Tải bản đầy đủ (.doc) (150 trang)

Giáo trình: Bón phân cho cây trồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 150 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP I - HÀ NỘI

Giáo trình
BÓN PHÂN CHO CÂY TRỒNG

TS. NGUYỄN NHƯ HÀ

NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP

1


B ảng k ý hi ệu c ác ch ữ viết tắt
Chũ viết tắt
Nhà xuất bản
Nhà xuất bản Nông Nghiệp
Thành phố Hồ Chí Minh
Nhà xuất bản Th ành ph ố H ồ Ch í Minh
Sinh tr ư ởng dinh dư ỡng
Sinh tr ư ởng sinh th ực
Thời Gian sinh tr ư ởng
Thành phần cơ giới
Công ty
Hình 2.1
Bảng 13.1

Ký hiệu
NXB
NXB NN
TP HCM


NXB TP HCM
ST DD
STST
TGST
TPCG
Cty
H 2.1
B 13.1

2


MỞ ĐẦU
Bón phân là biện pháp kỹ thuật có ảnh hưởng quyết định đến năng suất, chất lượng
sản phẩm cây trồng, hiệu quả và thu nhập của người sản xuất. Vì vậy phân bón là một yếu tố
đầu tư rất được quan tâm và thường chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng chi phí sản xuất của
người trồng trọt. Tuy nhiên không phải cứ bón nhiều phân hay bón phân thế nào cũng đem lại
hiệu quả mà việc bón phân không hợp lý có thể ảnh hưởng xấu đến năng suất, chất lượng và
khả năng bị sâu bệnh hại cây trồng và còn là nguyên nhân gây ảnh hưởng xấu tói môi
trường….
Để bón phân đạt năng suất cây trồng cao với phẩm chất tốt và quan trọng hơn đạt lợi
nhuận cao nhất cho trồng trọt mà không làm cho đất trồng bị suy thoái và ảnh hưởng xấu tới
môi trường, cần xây dựng được quy trình bón phân phù hợp với cây trồng trong điều kiện cụ
thể - quy trình bón phân hợp lý cho cây trồng.
Quy trình bón phân hợp lý cho cây trồng là toàn bộ những quy định về loại phân bón,
dạng phân bón, lượng phân bón, thời kỳ bón phân, phương pháp bón phân phù hợp với đặc
điểm của cây trồng, đất trồng, khí hậu thời tiết và các vấn đề khác liên quan đến cây trồng
được bón phân. Đây cũng chính là nội dung của giáo trình.
Giáo trình bón phân cho cây trồng được biên soạn nhằm phục vụ cho sinh viên chuyên
ngành Thổ nhưỡng-Nông hoá và học viên cao học chuyên ngành Nông hóa học đồng thời làm

tài liệu tham khảo cho và các sinh viên nông nghiệp khác đặc biệt là các sinh viên thuộc
chuyên ngành Hóa nông nghiệp và các cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, chỉ đạo sản xuất ….
Mục đích của giáo trình nhằm giúp người đọc có thể xác định quy trình bón phân hợp
lý cho cây trồng trong những điều kiện cụ thể.
Giáo trình được biên soạn thành 4 chương với bốn nhóm cây trồng nông nghiệp chủ
yếu:
• Chương I- Bón phân cho cây lương thực
• Chương II- Bón phân cho rau
• Chương III-Bón phân cho cây ăn quả
• Chương IV- Bón phân cho cây công nghiệp
Trong mỗi chương đều có trình bày những kiến thức cơ sở cho việc xây dựng quy
trình bón phân cho mỗi nhóm cây trồng chính và quy trình bón phân cho những cây đại diện
của nhóm cây trồng chính tương ứng.
Do thời lượng của môn học hạn chế, nội dung của giáo trình nhằm phục vụ cho việc
giảng dạy và học tập lý thuyết, còn phần câu hỏi ôn t ập và bài tập nhằm giúp sinh viên tự ôn
tập và thực hành tốt hơn.
Giáo trình do tiến sĩ chuyên ngành Nông hoá học Nguyễn Như Hà biên soạn trên cơ sở
tham khảo nhiều giáo trình, sách, tài liệu liên quan đến bón phân cho cây.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các tác giả của những tài liệu đã tham
khảo trong giáo trình.
Do giáo trình được biên soạn lần đầu tiên trong hoàn cảnh thời gian hạn hẹp và trình
độ còn hạn chế của tác giả, chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót trong giáo trình. Tác giả rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của độc giả. Xin chân thành cảm ơn.

3


CHƯƠNG I - BÓN PHÂN CHO CÂY LƯƠNG THỰC
Nội dung của chương I trình bày những cơ sở chung và nguyên lý xác định quy trình
bón phân cho cây lương thực. Đồng thời cũng trình bày những cơ sở cho việc xác định quy

trình bón phân và quy trình bón phân cho các cây lương thực chính: lúa, ngô, khoai lang, sắn.
1. ĐẠI CƯƠNG VỀ BÓN PHÂN CHO CÂY LƯƠNG THỰC
1.1. Vai trò của sản xuất lương thực trong nền kinh tế quốc dân
Kinh nghiệm và thực tiễn phát triển ở mỗi vùng và Quốc gia cho thấy để phát triển
kinh tế xã hội bền vững, cần dồn mọi nỗ lực để tạo an ninh lương thực ở thời kỳ đầu. Vì đảm
bảo an ninh lương thực là yếu tố rất quan trọng để ổn định chính trị xã hội, tạo nền tảng cho
việc phát triển kinh tế, xã hội. Tầm quan trọng của lương thực cũng đã được cha ông chúng ta
khẳng định qua các câu ngạn ngữ “có thực mới vực được đạo”, “ mạnh vì gạo, bạo vì tiền”. Ở
Việt Nam sản xuất lương thực hiện đang cung cấp 70-80% tổng lượng calo trong bữa ăn hàng
ngày của con người. Nên có những thời gian chúng ta phải trồng cây lương thực bằng mọi
giá, dù sản xuất lương thực không cho thu nhập cao.
Cây lương thực là cây trồng có diện tích và sản lượng lớn nhất, chiếm hầu hết diện
tích đất trồng cây hàng năm ở Việt Nam. Kết quả điều tra năm 1995 cho thấy diện tích trồng
cây lương thực chiếm 99,3% diện tích cây hàng năm của cả nước ( Bộ môn Cây lương thực,
1997 ). Vì vậy sản xuất lương thực đang chiếm một tỷ trọng rất lớn trong phần đóng góp của
sản xuất nông nghiệp cho tổng thu nhập Quốc dân (khoảng 1/3 GDP) và tạo ra nguồn thu
nhập rất quan trọng cho người nông dân.
Sản xuất lương thực còn tạo ra nguồn nông sản xuất khẩu lớn nhất, hàng năm cung
cấp 3-4 triệu tấn gạo, đưa Việt Nam trở thành cường quốc xuất khẩu lương thực, có đóng góp
rất quan trọng trong an ninh lương thực của thế giới. Đồng thời đóng góp phần hàng xuất
khẩu và nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho Đất Nước.
Trồng các cây lương thực còn nhằm cung cấp nguồn thức ăn quan trọng cho chăn nuôi
và nguồn nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp chế biến, tạo điều kiện phát triển mạnh
chăn nuôi và công nghiệp chế biến. Đồng thời tạo khả năng đa dạng hoá sản xuất phá thế độc
canh cây lúa và luân canh cây trồng cạn với cây lúa nước tạo hiệu quả cao hơn cho trồng trọt,
sử dụng và cải tạo đất.
1.2. Phân bố các cây lương thực chính ở Việt Nam
Các cây lương thực chính ở Việt Nam xếp theo thứ tự diện tích giảm dần là: lúa, ngô,
sắn, khoai lang.
Lúa gạo là cây lương thực chính ở Việt Nam, diện tích trồng lúa chiếm phần lớn nhất

khoảng 7,5 triệu ha (Năm 1995 diện tích trồng lúa chiếm 76,9% diện tích cây hàng năm, diện
tích cây màu chỉ chiếm 22,4% diện tích cây hàng năm). Cây lúa được trồng phổ biến ở khắp
mọi nơi, ngay ở miền núi diện tích trồng lúa cũng có tỷ lệ lớn trong diện tích trồng trọt. Vì
trồng lúa ngoài những tác dụng của cây lương thực chính còn là một biện pháp sử dụng đất
bền vững.
Ngô là cây lương thực có diện tích lớn thứ hai (khoảng 910 ngàn ha), là cây lương
thực chính của một số dân tộc ít người, được trồng nhiều ở miền núi phía Bắc.
Khoai lang là cây lương thực bổ sung ở vùng ven biển miền trung, khu bốn cũ và cả ở
Đồng bằng sông Hồng.
Sắn là cây lương thực phụ quan trọng ở vùng núi phía Bắc, ven biển miền Trung, khu
bốn cũ, Đông nam bộ.

4


Trong thực tế ở mỗi vùng còn có thể có các cây lương thực khác nhưng với diện
tích và ý nghĩa không nhiều.
Bảng 1.1. Diện tích, năng suất và khu vực trồng các loại cây lương thực chính ở Việt Nam
STT

Loại cây
lương thực

Diện tích
trồng (1000ha)

Năng suất
trung bình
T/ha


1

Lúa

7449,3

4,6

2

Ngô

909,8

3,2

3

Khoai lang

219,9

7,2

4

Sắn

371,7


14,1

Vùng trồng chính
Đồng bằng sông cửu long, Đồng
bằng sông Hồng, Đồng bằng ven
biển miền Trung…
Vùng núi phía Bắc, Đồng bằng
sông Hồng, Bắc trung bộ, Cao
nguyên Trung bộ, Đông nam bộ
Miền trung, Đồng bằng sông
Hồng
Vùng núi phía Bắc, miền Trung,
Đông Nam bộ

Nguồn: Niên giám thống kê 2003
1.3. Đặc điểm đất trồng cây lương thực
Đặc điểm chung của đất trồng lúa
Đất lúa bằng phẳng có ở khắp mọi nơi, phần lớn tập trung ở vùng đồng bằng nhưng
cũng khá đa dạng về hoá tính, lý tính và mẫu chất phù sa. Đất lúa chiụ sự chi phối của các quy
luật tự nhiên và tác động của con người, có thể đi theo một trong hai xu hướng: càng ngày
càng thuần thục và màu mỡ hoặc xấu đi.
Líp «xi ho¸

l íp n­íc ruéng

Líp khö

TÇng canh t¸c A0
TÇng ®Õ cµy P


TÇng tÝch tô B

TÇng Gley G

H.1.1. Đặc trưng hình thái của phẫu diện đất lúa điển hình

5


Do canh tác lúa trong điều kiện ngập nước, phẫu diện đất lúa nước thường gồm các
tầng với các chức năng khác nhau như sau:
- Tầng canh tác là tầng đất quan trọng nhất - trực tiếp cung cấp dinh dưỡng cho cây lúa và
chịu ảnh hưởng của các họat động sản xuất của con người, đồng thời cũng ảnh hưởng lớn tới
sự chuyển hóa của phân bón. Tầng đất này được phân thành 2 lớp: Lớp ôxy hóa, có độ dày
< 2 cm, luôn ở trạng thái ô xy hóa do được tiếp xúc nhiều nhất với không khí trong quá trình
canh tác, đặc biệt được các sinh vật sống thủy sinh trong lớp nước mặt ruộng làm giàu ôxy
cho. Lớp khử ôxy, bị yếm khí hoàn toàn, có nhiều chất khử, Eh thấp. Sự phân hóa tầng canh
tác đất lúa thành 2 lớp như trên có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng phân đạm bón cho
lúa.
- Tầng đế cầy, là tầng đất chặt phía dưới tầng canh tác, hình thành do quá trình trồng lúa lâu
đời và có ý nghĩa quan trọng đối với đất lúa. Nó có tác dụng ngăn cản nước thấm quá nhanh,
giữ nước cho ruộng lúa.
- Tầng tích tụ, tích lũy các chất thấm từ trên xuống.
- Tầng gley, hình thành do ảnh hưởng của nước ngầm, có tỷ lệ sét cao và nhiều chất khử, có
tác dụng giữ nước tốt hơn cho ruộng lúa. Tầng gley ở độ sâu 60-80 cm là tốt nhất cho đất lúa.
Do đất đựợc nước bao phủ làm cho quá trình rửa trôi các chất dễ tan thấm sâu vào
lòng đất. Các chất rửa trôi theo kiểu này là đạm nitrat, các muối kali, các ion phốtphát và đạm
amôn (nếu đất nghèo sét) các cation kiềm thổ và cả các hạt sét cũng bị thấm xuống sâu.
Phốtphát liên kết với sắt hoá trị 3 chuyển thành sắt hoá trị 2 giải phóng ion phốtphát nên ion
phốtphát vẫn bị đẩy xuống dưới. Silic nằm trong dạng keo SiO 2 rất cần cho lúa để hình thành

rơm rạ nhưng cũng bị rửa trôi. Rửa trôi theo chiều sâu gây ra hiện tượng không đồng đều giữa
các tầng đất về mặt thành phần cơ giới cũng như đặc tính hoá học. Chất dinh dưỡng và chất
hữu cơ trong đất lúa còn bị mất đi do nước tràn bờ, đặc biệt chất hữu cơ ít bị rửa trôi theo
chiều sâu do không tan trong nứơc song trong điều kiện này thì bị cuốn đi không ít.
Đất lúa luôn ở trong hoàn cảnh luân phiên khô ẩm cho nên quá trình ôxy hoá khử xảy ra
phổ biến. Trong đó sắt và mangan tham gia tích cực vào phản ứng ôxy hoá khử của đất lúa:
Fe3+ + e

