảm
khoảng 2%/năm (các huyện nghèo giảm trên 4%/năm), đến cuối năm 2015 còn dưới
13


4,5%. Số người tham gia BHXH tăng từ 9,7 triệu người năm 2011 lên 12 triệu năm
2015. Diện tích nhà ở bình quân đầu người tăng từ 17,5 m 2 năm 2010 lên 22 m2 năm
2015.
Làm tốt công tác y tế dự phòng, không để dịch bệnh lớn xảy ra. Chất lượng khám
chữa bệnh được nâng lên. Giảm quá tải bệnh viện đạt những kết quả tích cực. Tập
trung đầu tư xây dựng hệ thống các bệnh viện.
Đẩy mạnh xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Các giá trị
văn hoá dân tộc, di tích lịch sử được bảo tồn, phát huy. Nhiều di sản văn hoá được

công nhận là di sản văn hoá quốc gia và thế giới.
Tăng cường quản lý nhà nước về thông tin truyền thông. Nâng cao chất lượng,
đa dạng hóa phương thức, đáp ứng nhu cầu thông tin của người dân, thông tin đối
ngoại và phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Tích cực tham gia
đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo. Chú trọng bảo đảm an toàn, an ninh thông tin
mạng.
+ Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được
tăng cường: Tỉ lệ cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng được xử lý đạt 92,5% vượt chỉ tiêu
đề ra (kế hoạch 5 năm là 85%, năm 2015 là 90%). Nâng cao năng lực dự báo, cảnh
báo và chủ động phòng chống, giảm nhẹ thiên tai. Triển khai nhiều dự án ứng phó
với biến đổi khí hậu. Tranh thủ sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế.
+ Hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách hành chính đạt
những kết quả tích cực; công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí được chú
trọng: Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy; đổi mới công tác công vụ, công chức; tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin; thực hiện công khai, minh bạch; đề cao trách
nhiệm người đứng đầu. Cải cách thủ tục hành chính có bước tiến mới, nhất là các lĩnh
vực liên quan trực tiếp nhiều đến người dân và doanh nghiệp. Thực hiện Cơ chế một
cửa quốc gia và Kết nối kỹ thuật cơ chế một cửa ASEAN.
Phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, công tác tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được tập trung chỉ đạo và có những chuyển
biến tích cực. Xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật các hành vi tham nhũng.
Đã giải quyết được 512/528 vụ việc khiếu nại kéo dài. Khiếu nại, tố cáo giảm cả về
số lượng và số vụ khiếu kiện đông người.
c. An ninh - Chính trị
+ Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững: Tiềm lực
quốc phòng và an ninh được tăng cường. Sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng
chiến đấu của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được nâng lên. Bảo vệ vững
chắc chủ quyền quốc gia, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định và kết hợp tốt hơn
giữa bảo đảm quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội, phòng chống thiên
tai, cứu hộ, cứu nạn.

An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Đấu tranh ngăn chặn
hiệu quả hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Tăng cường phòng, chống
tội phạm và xử lý kịp thời các vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Công tác phòng, chống
cháy nổ và an toàn lao động được quan tâm chỉ đạo. Tai nạn giao thông giảm cả về
14