Fe2+
3+
Mn
+e

Mn2+
4+
Mn
+ 2e 
Mn2+
Fe2+ và Mn2+ có thể từ nước ngầm leo lên theo mao quản đến một lớp nào đấy, bị ôxy
hoá thành hợp chất có hoá trị cao không tan trong nước hoặc hình thành kết von sắt và
mangan trong đất. Khi Fe3+ bị khử thành Fe2+ là một yếu tố hình thành quá trình glây trong đất
lúa. Hợp chất của Fe2+ di động và khi gặp không khí cũng rất dễ bị ôxy hoá tạo thành Fe 3+, tạo
nên các vệt gỉ sắt loang lổ của các hyđrat oxyt sắt. Nếu ngập nước lâu dài hay luôn thừa ẩm,
ion Fe2+ cùng với silicát và khoáng sét tái tổng hợp ra nhôm silicát thứ sinh, có màu xám
xanh, hay xanh lơ, hay xám sẫm tạo nên tầng đất glây.
Do ngập nước các chất dinh dưỡng trong đất lúa thay đổi nhiều, có chất tăng lên có
chất giảm xuống. Đạm amôn tích luỹ càng ngày càng nhiều, lượng amôn tăng lên so với trước
khi ngập nuớc có khi lên tới 8-10 lần ở đất giàu đạm. Lân cũng rất dễ chuyển sang dạng dễ
tan sau khi ngập nước. Các chất dễ tan khác như mangan hoá trị 2, sắt hoá trị 2 cũng nhiều
hơn. Vì vậy khả năng cung cấp thức ăn dưới dạng dễ tiêu cho cây lúa của đất lúa ngập nước

tăng. Độ chua của đất cũng giảm đi vì trong đất đã tích luỹ nhiều sản phẩm mang tính kiềm,
trị số pH của đất có thể tăng lên tới 1-2 đơn vị.
Trong điều kiện ngập nước, rễ cây lúa hút thức ăn dễ dàng do trong đất lúa các chất
dinh dưỡng dễ tiêu đã tăng nhiều và ở trạng thái khử mà xung quanh rễ lúa lại là vùng ôxy
hoá nên dễ dàng di chuyển vào cây. Mặt khác, nhờ có khả năng ôxy hoá của rễ cây lúa mà nếu
có nhiều chất độc đã tích luỹ do quá trình khử gây ra thì chúng được ôxy hoá và trở nên vô

6


hại. Nhờ ngập nước mà khí cacbonic vốn tạo ra nhiều do các chất hữu cơ phân giải bị đẩy và
tích luỹ trên mặt nước làm nguồn dự trữ cho quá trình quang hợp.
Đặc điÓm của các vùng đất trồng lúa
Đất phù sa sông Hồng (PSSH) là vùng trồng lúa sớm nhất nước ta và là n¬i có trình độ
thâm canh cao. Đất PSSH có nhiều ưu điểm, trong đó nổi bật về thành phần cơ giới (TPCG)
thích hợp cho trồng lúa (từ thịt nhẹ đến thịt nặng); có pH trung tính đến ít chua, tỷ lệ chất hữu
cơ khá, hàm lượng đạm trên dưới 0,15%; giàu lân và kali và các cation kiềm thổ (Ca, Mg).
Tuy đất không chua nhưng có sắt di động nhiều nên kết tủa lân dưới dạng phốtphat hoá trị 3
tránh rửa trôi, khi gặp nước lại biến thành hoá trị 2 dễ tan nên cây lúa hút dễ dàng.
Bảng 2.1. Các đặc trưng hóa học của c¸c lo¹i đất trồng lúa chính ở Việt Nam
Độ no
Loại
HC
Hàm lượng tổng số
Dễ tiêu
CEC
pHKCl
Bazơ
đất
(%)

(%)
(mg/100g)
(me)
(%)
N
P2O5
K2O
P2O5
K2O
1
2
3
4
5
6
7
8

6–7
7–12
3–5
5–6
5–6
4–5
4–5
4–6

0,5–1,0
1,2–2,5
1,3–1,6

1,2–1,8
1,5–2,9
0,9–1,4
1,3–3,0
0,8–1,1

0,05-0,07
0,09-0,12
0,10-0,24
0,12-0,26
0,15–0,32
0,07-0,12
0,10-0,30
0,04-0,08

0,03-0,50
0,08-0,13
0,03-0,08
0,08-0,13
0,09-0,13
0,05-0,10
0,04-0,08
0,03-0,06

0,2-0,4
1,7-2,1
1,4-1,7
1,7-2,2
1,6-2,0
1,4-1,7

1,6-2,1
0,2-0,4

3-5
8-10
2-3
12-15
5-7
4-6
3-5
5-7

2-4
30-45
10-20
15-25
15-20
5-8
8-10
5-6

3-7
12-20
13-23
14-25
12-18
8-14
10-18
4-7


40
60-70
40
80-85
65-80
65-75
45-50
43-58

Ghi chú: 1. Đất cát biển 2. Đất mặn 3. Đất phèn 4. Đất phù sa sông Hồng 5. Đất phù sa sông Cửu Long
6. Đất phù sa sông Thái Bình 7. Đất phù sa úng nước 8. Đất xám bạc màu

Nguồn: Nguyễn Tử Siêm, Thái Phiên, 1999

Đất lúa phù sa sông Cửu Long mới được khai phá, vì vậy đất lúa phù sa sông Cửu
Long còn rất trẻ, chưa thuần thục nhưng giàu hữu cơ và đạm hơn. Đồng thời đất có TPCG
nặng hơn, nhiều sét hơn do độ dốc lòng sông không đáng kể nên hạt sét lắng đọng dễ dàng.
Bảng 3.1. Tính chất vật lý các loại đất trồng lúa chính ở Việt Nam
Thành phần cấp hạt (%)
Loại Tỷ trọng Dung Độ xốp
Độ ẩm
SCADR
trọng
đất (g/cm3)
(%)
cây héo
Cát
Limon
Sét
3

(g/cm
)
1 2,6 - 2,7 1,2
- 1,3
50
18 – 26
5–8
80 – 85
10 – 15
1-8
2 2,5 - 2,6 1,0 - 1,4 48 - 62 33 - 35
7–8
22 – 30
40 – 50 40 - 48
3 2,4 - 2,6 0,9 - 1,2 58 - 60
39
17
25 – 30
40 – 50 25 – 30
4 2,5 - 2,8 0,8 - 1,2 60 - 64 39 - 46 11 – 24
14 – 21
54 – 57 21 – 31
5 2,5 - 2,6 0,9 - 1,3
50
33 - 35 7,0 – 8,5 8,5 – 10 54 – 58 33 – 38
6 2,6 - 2,7 0,9 1,2 55 - 66 36 - 39 11 – 12
2–3
62 – 67 30 – 36
7 2,6 - 2,7 1,4 - 1,5 40 - 47 24 - 27
7–8

22 – 24
62 – 64 10 – 12
8 2,6 - 2,7 1,4 - 1,5 40 - 47 24 - 27
7–8
22 – 24
62 – 64 10 – 12
Ghi chú: 1.Đất cát biển 2. Đất mặn 3. Đất phèn 4. Đất phù sa Sông Hồng 5. Đất phù sa Thái Bình
6. Đất phù sa úng nước 7. Đất xám bạc màu 8. SCAĐR. Sức chứa ẩm đồng ruộng

Nguồn: Nguyễn Tử Siêm, Thái Phiên, 1999
Đất phù sa trồng lúa dọc các con sông miền Trung kém màu mỡ có đặc điểm nổi bật là
đều bị ảnh hưởng của các lớp đá mẹ chua, nghèo các chất kiềm thổ và thành phần cơ giới nhẹ.
Đất nghèo lân, kali, hữu cơ và đạm; thấp hơn rõ so với đất lúa đồng bằng sông Hồng do đây là

7


vùng thường xuyên bị ảnh hưởng của lũ lụt lên xuống khá nhanh, các hạt sét và hạt limon mịn
không kịp lắng đọng để bồi đắp các chất dinh dưỡng. Lớp đất mặt thường có màu xám, xám
nhạt hoặc xanh tro.
Đất lúa vùng chiêm trũng, có những đặc điểm khác hẳn với các đất lúa khác. Đặc điểm
thứ nhất là đất có TPCG rất nặng (do ở xa sông lại có địa hình thấp), có quá trình khử ôxy xảy
ra liên tục làm cho chất khử tích luỹ khá nhiều trong đất (do bị ngập nước quanh năm). Các chất
khử điển hình ở ®ây là sắt, mangan hoá trị 2, các muối sun phua và khí mêtan. Đặc điểm thứ hai
của đất lúa vùng chiêm trũng là có tỷ lệ chất hữu cơ khá cao. Đặc điểm thứ ba là đất rất nghèo
lân gây nên sự mất cân đối nghiêm trọng giữa 2 yếu tố lân-đạm.
Đất mặn trồng lúa, vốn là đất phù sa của những dòng sông phì nhiêu nhưng bị nhiễm
mặn, trong đất có nhiều muối tan, trong đó muối clo chiếm ưu thế. Loại đất này nếu được rửa
mặn thì cho năng suất cao chẳng kém đất phù sa “ngọt”.
Đất phèn trồng lúa có đặc điểm quan trọng là rất nghèo lân dễ tiêu và rất chua. Độ

chua ở đất phèn là do phèn nhôm và phèn sắt phân huỷ mà thành. Đất này cũng như đất chiêm
trũng thường có tỷ lệ chất hữu cơ cao, đặc biệt là trong đất phèn tiềm tàng.
Đất lúa ở các vùng đất bạc màu, đất xám và đất cát ven biển nơi đất có màu trắng xám,
có các hạt cát nhiều hơn sét và nhìn chung đất rất nghèo từ chất hữu cơ đạm cho đến lân, kali,
magiê… Ở đất này khi cho nước vào ruộng để làm đất, sau bừa thì đất lắng rất nhanh, hầu hết
không khí bị đẩy ra khỏi đất làm đất có kết cấu kém nên đất trồng 2 vụ lúa mà để nước liên
tục thì quá trình yếm khí xảy ra rất dễ dàng.
Đặc điểm đất trồng cây màu-lương thực
Các cây màu-lương thực được trồng trên đất cạn không ngập nước đòi hỏi hoá tính đất
phải tốt và cả lý tính đất cũng phải phù hợp. Đất trồng màu chứa một lượng nước ít hơn nhiều so
với đất lúa ngập nước nên trong đất này các chất dinh dưỡng khó hoà tan để trở thành dạng dễ tiêu
cho cây do đó phải có sự tương trợ giữa các chất vô cơ và hữu cơ. Đất trồng các cây mầu lương
thực có thể là: đất lúa tăng vụ, hay đất không có khả năng trồng lúa do thiếu nước, đất đỏ vùng
đồi núi, đất xám, đất cát…
Đất trồng màu trong điều kiện vụ đông có nhiệt độ thấp không thuận lợi cho quá trình
khoáng hoá chất hữu cơ nên nguồn dinh dưỡng dễ tiêu trong đất cũng hạn chế. Cây cần nhiều
ôxy nên đất phải được xới xáo nhưng lại làm cho quá trình khuếch tán nước bị ảnh hưởng xấu,
không có điều kiện để hoà tan các chất dễ tiêu. Vì vậy khả năng cung cấp dinh dưỡng dễ tiêu
cho các cây màu trồng trên đất lúa tăng vụ không cao dù trong đất giàu dinh dưỡng tổng số do
độ ẩm của đất và độ nhiệt trong vụ đông thấp đã làm cho các chất dễ tiêu bị “khoá chặt” trong
đất. Đất có TPCG nhẹ (giàu cát) vào những tháng rét, tốc độ khoáng hoá nhanh hơn đất có
TPCG nặng nên có ưu điểm trong việc cung cấp chất dễ tiêu cho cây vụ đông.
Đất đồi núi là vùng trồng nhiều cây màu lương thực, thuờng là những loại đất có vấn đề.
Đất sau khai hoang có xu thế giảm hàm lượng hữu cơ. Trên đất đồi núi các chất kiềm và kiềm
thổ do xói mòn, rửa trôi làm khả năng hấp thụ trao đổi và pH của đất giảm mạnh, Al +3 và
H+tăng tương đối . Đất thường có phản ứng từ chua đến rất chua, thường có hàm lượng nhôm
cao có thể gây độc hại cho cây trồng. Quá trình xói mòn rửa trôi làm mỗi hecta đất dốc bị xói
mòn bình quân 10 tấn đất trong một năm cùng với nhiều lượng dinh dưỡng bị mất đi, sức chứa
ẩm đồng ruộng của đất cũng kém đi, tốc độ thấm nước và giữ nước trong đất giảm làm tăng
nguy cơ bị hạn hán. Ở đất đồi núi yếu tố chi phối mạnh mẽ trạng thái cung cấp dinh dưỡng lân

là mức độ giữ chặt lân và chất hữu cơ có vai trò quyết định trong việc giảm giữ chặt lân, nâng
cao hàm lượng lân dễ tiêu có trong đất cho cây trồng. Khi chất hữu cơ mất đi 1% thì khả năng
giữ chặt lân tăng lên 50 mg/100 g đất. Tương quan thuận giữa mùn và lân dễ tiêu luôn được
phát hiện trên các loại đất feralit vùng đồi núi.

8


Bảng 4.1. Tính chất hóa học của các loại đất trồng màu ở Việt Nam
HC
(%)

Loại đất pHKCl

1
2
3
4
5
6
7
8

4–6
4–5
4–5
4–5
4–5
4–5
4–5

4–5

0,8–1,1
3,0–5,5
2,5–4,2
1,5–3,0
1,8–2,5
1.0–2,0
1,0–2,0
3,0–6,0

Hàm lượng tổng số
(%)

Dễ tiêu
(mg/100g)

N

P2O5

K2O

P2O5

K2O

0,04-0,08
0,15-0,25
0,10-0,30

0,10-0,20
0,10-0,20
0,10-0,15
0,10-0,15
0,20-0,30

0,03-0,06
0,20-0,30
0,10-0,20
0,03-0,06
0,03-0,05
0,04-0,06
0,04-0,06
0,05-0,20

0,2-0,4
0,5-0,7
0,8-1,0
1,8-2,0
0,2-0,3
0,5-0,7
0,7-0,8
0,7-1,0

5-7
2-7
5-10
5-7
1-3
1-2

2-5
2-4

5-6
6-12
10-15
10-15
1-5
1-4
3-7
5-10

CEC
(me)

Độ no
Bazơ
(%)

4-7
12-15
24-26
9-15
14-16
10-12
12-16
10-20

43-58
37-40

58-65
40-50
45-48
42-44
43-40
35-40

Ghi chú: 1. Đất xám bạc màu 2. Đất nâu đỏ trên bazan 3. Đất nâu đỏ trên đá vôi 4. Đất vàng đỏ trên macma
axit 5. Đất đỏ vàng trên đá sét, biến chất 6. Đất vàng nhạt trên đá cát 7. Đất nâu vàng trên phù sa
cổ. 8. Đất mùn vàng đỏ trên núi SCAĐR: Sức chứa ẩm đồng ruộng

Nguồn: Nguyễn Tử Siêm, Thái Phiên, 1999
Bảng 5.1. Tính chất vật lý các loại đất trồng màu ở Việt Nam
Loại Tỷ trọng
đất (g/cm3)
1
2
3
4
5
6
7
8

2,6 - 2,7
2,5 - 2,6
2,7 - 2,8
2,5 - 2,6
2,6 - 2,7
2,6 - 2,7

2,5 - 2,6
2,7 - 2,8

Dung
trọng
3
(g/cm
1,4
- 1,5)
0,9 - 1,1
1,0 - 1,1
1,0 - 1,2
1,4 - 1,5
1,5 - 1,6
1,4 - 1,6
0,7 - 0,9

Độ xốp
(%)

SCADR

Độ ẩm
cây héo

40 - 47
58 -60
55 - 60
54 - 56
43 - 45

39 - 43
<40
68 - 75

24 - 27
50 - 55
30 - 40
26 - 28
21 - 26
30 - 32
-

7–8
23 – 26
24 – 25
14 – 15
9 – 11
13 – 14
-

Thành phần cấp hạt (%)
Cát
Limon
Sét
22 – 24
12 – 15
17 – 19
25 – 30
20 – 22
70 – 72

35 – 37
13 – 19

62 – 64
13 – 21
33 – 35
40 – 43
51 – 53
20 – 22
40 – 45
57 – 58

10 – 12
67 – 62
47 – 48
30 – 32
24 – 26
8 – 10
20 – 25
25 – 30

Ghi chú: 1. Đất xám bạc màu 2. Đất nâu đỏ trên badan 3. Đất nâu đỏ trên đá vôi 4. Đất vàng đỏ
trên macma axit 5. Đất đỏ vàng trên đá sét, biến chất 6. Đất vàng nhạt trên đá cát 7. Đất
nâu vàng trên phù sa cổ 8. Đất mùn vàng đỏ trên núi

Nguồn: Nguyễn Tử Siêm, Thái Phiên, 1999
Đất xám bạc màu có thành phần cơ giới là cát mịn pha bụi, nghèo mùn, nghèo sét,
nghèo canxi nên kết cấu rất xấu, giữ nước kém, có độ xốp không cao, nhưng có độ thông khí
rất cao, chất hữu cơ khó tích luỹ. Đất có khả năng hấp thu rất kém, tính đệm kém, cũng vì thế
mà khi bón phân cho cây trồng, đất không giữ được. Đất nghèo kiệt về thành phần hoá học, vì

phần lớn chất dinh dưỡng, các muối dễ tan, chất kiềm và kiềm thổ bị rửa trôi.
Đất cát có TPCG của lớp đất mặt là cát pha, kết cấu rời rạc, có chế độ nhiệt không ổn
định, đất bốc hơi mạnh, có lượng mùn thấp, pH thường từ 4,5-5,5; hàm lượng N,P,K tổng số
cũng như dễ tiêu đều nghèo. Đất có khả năng giữ nước, giữ phân kém vì lượng sét và mùn
thấp nên thường thiếu nước nghiêm trọng.

9


1.4. Nguyên lý bón phân cho cây lương thực
Để việc bón phân cho cây lương thực đạt hiệu quả cao mà không gây ảnh hưởng xấu
tới cây và môi trường cần quan tâm xây dựng quy trình bón phân phù hợp với đặc điểm của
cây và đất trồng nó. Quy trình bón phân hợp lý cho cây trồng cần được xây dựng trên cơ sở
đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau:
- Cây trồng được cung cấp đầy đủ và kịp thời chất dinh dưỡng cần thiết để cho năng suất
cao, phẩm chất nông sản tốt. Để đảm bảo yêu cầu này không thể chỉ dựa vào phân hữu cơ
mà rất cần phối hợp thêm với phân khoáng để cung cấp dinh dưỡng cho cây.
- Không ngừng ổn định và tốt hơn nâng cao độ phì của đất nhằm bảo vệ tư liệu sản xuất
không thể thay thế cho người trồng trọt- cơ sở quan trọng cho sản xuất bền vững.
- Đem lại lợi nhuận tối đa cho người sản xuất, trên cơ sở phối hợp tốt các biện pháp kỹ
thuật trồng trọt nhằm nâng cao hiệu suất phân bón để có hiệu quả kinh tế của sản xuất cao.
Vì lợi nhuận tối đa do bón phân đem lại cho trồng trọt có được khi bón phân đạt năng suất
tối thích kinh tế.
- Phù hợp với điều kiện và trình độ sản xuất hiện tại.
Các cây lương thực thường là những cây trồng ngắn ngày chính, nằm trong những hệ
thống luân canh cụ thể. Vì vậy khi xây dựng quy trình bón phân cho cây lương thực cần quan
tâm tới khả năng ảnh hưởng của cây trồng trước tới tình trạng dinh dưỡng có trong đất, liên
quan tới đặc điểm sinh học, điều kiện khí hậu mà nó đã trải qua và tính chất của hệ thống
nông nghiệp.
Nếu cây trồng truớc là các cây bộ đậu, hay cây có bộ rễ phát triển ở tầng đất nông hơn

so với cây lương thực, có thể giảm lượng phân bón cho cây lương thực trồng sau.
Thời tiết hay sâu bệnh hại không thuận lợi cho cây trồng trước sinh trưởng và đạt năng
suất cao, có khả năng để lại nhiều dinh dưỡng từ đất và phân bón cho cây trồng sau nên cũng
có thể giảm lượng phân bón cho cây trồng ở vụ sau.
Trồng cây lương thực trong hệ thống nông nghiệp hướng ngoại-lấy khỏi đồng ruộng
không chỉ sản phẩm chính (thóc) mà cả sản phẩm phụ (rơm, rạ) như trồng lúa ở ĐBSH cần
phải bón phân nhiều hơn do phải trả lại cho đất không chỉ các chất dinh dưỡng trong sản
phẩm chính mà cả phần chất dinh dưỡng trong sản phẩm phụ.
Để có một quy trình bón phân hợp lý cho cây lương thực cần quan tâm khảo sát các vấn
đề liên quan tới cây trồng được bón phân sau: Đặc điểm cây trồng, đặc điểm đất đai, đặc điểm khí
hậu thời tiết, luân canh cây trồng, các biện pháp kỹ thuật trồng trọt, chế độ tưới và đặc điểm phân
bón sử dụng. Trong đó đáng chú ý nhất là: đặc điểm cây trồng, đặc điểm đất đai, đặc điểm khí hậu
thời tiết và đặc điểm của các loại phân bón sử dụng. Trong mỗi vấn đề lại cần khảo sát nhiều điểm
liên quan.
Nguyên lý xác định lượng phân bón cho cây lương thực
Để xác định được lượng phân bón hợp lý cho cây trồng, cần chú ý tới những điểm liên
quan sau: Đặc điểm sinh lý của cây trồng về nhu cầu dinh dưỡng tổng số và mục tiêu năng
suất cần đạt. Đặc điểm đất đai về khả năng cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng. Đặc điểm và
tình hình phát triển của cây trồng trước cây trồng đang tính lượng phân bón. Đặc điểm khí hậu
thời tiết vụ cây trồng cần tính lượng phân bón.
Mỗi loại cây lương thực ở mỗi mức năng suất có nhu cầu dinh dưỡng khác nhau nên
có nhu cầu về lượng phân bón khác nhau. Ví dụ để đạt năng suất lúa 5 tấn thóc/ha/vụ trên đất
PSSH, cần bón 80-120 kg N/ha, nhưng muốn đạt năng suất 6 tấn/ha/vụ cần bón (theo theo
S.Yoshida) không dưới 160 kg N. Trong khi đó đối với cây lương thực khác như khoai lang
nhu cầu lại ít hơn nhiều.
Mỗi loại đất trồng có khả năng cung cấp dinh dưỡng cho cây khác nhau nên có nhu
cầu bón phân khác nhau. Khả năng cung cấp dinh dưỡng của đất cho cây thể hiện thông qua