số vụ, số người chết, số người bị thương.
+ Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh và đạt
nhiều kết quả quan trọng: Kết hợp hiệu quả giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà
nước và ngoại giao nhân dân, lấy lợi ích quốc gia làm mục tiêu cao nhất và góp
phần tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho xây dựng, bảo vệ đất nước.
Tăng cường hợp tác và đối thoại, đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu,
thực chất và hiệu quả hơn; nâng cấp quan hệ với một số quốc gia thành đối tác chiến
lược và đối tác hợp tác toàn diện. Đối ngoại đa phương được nâng tầm, chủ động tham
gia định hình các khuôn khổ, nguyên tắc hợp tác và đóng góp có trách nhiệm trên các
diễn đàn Liên hợp quốc, ASEAN, ASEM, APEC… Tổ chức thành công Đại hội đồng
Liên minh Nghị viện thế giới (IPU-132). Tích cực vận động và được cộng đồng quốc
tế ủng hộ lập trường chính nghĩa của ta về vấn đề Biển Đông. Kiên trì cùng ASEAN
thúc đẩy thực hiện nghiêm túc Tuyên bố DOC và đàm phán xây dựng Bộ quy tắc ứng
xử COC.
Làm tốt hơn công tác người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân. Chủ
động đấu tranh với các hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền để chống phá ta.
Miễn thị thực cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và công dân của nhiều
nước để khuyến khích phát triển thương mại, đầu tư và du lịch.
Hội nhập quốc tế được triển khai đồng bộ, hiệu quả cả về chính trị an ninh
quốc phòng, kinh tế, văn hóa xã hội. Tích cực tham gia xây dựng Cộng đồng
ASEAN. Đã có 59 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Đẩy mạnh triển
khai các hiệp định thương mại tự do đã ký kết và chủ động đàm phán tham gia các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được trên cơ sở vận dụng đúng đắn
nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tổng kết thực tiễn, đưa ra đường lối
đổi mới kịp thời, phù hợp, thì hiện tại vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế trong sự
vận dụng nguyên lý này.
a) Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc. Cân đối ngân sách nhà nước còn
khó khăn, cơ cấu chưa hợp lý, bội chi còn cao. Nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ
lớn. Chất lượng tín dụng chưa cao, xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các ngân hàng thương
mại cổ phần yếu kém còn nhiều khó khăn. Huy động nguồn lực đầu tư ngoài nhà
nước còn hạn chế.
b) Tăng trưởng kinh tế và một số chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch đề ra. Năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.Sản xuất kinh
doanh và xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước, nhất là nông sản còn nhiều khó
khăn, liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Sản
xuất nông nghiệp hiệu quả chưa cao. Dịch vụ tăng thấp hơn giai đoạn trước, du lịch
chưa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
c) Thực hiện các đột phá chiến lược và tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đáp ứng yêu
cầu. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn vướng mắc,
chưa thực sự trở thành động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế - xã hội; các loại thị
trường phát triển còn chậm, hiệu quả chưa cao. Phát triển nguồn nhân lực, khoa học
15


công nghệ và kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển.
d) Tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Tái cơ cấu
nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới chưa đạt yêu cầu. Hiệu quả đầu tư công
chưa cao. Tái cơ cấu DNNN và sắp xếp, đổi mới các công ty nông, lâm nghiệp chưa
đạt mục tiêu đề ra. Đổi mới công nghệ, phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành
có công nghệ cao, giá trị gia tăng cao còn chậm. Chưa tham gia được nhiều vào

mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
đ) Phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội nhiều mặt còn
hạn chế, khắc phục còn chậm. Giải quyết việc làm, đời sống của một bộ phận nhân
dân còn nhiều khó khăn. Khoảng cách giàu nghèo còn lớn; tỉ lệ hộ nghèo trong
đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân có mặt còn
hạn chế. Việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều yếu kém. Tệ nạn xã hội
một số nơi còn diễn biến phức tạp. Nhiều biểu hiện xấu về đạo đức, lối sống gây
bức xúc trong nhân dân.
e) Quản lý, khai thác, sử dụng đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng
phó với biến đổi khí hậu còn nhiều yếu kém, hiệu quả chưa cao. Cải thiện tình trạng
ô nhiễm môi trường còn chậm. Nguồn lực phòng, chống thiên tai và ứng phó với
biến đổi khí hậu chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng ngập lụt ở một số thành phố lớn
khắc phục còn chậm.
g) Cải cách hành chính trên nhiều lĩnh vực còn chậm,thủ tục còn phiền hà.
Cơ cấu tổ chức, bộ máy nhà nước còn cồng kềnh; chức năng, nhiệm vụ vẫn còn
chồng chéo, chưa đủ cụ thể. Một số quy định chưa phù hợp với thực tiễn; vẫn còn
tình trạng nợ đọng văn bản. Ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ
điện tử còn chậm. Năng lực, phẩm chất, đạo đức, tinh thần trách nhiệm của một bộ
phận cán bộ, công chức, viên chức còn nhiều hạn chế. Thanh tra, kiểm tra, giám sát
và phản biện xã hội hiệu quả chưa cao. Phòng chống tham nhũng chưa đạt yêu cầu.
Việc tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo vẫn còn hạn chế.
h) Bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ trên Biển Đông còn nhiều
khó khăn, thách thức. An ninh trật tự, an toàn xã hội trên một số địa bàn vẫn còn
phức tạp; một số vụ án nghiêm trọng gây bức xúc xã hội; một số tổ chức nhen nhóm
hình thành trái pháp luật. Bảo đảm an toàn, an ninh thông tin mạng còn nhiều bất
cập. Tai nạn giao thông vẫn còn nghiêm trọng; ùn tắc giao thông tại đô thị lớn khắc
phục chậm.
i) Công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có mặt chưa thật chủ động,
hiệu quả chưa cao. Chưa phát huy hết các lợi thế và chuẩn bị tốt các điều kiện cho
chủ động hội nhập. Sự gắn kết giữa hội nhập kinh tế quốc tế với quốc phòng, an

ninh, văn hóa, xã hội, đối ngoại nhân dân có mặt còn hạn chế.

16



×