10



các chỉ tiêu: hàm lượng dinh dưỡng tổng số và dễ tiêu của đất và những yếu tố ảnh hưởng tới
sự chuyển hóa của các chất dinh dưỡng ở trong đất như: thành phần cơ giới đất, vị trí phân bố
đất (cao, vàn, thấp)…. Các kết quả thí nghiệm phân bón, kinh nghiệm sử dụng phân bón tại
địa phương cũng là những thông tin quý về khả năng cung cấp dinh dưỡng của đất.
Đặc điểm và tình hình phát triển của cây trồng trước cho biết khả năng để lại hay lấy
đi nhiều dinh dưỡng từ đất và từ phân bón nên có ảnh hưởng đến việc xác định lượng phân
bón cho cây lương thực trong hệ thống luân canh. Đặc biệt một số cây trồng trước có khả
năng để lại đạm cho đất (cây bộ đậu, cây phân xanh) hay lấy đi nhiều dinh dưỡng từ đất khi
đạt năng suất cao. Ngoài ra có thể còn do cây trồng trước phát triển kém vì lý do dịch hại,
thiên tai mà lượng phân bón cho nó chưa sử dụng hết có thể để lại cho vụ sau.
Đặc điểm khí hậu thời tiết vụ tính lượng phân bón cũng liên quan tới khả năng cung
cấp dinh dưỡng của đất nên cũng cần quan tâm để tính lượng phân bón cho phù hợp. Vụ đang
trồng có thời tiết thuận lợi cho việc cung cấp dinh dưỡng dễ tiêu từ đất (vụ hè) cần giảm
lượng bón và ngược lại.
Đạm có vai trò rất quan trọng trong việc phát huy hiệu quả của việc sử dụng phân bón
cho cây trồng. Các loại phân khác chỉ phát huy tác dụng khi đất có đủ đạm hay được bón cân
đối với phân đạm theo yêu cầu của cây. Vì vậy khi xác định các lượng phân bón khác cần trên
cơ sở lượng phân đạm bón, nếu chưa tăng được lượng phân đạm bón thì chưa nên tăng những
lượng phân bón khác.
Các điều kiện để cây sinh trưởng phát triển tốt (giống tốt, biện pháp kỹ thuật canh tác
tiên tiến, điều kiện sinh thái phù hợp và bón phân cân đối) tạo điều kiện để có thể bón những
luợng phân bón cao trong thâm canh cây trồng nhằm đạt hiệu quả sản xuất cao. Trình độ kỹ
thuật canh tác lạc hậu, bón nhiều phân có khi còn có hại, khi nâng cao được trình độ kỹ thuật
canh tác có thể tạo cho cây chịu được những lượng phân bón cao hơn.
Nguyên lý xác định thời kỳ bón phân hợp lý cho cây lương thực
Để xác định thời kỳ bón phân hợp lý cho cây lương thực cần quan tâm tới đặc điểm
sinh lý của cây trồng về nhu cầu dinh dưỡng trong quá trình sinh trưởng, đặc điểm đất về
TPCG, đặc tính phân bón về thành phần hoá học và sự chuyển hoá của phân trong đất.
Mỗi loại cây trồng có đặc điểm khác nhau về nhu cầu dinh dưỡng ở mỗi thời kỳ, giai

đoạn sinh trưởng, thậm chí còn khác nhau đối với các giống của một loại cây. Tuy nhiên có
một số đặc điểm chung về nhu cầu dinh dưỡng theo thời kỳ sinh trưởng ở từng nhóm cây
trồng. Ví dụ đối với yếu tố dinh dưỡng đạm các cây lương thực có đặc điểm chung là: Ở thời
kỳ đầu sinh trưởng - giai đoạn sinh trưởng dinh dưỡng (STDD), cây cần được bón nhiều đạm
để tạo nhiều thân lá, mở rộng diện tích quang hợp, tạo tiền đề để đạt năng suất cao, việc bón
quá nhiều đạm ở thời kỳ này cũng ít nguy hiểm hơn. Còn ở giai đoạn sinh trưởng sau - sinh
trưởng sinh thực (STST) nhu cầu đạm của cây ít đi, do chỉ nhằm duy trì khả năng quang hợp
cao, tạo năng suất cao, việc bón thừa đạm ở thời kỳ này có thể ảnh hưởng rất xấu tới cây. Vì
vậy trong bón phân cho cây lương thực thư ờng rất chú trọng tới các thời kỳ bón phân sớm
(bón lót, bón thúc sớm).
Đất có TPCG khác nhau có khả năng giữ phân khác nhau nên có yêu cầu bón phân
khác nhau: đất có TPCG nhẹ giữ phân kém để tránh mất phân, phải chia tổng lượng phân cần
bón rải ra nhiều lần bón theo sát yêu cầu của cây, còn đất có TPCG nặng lại có thể bón tập
trung một lượng lớn nhờ khả năng giữ phân tốt của đất.
Liên quan tới thành phần hoá học và sự chuyển hoá của phân trong đất. Cần chú ý
rằng, keo đất mang điện tích âm nên các dạng phân dưới dạng anion được đất giữ kém, dễ bị
rửa trôi, để sử dụng đạt hiệu quả cao cần bón rải phân ra làm nhiều lần theo sát yêu cầu của
cây, trong khi dạng cation được đất giữ nên có thể bón tập trung một lần với số lượng lớn.

11


Một số loại phân như phan đạm urê cần thời gian chuyển hoá mới có tác dụng đạt hiệu quả
cao, cần tính toán thời gian bón cho phù hợp.
Do đặc điểm chung về nhu cầu lân của cây ở thời kỳ đầu sinh trưởng nên tất cả các
loại phân lân đều phải bón lót đầy đủ ngay từ đầu cho cây trồng. Bất cứ loại cây trồng nào
cũng lấy bón lót phân lân làm chính. Nhưng cần bón thúc phân lân cho cây trong sản xuất hạt
giống.
Các loại phân kali chủ yếu cũng dùng để bón lót sớm cho cây, phân cần được vùi sâu
và trộn đều vào đất vừa tầm rễ cây. Nhưng cần bón thúc phân kali trong các trường hợp sau:

cho cây lúa vào giai đoạn rễ cây phát triển mạnh lên bề mặt đất (từ cuối đẻ nhánh đến đầu làm
đòng), cho các giống cây lương thực có thời gian sinh trưởng dài, cho cây lương thực trồng
trên đất có thành phần cơ giới nhẹ và khi thâm canh có nhu cầu bón phân kali cao.
Để việc bón phân cho cây trồng đạt được những hiệu quả cao, cần bón phân để cùng
một luc cung cấp đủ các chất dinh dưỡng không chỉ đa lượng (N, P, K) mà cả trung lượng
(Ca, Mg, S) và vi lượng (Fe, Mn, Cu, Zn, B, Mo) cân đối và hợp lý theo yêu cầu của từng loại
cây- trên cơ sở hiểu biết đầy đủ về tính chất đất trồng, đặc điểm dinh dưỡng của cây trồng, các
loại phân bón và kỹ thuật bón phân… Đây lại là điều rất khó khăn đối với nhiều nông dân.
Nhằm giúp người nông dân có thể bón phân cân đối cho cây trồng, tiết kiệm chi phí phân bón
mà vẫn đạt hiệu quả sản xuất cao, đồng thời cũng vì lợi ích tiêu thụ được nhiều phân bón, các
Nhà sản xuất phân bón đã sản xuất nhiều loại phân đa yếu tố (thường gọi là phân NPK) theo
các tỷ lệ khác nhau. Tuy nhiên để phân đa yếu tố phát huy hiệu quả cao cần phải có nhiều
chủng loại phân chuyên dùng cho từng thời kỳ bón cụ thể của các loại cây trồng khác nhau
trên các loại đất khác nhau.
Bảng 6.1. Khuyến cáo sử dụng phân bón NPK
chuyên dùng cho lúa của Cty phân bón Bình Điền
Qui trình bón phân NPK chuyên dùng cho cây lúa miền Nam
Thời kỳ
Loại phân
Lượng bón
Cây con
20-18-8
100-200kg/ha
Đẻ nhánh
20-10-06
100-200kg/ha
Thúc đòng
22-0-20
100kg/ha
Trước trỗ 1 tuần

13-03-43
1gói/bình
Sau trỗ 7 ngày
13-03-43
1gói/bình
Qui trình bón phân NPK chuyên dùng cho cây lúa miền Bắc
Thời kỳ
Loại phân
Lượng bón
Lót
17-12-05
100-200kg/ha
Thúc lần 1
17-12-05
100-200kg/ha
Thúc lần 2
15-14-17
100kg/ha
Trước trỗ 1 tuần
13-03-43
1gói/bình
Sau trỗ 7 ngày
13-03-43
1gói/bình
Nguồn: Nguyễn Xuân Trường, 2000
Để làm được việc này cần phải nghiên cứu khả năng cung cấp chất dinh dưỡng của đất
cho cây, nhu cầu dinh dưỡng của cây trồng và kỹ thuật bón phân cho cây trong từng vùng cụ
thể. Vì vậy cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà khoa học nông nghiệp chuyên ngành với
Nhà sản xuất phân bón để sản xuất ra các loại phân bón đa yếu tố (NPK) chuyên dùng.Ưu
điểm của các loại phân đa yếu tố chuyên dùng là: Cung cấp cùng một lúc nhiều yếu tố dinh


12


dưỡng đảm bảo cho hiệu lực chung của phân bón cao nhất. Hàm lượng các chất dinh dưỡng
có trong phân cao hơn các phân đơn nên giảm chi phí vận chuyển và bón phân. Thao tác lại
đơn giản vì chỉ cần một lần bón đã cung cấp được nhiều yếu tố dinh dưỡng. Đảm bảo cho việc
bón phân cân đối không chỉ đạt năng suất cao, phẩm chất tốt mà còn làm giảm yêu cầu sử
dụng phân bón và giá thành sản phẩm một cách hiệu quả, đồng thời giảm tới mức tối đa ảnh
hưởng xấu (có thể xảy ra) của phân bón.
Nguyên lý xác định vị trí bón phân hợp lý cho cây lương thực
Để xác định vị trí bón phân hợp lý cho cây trồng cần lưu ý:
Các loại phân N đều là những loại phân rất linh động, dễ bị mất do rửa trôi hay bay
hơi, khi bón cần vùi phân sâu vào đất, tránh bón vãi phân trực tiếp trên mặt đất. Để giảm chi
phí cho viêc bón phân sâu, thường kết hợp bón phân với các biện pháp kỹ thuật canh tác như:
cầy, bừa, gieo trồng - khi bón lót ; xới đất, làm cỏ, tưới nước – khi bón thúc, trong đó thuận
lợi hơn cho bón phân sâu là thời kỳ bón lót.
Cần chú ý tới sự chuyển hoá các loại phân đạm trong các điều kiện khác nhau khi bón
phân để hạn chế mất chất dinh dưỡng. Phân đạm nitrat nên bón cho cây mầu, nếu bón cho lúa
chỉ nên bón thúc nông và bón từng ít một theo sát yêu cầu của cây. Phân đạm amôn và urê dễ
bị mất trong môi trường kiềm và nhiệt độ cao vì vậy khi bón các phân này cho cây mầu cần
bón sâu và trộn đều vào đất, hay dùng nước tưới đưa phân xuống sâu. Trong điều kiện ngập
nước, tầng canh tác đất lúa chia làm 2 lớp: ôxy hoá ở phía trên và lớp khử ôxy ở phía dưới.
Đây là đặc điểm cần chú ý trong bón phân cho lúa để nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón.
Bón phân đạm amôn và urê cho lúa cần bón sâu vào tầng khử của đất lúa.
Đặc điểm quy trình bón phân của các cây lương thực
Các cây lương thực là các loại cây trồng lấy bột nên để đạt năng suất cao phẩm chất
tốt chúng cần được cung cấp không chỉ nhiều đạm mà còn đặc biệt cần nhiều kali, nhất là
trong điều kiện thâm canh cao. Chúng đều là các cây trồng có thời gian sinh trưởng ngắn, lại
có khả năng cho năng suất rất cao cần được cung cấp nhiều dinh dưỡng về loại phân và lượng

phân dưới dạng dễ tiêu như phân hoá học. Các cây màu lương thực đặc biệt là các cây ăn củ
yêu cầu cao về tính chất vật lý đất nên có yêu cầu rõ về phân hữu cơ. Trong khi đó cây lúa
trồng trong điều kiện ngập nước nên có hiệu quả sử dụng phân hữu cơ không cao cần sử dụng
nhiều phân vô cơ trong tổng lượng phân bón.
Canh tác lúa trong điều kiện đất ngập nước nên khi bón phân cần quan tâm tránh hiện
tượng rửa trôi. Đồng thời cần chú ý để tránh khả năng phân đạm chuyển hoá dẫn đến hiện
tượng phản đạm hoá làm mất đạm. Vì vậy nên chọn các loại phân chậm tan, khả năng di động
kém để bón cho lúa….Cần bón phân không quá sâu, kể cả phân hữu cơ cũng chỉ nên bón ở độ
sâu 8 - 15 cm. Trồng lúa trên đất có khả năng giữ phân kém (đất có TPCG nhẹ, nghèo chất
hữu cơ…) không nên bón lót phân hoá học quá nhiều, cần tăng số lần bón thúc. Nên dùng
phân khô để bón thúc và bón phối hợp đồng thời phân hữu cơ với phân hoá học để giảm rửa
trôi phân khoáng, tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Nhưng khi trồng lúa trên đất có khả năng
giữ phân tốt, có thể bón lót lượng phân khoáng lớn để giảm công bón phân mà vẫn đạt hiệu
quả sử dụng phân bón cao.
Trồng cây mầu trong điều kiện thiếu nước cần chú ý: Bón các loại phân hữu cơ hoai
mục, phân hoá học dễ tan. Bón nhiều phân lân và kali hơn để tăng tính chịu hạn cho cây, đồng
thời bón phân đạm hợp lý để vừa đáp ứng nhu cầu của cây trồng vừa tạo khả năng sử dụng
nước tiết kiệm. Tăng tỷ lệ phân dùng để bón lót và bón lót sâu theo hàng, hốc nhằm giúp rễ
cây phát triển tốt và hấp thu dinh dưỡng thuận lợi hơn để tăng hiệu quả của phân bón. Khi bón
thúc phải vùi phân xuống sâu (kết hợp với vun xới), nên bón thúc phân lỏng.
Trên đất xám và đất cát chất dinh dưỡng dễ di chuyển, dễ bị mất, chất hữu cơ phân
giải nhanh. Vì vậy bón phân cho cây màu trên các đất này phải lưu ý chống quá trình rửa trôi

13


bằng việc sử dụng các phân ít di động để bón cho cây và cần vùi phân nông. Khi bón lượng
phân hoá học lớn cần chia nhỏ ra làm nhiều lần bón.Tăng cường bón phân kali. Nên bón kết
hợp phân hoá học với phân hữu cơ để hạn chế rửa trôi. Bón nhiều phân hữu cơ ít hoai mục,
dưới các dạng khác nhau sâu vào tầng đất có đủ ẩm để tăng tính đệm và khả năng giữ nước

giữ phân cho đất.
Trồng cây màu trên đất dốc, cần quan tâm chống hiện tượng xói mòn đất và rửa trôi
các chất dinh dưỡng hoà tan, bằng việc áp dụng tổng hợp các biện pháp chống xói mòn rửa
trôi để bảo vệ đất. Trong đó có việc gieo trồng các cây phân xanh và tạo lớp che phủ đất bằng
luân canh cây trồng hợp lý. Đồng thời quan tâm bón phân khoáng cân đối và đầy đủ cho các
loại cây trồng để tạo ra năng suất cây trồng cao cùng nhiều phụ phẩm hữu cơ tại chỗ cho đất.
Chống hiện tượng giữ chặt lân trong đất dốc, chua bằng việc bón vôi hay sử dụng các loại
phân kiềm (có chứa vôi).
2. BÓN PHÂN CHO LÚA
2.1. Đặc điểm chung về cây lúa
Cây lúa có tên khoa học là Oryza sativa L. Lúa là một trong những cây lương thực chủ
yếu và quan trọng trên thế giới, có ảnh hưởng tới đời sống ít nhất 65% số dân trên thế giới. Ở
Việt Nam, lúa vừa đảm bảo lương thực cho hầu hết dân số vừa đóng góp vào việc đưa Việt Nam
trở thành 1 Quốc gia xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới. Ngoài việc sử dụng làm lương thực, các
sản phẩm phụ của cây lúa còn được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Lúa là cây có thể gieo trồng trong điều kiện nhiệt đới và á nhiệt đới. Cây lúa có thể
sinh trưởng trong phạm vi nhiệt độ từ 10 – 40 0C, nhiệt thích hợp nhất cho sinh trưởng: 22 –
300C. Khi nhiệt độ thấp hơn 200C làm cho cây lúa chậm phát triển, thấp hơn 15 0C gây hại cây
lúa, mức độ hại tùy thuộc vào giai đoạn sinh trưởng. Cường độ ánh sáng thuận lợi cho hoạt
động quang hợp của cây lúa là 250 - 400calo/cm 3/ngày. Thời gian chiếu sáng ngắn 9 – 10
giờ/ngày có tác dụng rõ đối với việc xúc tiến quá trình làm đòng và trỗ bông.
Tuy cũng giống nhiều cây trồng khác, lúa cần lượng mưa khoảng 900 – 1100mm cho
một vụ lúa (nếu hoàn toàn phụ thuộc vào nước trời) và nhu cầu nước qua các thời kỳ sinh
trưởng không giống nhau. Nhưng lúa có yêu cầu về nước đặc biệt, trong đất ngập nước, cây
lúa được cung cấp nước thuận lợi nhất và cho năng suất cao, ổn định nhất.
Vì vậy tuy cây lúa có thể trồng trên các loại đất khác nhau nhưng đất trồng lúa tốt cần
có khả năng giữ nước tốt, có TPCG thịt trung bình, hay nặng, có pH thích hợp nhất trong
khoảng 5,5-6,0, giàu các chất dinh dưỡng.
Thời vụ gieo cấy ở các vùng khác nhau tuỳ theo điều kiện thời tiết khí hậu. Ở Đồng
bằng Bắc bộ có hai vụ chính: vụ mùa và vụ xuân, mỗi vụ đều có thể chia ra các trà cấy sớm,

chính vụ và muộn. Vụ mùa có thời vụ cấy của ba trà từ 25/6 - 25/8. Vụ xuân có thời vụ cấy
của ba trà cấy từ 15/1 – 5/3.
Thời gian sinh trưởng của cây lúa thay đổi từ 90 đến 180 ngày, tuỳ theo giống và điều
kiện ngoại cảnh. Ở miền Bắc, do thời tiết biến động trong năm, nên thời gian sinh trưởng của
cây lúa cũng thay đổi theo thời vụ cấy.Trong điều kiện bình thường các giống có khả năng thâm
canh tăng vụ cao thường có thời gian sinh trưởng khoảng 100-120 ngày. Đối với các giống lúa
thường có thời kỳ sinh trưởng sinh thực khoảng 60 ngày, trong đó có thời kỳ làm đòng khoảng
30 ngày và thời kỳ chín khoảng 30 ngày. Sự khác nhau của các giống lúa về thời gian sinh
trưởng chủ yếu là ở thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng. Lúa cấy thường chín muộn hơn lúa gieo
thẳng khoảng 7 - 10 ngày do phải mất thời gian bén rễ.
2.2. Đặc điểm sinh lý dinh dưỡng của cây lúa
Đặc điểm sinh trưởng và phát triển của cây lúa
Số nhánh

Chiều cao cây

Số bông

Nhánh vô hiệu

14

Trọng lượng hạt


0
Gieo

20
Cấy


60
Làm đòng

Mạ

Đẻ nhánh

90
Trỗ

Làm đốt Làm đòng

120 ngày
Chín

Hình thành hạt

Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng
Thời kỳ sinh trưởng sinh thực
Hình 1.1. Sơ đồ sinh trưởng - phát triển của cây lúa
(thời gian sinh trưởng 120 ngày trong điều kiện nhiệt đới)
Trong toàn bộ đời sống của cây lúa có thể chia ra hai thời kỳ sinh trưởng chủ yếu là
sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực.
Lo¹i A

F

P1


Loai B
T cùc ®¹i
P1

F

Pha sinh tr­ëng sinh d­ìng
Pha sinh tr­ëng sinh thùc

Lo¹i C
T cùc ®¹i

P1

F

H ình 2.1. Đặc điểm sinh trưởng của các nhóm giống lúa có TGST khác nhau
Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng được tính từ lúc gieo đến lúc làm đòng, là thời kỳ cây
lúa hình thành và phát triển lá, rễ, nhánh. Ở lúa cấy thời kỳ này có thể chia ra các giai đoạn:
mạ ở ruộng mạ và đẻ nhánh ở ruộng cấy. Trong đó giai đoạn mạ kéo dài khoảng 20 ngày từ
khi gieo mạ đến khi cây có khoảng 4-5 lá; giai đoạn đẻ nhánh kéo dài khoảng 40 ngày từ khi
cấy đến khi cây lúa bắt đầu có đòng; trong đó 10-13 ngày đầu là giai đoạn bén rễ hồi xanh,

15


giai đoạn đẻ nhánh hữu hiệu chỉ khoảng 20 ngày tiếp theo. Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng có
ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành số bông, là yếu tố cấu thành năng suất có ý nghĩa
quyết định đối với cây lúa.
Thời kỳ sinh trưởng sinh thực, bắt đầu từ lúc làm đòng cho đến khi thu hoạch. Bao

gồm các quá trình làm đòng, trỗ bông và hình thành hạt. Thời kỳ này quyết định các yếu tố
cấu thành năng suất: số hạt trên bông, tỷ lệ hạt chắc và trọng lượng 1000 hạt, là thời kỳ có ảnh
hưởng trực tiếp nhất đến năng suất thu hoạch.
Liên quan tới TGST của cây lúa, các giống lúa được chia ra : giống cực ngắn ngày,
giống ngắn ngày và giống dài ngày. Trong bón phân cho lúa cần chú ý : Các giống cực ngắn
ngày (chín sớm) có giai đoạn sinh trưởng dinh dưỡng ngắn. Vì vậy có thể bắt đầu phân hóa
đòng trước giai đoạn đẻ nhánh tối đa (kiểu A trong H.2.1.). Các giống dài ngày (chín muộn)
có giai đoạn STDD dài và đạt số dảnh tối đa trước khi bắt đầu phân hóa đòng (loại C trong
H.2.1.) , thời kỳ từ đẻ nhánh tối đa đến đầu phân hóa đòng có lúc bị kéo dài. Các giống ngắn
ngày có độ dài của giai đoạn STDD vừa phải, cây bắt đầu phân hóa đòng ngay sau giai đoạn
đẻ nhánh tối đa ( kiểu B trong H2.1.)
Đặc điểm hệ rễ của cây lúa
Lúa là cây trồng có bộ rễ chùm với số lượng có thể đạt tới 500-800 cái, tổng chiều dài
rễ ở thời kỳ trỗ bông có thể đạt đến 168 m. Bộ rễ lúa tăng dần về số lượng và chiều dài qua
các thời kỳ đẻ nhánh làm đòng và thường đạt tối đa vào thời kỳ trỗ bông sau đó lại giảm đi.
Thời kỳ đẻ nhánh làm đòng bộ rễ phát triển có hình bầu dục nằm ngang còn thời kỳ trỗ bông,
bộ rễ lúa phát triển xuống sâu có hình quả trứng ngược.
Bộ rễ lúa phân bố ở lớp đất 0-20 cm, trong đó phần lớn ở lớp đất mặt 0-10 cm. Lúa là cây
trồng có bộ rễ ăn nông và có thời gian từ cuối đẻ nhánh đến đầu làm đòng rễ ăn nổi trên mặt đất.
Đối với lúa gieo thẳng, bộ rễ thường phát triển mạnh ở lớp đất mặt, phân nhánh nhiều. Các biện
pháp làm đất, bón phân, tưới nước, làm cỏ… có ảnh hưởng đến sự phát triển của bộ rễ.
Lúa thấp cây, có khả năng thâm canh cao cần cấy dày để đạt được mật độ tối thích.
Khi cấy dày, tổng số rễ lúa tăng nên mở rộng được diện tích hút chất dinh dưỡng của quần thể
ruộng lúa nhưng diện tích dinh dưỡng của cá thể càng bị thu hẹp, trọng lượng trung bình của
bộ rễ từng cây lúa giảm. Muốn cho cá thể sinh trưởng và phát triển tốt cần tăng lượng phân
bón tương ứng với mức độ cấy dày, như vậy mới có thể phát huy hơn nữa hiệu quả của việc
cấy dày và làm tăng năng suất. Mật độ cao, bón phân nhiều là hai biện pháp bổ sung cho nhau
làm cho quần thể phát triển mạnh.
Yêu cầu về các chất dinh dưỡng của cây lúa
Nhu cầu về đạm của cây lúa

Đạm có vai trò quan trọng trong việc phát triển bộ rễ, thân, lá, chiều cao và đẻ nhánh
của cây lúa. Đặc biệt đạm có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình đẻ nhánh của cây lúa. Việc cung
cấp đạm đủ và đúng lúc làm cho lúa vừa đẻ nhánh nhanh lại tập trung, tạo được nhiều dảnh
hữu hiệu, là yếu tố cấu thành năng suất có vai trò quan trọng nhất đối với năng suất lúa. Đạm
còn có vai trò quan trọng đối với việc hình thành đòng và các yếu tố cấu thành năng suất lúa
khác: số hạt trên bông, trọng lượng 1000 hạt và tỷ lệ hạt chắc. Vì vậy cung cấp đủ và kịp thời
đạm cho cây lúa có vai trò quyết định cho việc đạt năng suất cao. Đạm còn làm tăng hàm
lượng protein trong gạo nên làm tăng chất lượng cho cây lúa. Đạm cũng ảnh hưởng tới đặc
tính vật lý và sức đề kháng đối với sâu bệnh hại của cây lúa. Thừa và thiếu đạm đều làm sức
đề kháng sâu bệnh của cây lúa yếu đi nên dễ bị sâu bệnh gây hại.
Bảng 7.1. Lượng dinh dưỡng cây lúa hút để tạo ra 1 tấn thóc

16


Chất
dinh dưỡng

Lượng dinh dưỡng lấy đi
(kg) khi sản xuất 1 tấn thóc
Tổng cộng
Hạt Rơm rạ
N
22,2
14,6
7,6
P2O5
7,1
6,0
1,1

K2O
31,6
3,2
28,4
CaO
3,9
0,1
3,8
MgO
4,0
2,3
1,7
S
0,9
0,6
0,3
Nguồn:Trung tâmTTKHKT hóa chất,1998

Chất
Dinh
dưỡng
Cu
Fe
Mn
B
Si
Cl

Lượng dinh dưỡng lấy đi (g)
khi sản xuất 1 tấn thóc

Tổng cộng Hạt Rơm rạ
27,0
20,0
7,0
350,0
200,0 150,0
370,0
60,0
310,0
32,0
16,0
16,0
51,7*
9,8* 41,9*
9,7*
4,2*
5,5*
* tính theo kg/tấn sản phẩm

Thiếu đạm làm cho cây lúa thấp, đẻ nhánh kém, đòng nhỏ, khả năng trỗ kém, số hạt
trên bông ít, hạt lép nhiều, năng suất thấp. Khi cây lúa thiếu đạm lá có phiến nhỏ, hàm lượng
diệp lục giảm nên lúc đầu lá có màu vàng nhạt ở đầu ngọn lá rồi dần dần cả phiến lá biến
thành màu vàng.
Thừa đạm quá nhiều làm cho lá to, dài, phiến lá mỏng, nhánh vô hiệu nhiều, lúa trỗ
muộn, cây cao vóng, bị lốp, đổ non làm ảnh hưởng rất xấu tới năng suất và phẩm chất của cây
lúa. Hiện tượng lúa lốp, đổ là do cây thừa đạm, làm hô hấp của cây tăng lên, lượng gluxit tiêu
hao nhiều, nhưng làm giảm sự hình thành xenlulo và licnin nên làm cho màng tế bào mỏng đi,
tổ chức cơ giới trong thân lá phát triển kém.
Lượng đạm cần thiết để tạo ra 1 tấn thóc từ 17-25 kg N, trung bình cần 22,2 kg N. Ở
các mức năng suất càng cao, lượng đạm cần thiết để tạo một tấn thóc càng cao. Hiệu suất sử

dụng phân N cho lúa thấp, trong sản xuất thường không quá 40%.
Trong quá trình sinh trưởng, cây lúa có nhu cầu đạm tăng đều từ thời kỳ đẻ nhánh tới
trỗ, rồi giảm sau trỗ. Giai đoạn sinh trưởng đầu tỷ lệ đạm được tích luỹ cao trong thân, lá của
cây lúa và giảm dần theo thời gian cho đến tận giai đoạn cuối của kỳ sinh trưởng. Việc di
chuyển đạm từ các bộ phận của cây đến hạt chỉ thật đáng kể sau trỗ. Cây lúa hút đạm nhiều nhất
vào hai thời kỳ: đẻ nhánh khoảng 70% và làm đòng khoảng 10-15% lượng đạm cần thiết, trong
đó đẻ nhánh là thời kỳ hút đạm có ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất lúa còn làm đòng là thời
kỳ hút đạm có hiệu suất cao. Tuỳ theo thời gian sinh trưởng của giống lúa mà 2 đỉnh về sự hút
đạm có khoảng cách gần hay xa nhau. Các giống lúa ngắn ngày có hai đỉnh nhu cầu đạm gần
nhau, còn ở các giống dài ngày thì hai đỉnh đó cách nhau từ 30-40 ngày.
Nhu cầu lân của cây lúa
Lân có vai trò rất quan trọng trong thời gian sinh trưởng đầu của cây lúa, xúc tiến sự
phát triển của bộ rễ và số dảnh lúa, có ảnh hưởng tới tốc độ đẻ nhánh của cây lúa. Lân còn
làm cho cây lúa trỗ bông đều, chín sớm hơn, tăng năng suất và phẩm chất hạt thóc.
Cây lúa thiếu lân lá có màu xanh đậm; có phiến lá hẹp, dài, mềm yếu; rìa mép lá có màu vàng
tía; đẻ nhánh ít; kéo dài thời kỳ trỗ bông và chín; bông có nhiều hạt lép, hàm lượng dinh dưỡng trong
hạt thấp. Thiếu lân ở thời kỳ làm đòng làm giảm chất lượng gạo một cách rõ rệt.
Nhu cầu lân cây hút để tạo ra 1 tấn thóc: khoảng 7,1 kg P 2O5 trong đó tích luỹ chủ yếu
vào hạt (6 kg). Cây lúa hút lân mạnh nhất vào thời kỳ đẻ nhánh và thời kỳ làm đòng nhưng
xét về cường độ thì cây lúa lân hút mạnh nhất vào thời kỳ đẻ nhánh.

17


Dinh
dưỡng
Đạm
Lân
Kali


Bảng 8.1. Động thái tích luỹ dinh dưỡng của cây lúa (%)
Từ nảy mầm tới Nhánh tối đa tới Phân hoá đòng tới
Thành bông
đẻ nhánh tối đa
phân hoá đòng
hình thành bông
tới chín
37
12
31
20
33
23
34
10
36
21
20
23

Nguồn: Ishizuka.Y,1973- Nguyễn Xuân Trường, 2000
Nhu cầu kali của cây lúa
Kali có ảnh hưởng rõ đến sự phân chia tế bào và phát triển của bộ rễ lúa trong điều
kiện ngập nước nên có ảnh hưởng rõ đến sinh trưởng và phát triển của cây lúa. Kali có ảnh
hưởng lớn đến quá trình quang hợp, tổng hợp các chất gluxit, ngoài ra còn tham gia vào quá
trình tổng hợp protein ở trong cây lúa. Các vai trò này của kali đặc biệt rõ trong điều kiện ánh
sáng mặt trời yếu. Ngoài ra kali còn có ảnh hưởng tốt tới các yếu tố cấu thành năng suất: số
hạt, tỷ lệ hạt chắc, trọng lượng 1000 hạt. Vì vậy kali là yếu tố dinh dưỡng có ảnh hưởng rõ tới
năng suất và chất lượng lúa. Kali còn thúc đẩy hình thành linhin, xelulo làm cho cây cứng cáp
hơn, chịu được nước sâu, giảm đổ và chống chịu sâu bệnh tốt hơn.

Cây lúa thiếu kali ít ảnh hưởng đến đẻ nhánh nhưng làm cây lúa thấp; có lá hẹp, mềm yếu
và rũ xuống, hàm lượng diệp lục thấp, màu xanh tối. Khi thiếu kali mặt phiến lá của những lá phía
dưới của cây lúa có những đốm màu đỏ nâu, lá khô dần từ dưới lên trên nên số lá xanh còn lại trên
cây ít đi. Lúa thiếu kali còn dễ bị lốp đổ, dễ bị bị sâu bệnh tấn công, nhất là khi được cung cấp
nhiều đạm. Cây lúa thiếu kali ở thời làm đòng có các gié của bông thoái hoá nhiều, số hạt ít, trọng
lượng hạt giảm, nhiều hạt xanh, hạt lép và hạt bạc bụng, hàm lượng tinh bột trong hạt giảm, phẩm
chất gạo bị giảm sút.
Lượng kali cây hút để tạo ra 1 tấn thóc ở các vùng khác nhau dao động trong phạm
vi rộng. Để tạo 1 tấn thóc trung bình cây lúa hút: 31,6 kg K 2O, trong đó tích luỹ trong rơm
rạ là chủ yếu -28,4 kg. Cây lúa hút kali tới tận cuối thời gian sinh trưởng. Trong đó tỷ lệ
kali cây hút trong thời kỳ cấy - đẻ nhánh 20,0-21,9%, phân hoá đòng - trỗ 51,8-61,9 %,
vào chắc - chín 16,2 - 27,7% nhưng chỉ khoảng 20% số kali hút được vận chuyển về bông.
Nhu cầu kali của cây lúa cao nhất ở 2 thời kỳ đẻ nhánh và làm đòng. Tuy lúa hút kali
mạnh nhất ở thời kỳ làm đòng, nhưng thiếu kali ở thời kỳ đẻ nhánh lại ảnh hưởng mạnh
nhất đến năng suất lúa.
Nhu cầu về các yếu tố dinh dưỡng khác của cây lúa
Silic làm tăng tính chống chịu đối với điều kiện bất thuận và sâu bệnh hại cho cây lúa,
làm cho lá lúa thẳng và quang hợp tăng thêm nên làm tăng năng suất lúa. Lúa là cây hút nhiều
Si, để tạo 1 tấn thóc cây lúa lấy đi lượng silic là 51,7 kg Si.
Trên đất cát, đất xám trồng lúa thì Mg thể hiện rõ vai trò, đặc biệt là với những giống
mới năng suất cao. Nhu cầu magiê để tạo ra 1 tấn thóc là 4,0 kg MgO.
Cây lúa có nhu cầu Ca không cao, song trên đất chua, đất phèn, đất xám hoặc nghèo Ca thì
việc bón các loại phân có Ca là cần thiết. Để tạo ra 1 tấn thóc cây lúa lấy đi 3,94 kg CaO.
Cây lúa thiếu lưu huỳnh thì các lá chuyển màu vàng, giảm chiều cao, đẻ nhánh kém và
đòng ngắn lại. Để tạo ra 1 tấn thóc, cây lúa cần lượng lưu huỳnh là 0,94 kg S.
Lúa cần sắt nhiều hơn so với các cây trồng khác, mỗi tấn thóc cây lúa lấy đi 0,35 kg
Fe. Thiếu sắt làm cho lúa bị vàng lá, sinh trưởng phát triển kém, thường xuất hiện ở những
chân ruộng có địa hình cao, thoát nước mạnh, giữ nước kém, pH cao.
Để tạo ra 1 tấn thóc, cây lúa cần 40g Zn. Khi thiếu kẽm cây lúa hồi xanh chậm, đẻ
nhánh kém, còi cọc, có lá nhỏ và thường có mầu trắng ở các lá non, còn các lá già chuyển

màu vàng với nhiều đốm nâu trên khắp mặt lá. Thiếu nhiều Zn cây lúa có các lá dưới bị khô,

18


kéo dài thời gian sinh trưởng và có thể bị chết. Hiện tượng thiếu kẽm thường xảy ra trên đất
có pH, hàm lượng kali, lân và chất hữu cơ cao.
Thiếu đồng làm tăng số lượng hạt phấn bất dục, tăng tỷ lệ hạt lép, giảm trọng lượng hạt.
Để tạo 1 tấn thóc lúa hút khoảng 27 g Cu. Hiện tượng cây lúa thiếu đồng thường xảy ra trên đất
cát có pH cao và đất chứa quá nhiều chất hữu cơ, đất than bùn.
Bo cần thiết cho việc đảm bảo sức sống hạt phấn của lúa, tăng khả năng thụ phấn, tăng
quá trình vận chuyển chất hữu cơ về hạt. Hiện tượng thiếu Bo thường xuất hiện trên đất quá
chua, đất phèn. Để tạo mỗi tấn thóc, cây lúa lấy đi khoảng 32 g B.
3. Bón phân cho lúa
Các loại và dạng phân bón sử dụng cho lúa
Lúa là cây trồng có phản ứng tốt với phân hoá học nên bón phân hoá học cho lúa có
hiệu quả cao. Trong thâm canh lúa bón phân hữu cơ chủ yếu nhằm ổn định hàm lượng mùn
cho đất tạo nền thâm canh nên có thể sử dụng các loại phân hữu cơ khác nhau kể cả rơm rạ
lúa sau khi thu hoạch.
Các loại phân đạm thích hợp cho lúa là phân đạm amôn, urê. Urê đang trở thành dạng
phân đạm phổ biến đối với lúa nước, vì có tỷ lệ đạm cao, lại r ất thích hợp để bón trên các loại đất
lúa thoái hoá . Phân đạm nitrat có thể dùng để bón thúc ở thời kỳ đòng, đặc biệt hiệu quả khi bón
trên đất chua mặn.
Đất chua trồng lúa, bón phân lân nung chảy thường cho kết quả ngang phân supe lân
hay có thể cao hơn do trong điều kiện ngập nước cũng dễ cung cấp cho lúa mà lại ít bị rửa trôi
và còn cung cấp cả Silic, là yếu tố dinh dưỡng có nhu cầu cao ở cây lúa. Tuy nhiên nếu cần
bón thúc lân và trồng lúa trên đất nghèo lưu huỳnh (đất bạc màu, bón ít phân hữu cơ) thì phải
dùng phân lân supe.
Loại phân kali thích hợp bón cho lúa là kali clorua .
Ngoài ra còn thường sử dụng các loại phân NPK, đặc biệt tốt là các loại phân chuyên

dùng cho lúa, phù hợp với điều kiện của từng vùng đất trồng lúa.
Khả năng chịu chua của cây lúa khá, nhưng ở đất quá chua cây lúa sinh trưởng kém
có thể do nhôm hoà tan gây ra vì hiện tượng ngộ độc nhôm ít thấy trên các loại đất có pH trên
5,5. Mặt khác sau khi đưa nước vào ruộng đất có thể bị chua hơn nên bón vôi là biện pháp
quan trọng ở đất lúa nước quá chua và việc bón vôi phải được kết hợp với một chế độ bón
phân hợp lý thì mới thu được kết quả mong muốn nhất.
Các loại phân vi lượng cũng thường được sử dụng cho lúa (B.9.1)
Bảng 9.1. Hướng dẫn sử dụng phân vi lượng cho lúa
Loại nguyên tố
Dạng phân
Lượng bón (kg/ha)
Phương pháp bón
ZnSO4.H2O
8
Lót khi làm đất
Kẽm
ZnO; ZnCl2
8
Lót khi làm đất
Phức - Zn
1
Lót khi làm đất
Sắt sunfat
Sắt
300 - 400lít/ha
Phun qua lá
1-3%
Đồng sunfat
100g/100lít
Phun qua lá

Đồng
Cu-EDTA
100g/100lít
Phun qua lá
MnSO4
5 - 20
Bón rải
Mangan
MnSO4
1-5
Phun lá
MnO
5 - 20
Bón rải
Phun qua lá thời kỳ sinh
MnSO4 1%
1-2
trưởng mạnh
Bo
Borax
0,5 - 3,0
Lót, phun lá
Nguồn: Viet,1966; Mortvedt, 1977; Lucas, 1972- Nguyễn Xuân Trường ,2005

19


Lượng phân bón cho lúa ở các vùng trồng lúa chính
Liều lượng phân chuồng thường bón 7-10 tấn/ha, vụ mùa nên bón nhiều hơn.
Liều lượng phân khoáng bón cho lúa phụ thuộc vào năng suất kế hoạch (đặc điểm của

giống, loại hình cây), độ phì của đất, các điều kiện khí hậu (mùa vụ) và khả năng cân đối với
các loại phân khác. Giống năng suất cao cần bón nhiều hơn so với các giống lúa thường, lúa
địa phương, lúa vụ xuân thường bón nhiều hơn lúa vụ mùa, trồng lúa trên đất có độ phì cao
cần giảm lượng phân bón. Lượng bón thích hợp cho lúa theo bảng 9.1.
Do hệ số sử dụng phân đạm của cây lúa không cao nên lượng đạm cần bón phải cao
hơn nhiều so với nhu cầu. Lượng đạm bón dao động từ 60-160 kgN/ha, với trình độ thâm
canh hiện tại để đạt năng suất 5 tấn/ha thường bón 80-120 kg N/ha. Tuy nhiên trên đất có độ
phì trung bình, để đạt năng suất 6 tấn thóc/ha cần bón 160 kg N/ha. Trên đất PSSH, để đạt
năng suất trên 7 tấn/ha cần bón 180-200 kg N/ha. Các nước có năng suất lúa bình quân cao
trên thế giới (5-7 tấn thóc/ha) thường bón 150-200 kg N/ha.
Lượng phân lân bón cho lúa dao động từ 30-100 kg P 2O5, thường bón 60 kg P2O5/ha.
Đối với đất xám bạc màu có thể bón 80 - 90 kg P 2O5/ha, đất phèn có thể cần bón 90 - 150 kg
P2O5/ha.
Lượng phân kali bón cho lúa phụ thuộc chủ yếu vào mức năng suất và khả năng cung
cấp kali của đất. Các mức bón trong thâm canh lúa trung bình 30-90 kg K 2O/ha, và mức bón
trong thâm canh lúa cao 100-150 kg K2O/ha, trong đó kali của phân chuồng và rơm rạ có hiệu
suất không kém kali trong phân hóa học. Trên đất PSSH khi đã bón 8-10 tấn phân chuồng/ha
thì chỉ nên bón 30-90 kg K2O/ha phân kali khoáng, ngay cả trong điều kiện thâm canh lúa cao
(Nguyễn Như Hà, 1999).
Vùng
Các tỉnh
Phía Bắc

Các tỉnh
Miền Trung

Các tỉnh
Phía Nam

Bảng 10.1. Lượng phân bón cho lúa

Lượng bón (kg/ha)
Vụ
Giống
N
P2O5
K2O
Thuần
90-120
60-80
40-60
Đông xuân
Lúa lai
140-160
80-100
60-100
Thuần
80-100
40-60
30-50
Lúa lai
120-140
60-80
60-100
Mùa
Địa phương
60-80
30-50
30-50
Thuần
100-120

40-60
40-60
Đông xuân
Lúa lai
140-160
80-100
80-100
Thuần
80-100
50-70
40-60
Hè thu
Lúa lai
120-140
80-100
80-100
Đông xuân
Thuần
100-120
40-60
30-40
Xuân hè
Thuần
100-120
50-70
30-40
Hè thu
Thuần
90-110
60-80

30-40
Thuần
80-100
40-60
30-50
Mùa
Địa phương
60-80
40-60
30-40
Nguồn: Nguyễn Xuân Trường, 2000

Phương pháp bón phân cho lúa
Cơ sở cho việc xác định phương pháp bón phân cho lúa
Thời kỳ bón đạm ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng và năng suất lúa. Thời kỳ bón đạm
phụ thuộc vào đặc điểm giống lúa, mùa vụ, thành phần cơ giới đất và trình độ thâm canh.
Không thể có một hướng dẫn chung về thời kỳ bón đạm cho tất cả các giống, mùa vụ và đất

20


trồng. Bón đạm sớm tạo nhiều bông, bón đạm muộn tăng hạt là chủ yếu, bón đạm vào giai
đoạn đòng làm tăng tỷ lệ protein trong hạt. Thời kỳ bón phân đạm cho lúa thường gồm: bón
lót và bón thúc đẻ nhánh, thúc đòng, ngoài ra có thể có bón nuôi hạt.
Bón phân lót trước cấy nhằm làm mạ sau cấy bén rễ nhanh, đẻ nhánh sớm và mạnh.
Cần bón lót nhiều phân đạm khi gieo cấy trong điều kiện nhiệt độ thấp, cấy giống ngắn ngày
hay đẻ nhánh kém, mật độ gieo cấy thưa, trồng lúa trên đất có dung tích hấp thu lớn.
Bảng 11.1. Ảnh hưởng phương pháp bón phân N
đến năng suất lúa ngắn ngày trên đất phù sa sông Hồng
Năng suất (kg)

Xuân
Mùa
3850
3703
6673
5340
6775
5474
7063
5778
6877
5549

Công thức bón

1. Không bón phân
2. Lót 1/2N, thúc đẻ 1/3N. đón đòng 1/6N
3. Lót sâu 2/3N, thúc đẻ 1/3N
4. Lót sâu 5/6N, thúc đón đòng 1/6N
5. Lót sâu toàn bộ N
Lượng phân bón: Xuân 10 tấn PC, 150N, 90P2O5, 60 K2O
Mùa 10 tấn PC, 120N, 60P2O5, 40 K2O

Nguồn: Nguyễn Như Hà, 1999
Trồng lúa trên đất có khả năng giữ phân tốt và đặc biệt với các giống lúa ngắn ngày,
việc chia phân bón làm nhiều lần không hiệu quả hơn việc bón lót sâu toàn bộ lượng phân
đạm cần được bón, dựa trên nguyên tắc “phân làm tốt đất, đất làm tốt cây”. Do bón lót sâu
toàn bộ hay phần lớn lượng phân đạm sẽ hạn chế mất đạm, nhu cầu đạm của cây lúa sau trỗ
dựa vào phần đạm còn lại trong đất do bón lót và đạm cây lúa đã tích luỹ trong thân, lá nên
lúa vẫn đạt được năng suất cao mà lại giảm được công bón phân (Nguyễn Như Hà,1999….) .

Cần chia đạm ra làm nhiều lần bón thúc hơn khi canh tác lúa trong các điều kiện:
lượng phân đạm cao, giống dài ngày hay kháng sâu bệnh kém, đất có thành phần cơ giới nhẹ,
mùa mưa hay khí hậu nắng nóng (ở Trung bộ), lúa gieo thẳng. Lúa cấy mạ sân, mạ khay cần
bón thúc sớm hơn so với lúa cấy bằng mạ dược. Tuy nhiên việc định thời gian bón thúc đạm
không đúng làm số nhánh vô hiệu tăng và lúa đổ mạnh hơn. Ngoài ra bón thúc nhiều lần còn
gây tốn công lao động, lại có thể bị chậm mà giảm hiệu lực của phân bón và việc bón thúc vãi
phân N trên mặt ruộng lúa còn làm mất nhiều đạm.
Đối với các giống lúa đẻ nhánh mạnh, năng suất chủ yếu dựa vào số bông cần bón
phân tập trung vào thời kỳ đẻ nhánh nhằm tạo nhiều dảnh hữu hiệu để có năng suất cao. Còn
với các giống đẻ nhánh ít, bông to, năng suất dựa vào số hạt thì cần chú trọng vào đợt bón
đòng và nuôi hạt để đạt năng suất cao. Các giống lúa cực ngắn, vừa đẻ nhánh vừa làm đòng
cần phải bón thúc sớm hơn. Còn các giống có thời gian sinh trưởng dài thì đợt bón thúc cuối
cần muộn hơn.
Tỷ lệ phân đạm dùng bón lót, thúc và số lần bón thúc tuỳ theo các điều kiện cụ thể. Khi
lượng đạm bón trung bình cần bón vào các thời kỳ có ảnh hưởng mạnh nhất đến năng suất lúa là đẻ
nhánh và làm đòng, trong đó bón cho giai đoạn lúa đẻ nhánh gồm: bón lót và bón thúc đẻ. Hiệu lực
phân đạm có thể tăng lên chừng 20-25% nếu chỉ bón lót một phần, phần còn lại được chia bón thúc
vào thời kỳ đẻ nhánh và thời kỳ bắt đầu phân hoá đòng do việc bón thúc đúng lúc rất dễ cung cấp và
dễ điều chỉnh lượng đạm cần bón cho cây. Khi lượng phân đạm định bón nhiều, giống lúa có thời
gian sinh trưởng ngắn hay đẻ nhánh mạnh, đất có khả năng giữ đạm tốt, coi trọng bón phân giai
đoạn đẻ nhánh-giai đoạn bảo đảm số lượng nhánh thành bông tối thích.

21


Nghi ên cứu ở Nhật cho thấy (Đồ thị 1.1. ): Khi lượng phân đạm định bón cho lúa cao, hiệu
suất bón phân đạm đạt cao nhất khi bón vào giai đoạn lúa đẻ nhánh, l ượng bón càng cao thì
hiệu suất cao đạt được khi bón phân càng sớm. Khi lượng phân đạm định bón cho lúa ở m ức
trung bình, hiệu suất phân đạm cao đạt được ở 2 giai đoạn đẻ nhánh và làm đòng
(S.Yosida,198


Đồ th ị 1.1 Hiệu suất bón phân đạm phụ thuộc vào lượng phân bón và thời gian bón cho lúa
Bón phân đạm hợp lý nhất là bón vùi ở độ sâu 5-10 cm vào tầng khử của đất lúa, ở đây
đạm được các keo đất giữ và cung cấp dần cho cây lúa mà không bị nitrat hoá nên làm giảm
mất đạm rất nhiều, nâng cao được hiệu quả sử dụng phân bón. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ
thích hợp với lần bón lót trước khi cày bừa lần cuối. Không nên bón trước khi cày lần đầu vì
đất chưa đủ mức độ khử để ngăn chặn quá trình nitrat hoá. Ruộng sau khi bón phân phải được
giữ ngập nước 3-5 cm để giảm sự mất đạm và ức chế cỏ dại. Sau khi cấy lúa cũng có thể bón
phân sâu, bằng cách dúi phân giữa các khóm lúa, nhưng sẽ phải tốn thêm công.
Mất đạm khi bón vãi phân trên mặt ruộng lúa, do đạm amôn (nếu bón urê cũng chuyển
hóa thành amôn) được bón vào tầng oxy hóa bị các vi khuẩn nitrat hóa thành NO 3-. Nitrat
không được keo đất giữ lại, bị rửa trôi xuống tầng khử oxy ở dưới rồi tham gia vào quá trình
phản đạm hóa do các vi sinh vật sống trong điều kiện yếm khí, có đủ chất khử, chúng khử
NO3- -NO2-NO-N2O-N2. Phản ứng có thể dừng ở bất kỳ giai đoạn nào và đều dẫn
đến việc mất đạm bay vào không khí

22


pH
thấp
EhEhcao
cao

pH
cao
Ehthấp
Eh
thấp


Không khí
N ư ớc
Fe+++ SO-4
NO-3

+
NH
HNO3
NH4+ →HNO
→HNO
2→

4

2→

HNO3

Trạng thái
vững

Tầng oxy
hoá

Nitrat hoá rửa trôi
ngấm xuống
Tầng khử

Lớp đất cày


N2 ← - HNO2← - HNO3
Fe++ S-- NH+4
Trạng thái vững
T ầng đ ế c ày
H ình 3.1. Đặc điểm chuyển hóa của phân đạm khi bón cho
lúa vào lớp oxy hóa hay lớp khử oxy của tầng canh tác đất lúa
Bảng 12.1. Phương pháp bón phân vô cơ cho lúa

Loại phân
Đạm
Lân
Kali

Lót
35-70
55-100
20-50

Tỷ lệ bón ở các thời kỳ (%)
Thúc đẻ nhánh
Thúc đòng
0-45
0-30
0-30
0-15
0-30
50

Bón phân lót cho lúa
Trong bón phân cho lúa thường bón lót toàn bộ phân chuồng và phân lân, một phần

phân đạm và kali. Thường bón lót phân chuồng trong quá trình làm đất, phân lân, phân kali
cùng với phân đạm bón trước khi cày bừa lần cuối.
Cây lúa hút khá nhiều lân trong các giai đoạn sinh trưởng đầu và giai đoạn cây con lúa
bị khủng hoảng lân do vậy phân lân cần được bón lót toàn bộ hoặc bón lót và thúc sớm. Phân
lân nên bón rải đều trên mặt ruộng trước khi cầy bừa lần cuối để gieo cấy.
Nên bón lót nhiều phân kali trong các trường hợp sau: trồng giống đẻ nhánh nhiều hay
ngắn ngày, lúa có hiện tượng bị ngộ độc sắt, đất có khả năng hấp thu cao hay thiếu kali, mưa
nhiều, ngập nước sâu, khí hậu lạnh. Trong thực tiễn còn chia tổng lượng phân kali ra bón thúc
làm nhiều lần do lúa là cây có yêu cầu cung cấp kali vào giai đoạn rễ lúa ăn nổi trên bề mặt
đất-cuối đẻ nhánh đến đầu làm đòng, kali cung cấp từ đất và nước tưới thường giảm đi ở giai
đoạn đẻ nhánh của cây lúa, cùng với tình trạng hydrosunfua, ion sắt và các chất khác ức chế
sự hút kali của cây ở giai đoạn sinh trưởng cuối.
Thường dành 1/3-2/3 tổng lượng N để bón lót cho cây lúa, tỷ lệ phân dùng để bón lót
tuỳ thuộc vào tính chất đất, độ sâu cày bừa, điều kiện khí hậu, thời gian sinh trưởng của lúa.

23


Cần bón lót nhiều đạm hơn khi cấy bằng mạ già, các giống lúa ngắn ngày, lúa chét (lúa mọc
lại từ gốc rạ).
Bón thúc đẻ nhánh
Bón thúc đẻ nhánh cho lúa thường bón bằng phân đạm hay phối hợp thêm với một
phần phân lân (nếu còn chưa bón lót hết). Thời gian bón thúc đẻ nhánh vào khoảng 18-20
ngày sau gieo hoặc sau khi lúa bén rễ và hồi xanh, vào khoảng 10-20 ngày sau cấy (tuỳ
thuộc mùa vụ) khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh.
Trên đất phèn và đất quá chua, khả năng cố định lân của đất rất mạnh thì bón thúc lân cho
lúa là cần thiết vì vừa nhằm hạ phèn và độc tố trong đất vừa cung cấp dinh dưỡng lân cho lúa.
Việc kết hợp bón lót và thúc một phần phân lân hoà tan trong nước cho lúa làm tăng hiệu quả sử
dụng phân bón. Khi bón thúc nên dùng các dạng lân hạt để tránh bám dính gây cháy lá.
Thường dành 1/2-2/3 lượng N còn lại để bón thúc đẻ nhánh nhằm làm cho lúa đẻ

nhánh nhanh, tập trung và cũng để giảm lượng phân lót, tránh mất đạm. Cần bón thúc đẻ
nhánh nhiều đạm cho lúa trong các trường hợp: cấy giống dài ngày hay đẻ nhánh nhiều, mật
độ gieo hoặc cấy cao, nhiệt độ khi gieo cấy cao.
Đối với những giống lúa cực ngắn, lúa mùa cần phải bón thúc đẻ nhánh sớm hơn còn
đối với giống dài ngày, lúa xuân có thể bón thúc muộn hơn, do thời kỳ sinh trưởng đầu của
cây lúa bị kéo dài.
Bón thúc đạm cho lúa tốt nhất là bón sau khi rút nước ruộng do có thể làm tăng gấp
đôi hiệu lực của phân bón so với ruộng có nhiều nước. Không nên rút nước quá 1 ngày trước
khi bón thúc vì việc rút nước trong một thời gian dài thúc đẩy cỏ dại phát triển và làm mất
đạm, đồng thời ruộng sau khi bón phân phải được đưa nước vào ngay sau một ngày bón đạm.
Dùng máy trừ cỏ có trục quay để trộn lẫn phân đạm vào đất cũng tăng được hiệu lực của phân
đạm, đặc biệt là khi bón thúc sớm và cấy sâu.
Bón thúc đòng

Loại dinh
N
dưỡng
P
K
Ca
Mg
S

Bảng 13.1. Chuẩn đoán nhu cầu dinh dưỡng qua lá của cây lúa
Hàm lượng dinh dưỡng (% chất khô)
Lúa lai
Lúa địa phương
Bộ phận và
Thiếu
Đủ

Thiếu
Đủ
thời gian lấy
Các
phía
<2,5
3,0-4,0
<2,5
3,0-4,0
mẫuláphân
trên,
vào
<0,2
0,2-0,5
<0,2
0,2-0,5
tích
<2,0
3,0-4,5
<2,0
3,0-4,5
<0,2
0,2-0,6
<0,15
0,20-0,60
<0,2
0,2-0,4
<0,15
0,15-0,30
<0,15

0,2-0,25
<0,1
0,2
Nguồn: T.S.Dierolf, 2001

Bón thúc đòng cho lúa thường sử dụng phối hợp phần phân đạm và kali còn lại nhằm
tiếp tục cung cấp đạm cho lúa để tạo được bông lúa to, có nhiều hạt chắc, nâng cao hệ số
kinh tế cho cây lúa, đạt năng suất cao. Bón đòng tốt nhất là bón sau khi phân hoá đòng
vào khoảng 40-45 ngày sau khi gieo, cấy.
Khi bón ít đạm, thì bón thúc đòng là một kỹ thuật quan trọng để nâng cao hiệu suất
phân đạm và là thời kỳ bón đạm có hiệu quả nhất. Những giống đẻ nhánh ít, bông to, năng
suất dựa vào số hạt trên bông thì cần phải chú trọng vào đợt bón đón đòng và nuôi hạt để
tạo được bông to, nhiều hạt chắc, đạt năng suất cao.
Bón lót càng nhiều, lúa sinh trưởng tốt, thì thời gian bón đòng càng muộn và ít.
Đối với các giống lúa mùa có thời gian sinh trưởng dài (150 - 180 ngày) cần bón thúc đòng

24


muộn hơn. Cần dùng mắt đánh giá tình hình sinh trưởng và màu lá trong thời kỳ đẻ rộ để
phán đoán nhu cầu bón thúc đòng. Khi đã bón lót được nhiều cũng có thể không cần bón
thúc đẻ, mà chỉ cần bón ở thời kỳ đòng. Bón đủ phân lót và thúc đẻ nhánh có thể không bón
phân đòng. Hiện nay trong chiến lược “ba giảm ba tăng” người ta căn cứ vào màu lá lúa để
quyết định việc bón thúc phân đạm cho lúa. Ngoài ra cũng có thể dựa vào việc chuẩn đoán lá
để xác định nhu cầu bón phân cho lúa (B.13.1.)
Nên dùng phân kali bón thúc đòng cho lúa trong các trường hợp: Giống đẻ nhánh từ
trung bình đến ít hay giống dài ngày, gieo cấy thưa; đất có điện thế oxy hoá khử rất cao, thành
phần cơ giới rất nhẹ, hay trên đất phèn (thiếu lân và ngộ độc sắt), đất kiềm (thiếu kẽm), lân bị
đất cố định hay mưa nhiều.
B ón nuôi hạt

Sau khi lúa trỗ hoàn toàn có thể bón nuôi hạt bằng cách phun phân bón lá 1-2 lần nhằm làm
tăng số hạt chắc, tăng năng suất. Đây là thời kỳ bón phân có hiệu quả rõ khi trồng lúa trên đất TPCG
nhẹ, có khả năng cung cấp dinh dưỡng và giữ phân kém.
Phối hợp các loại phân bón cho lúa
Việc phối hợp bón đồng thời các loại phân hoá học với phân chuồng khi sử dụng có
tác dụng làm tăng hiệu quả sử dụng và giảm việc mất phân hoá học.
Trong thực tế gần đây sử dụng nhiều phân NPK và đặc biệt là phân chuyên dùng nên cả
đạm, lân và kali đều được phối hợp bón vào 2-3 đợt đã cho năng suất và hiệu quả phân bón cao
hơn. Phân bón chuyên dùng cho lúa chính là các phân đa yếu tố mà trong đó ngoài các chất
dinh dưỡng đa lượng, còn có thể có các chất dinh dưỡng trung lượng và vi lượng đã được cân
nhắc cho phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển của lúa.
2.4. Vấn đề bón phân cân đối trong trồng lúa
Bón phân cân đối cho lúa là tuỳ theo yêu cầu của cây lúa về các chất dinh dưỡng (năng
suất, đặc điểm giống) và khả năng đáp ứng từng loại chất dinh dưỡng cho cây lúa của đất trồng
lúa cụ thể mà bón phân. Căn cứ định lượng phân bón cân đối cho lúa:
Vụ mùa, hè thu (mùa mưa) lượng đạm cần bón ít hơn so với vụ đông xuân. Vụ hè ở
các tỉnh phía Nam do nắng nóng, đất chua nhiều, phèn bốc mạnh nên cần bón nhiều lân hơn
so với vụ đông xuân và vụ thu đông.
Khi hàm lượng kali trong nước tưới cao (chẳng hạn phù sa nhiều) thì bón kali với
lượng thấp và ngược lại. Đất nhẹ cần bón nhiều kali hơn đất nặng, đất phù sa bón ít kali hơn
đất xám. Đất cát, đất xám, đất bạc màu do hàm lượng kali thấp nên cần bón nhiều kali hơn so
với các loại đất khác. Trên đất này do hàm lượng hữu cơ và sét thấp nên phải chia phân ra làm
nhiều lần bón hơn để giảm thất thoát phân bón.
Đất phèn, đất trũng nghèo lân lại có nhiều sắt nhôm di động gây độc, do đó cần phải bón
nhiều phân lân hơn các loại đất khác nhằm giảm độ độc của sắt nhôm và cung cấp lân cho cây lúa.
Trong rất nhiều trường hợp hiện tượng đổ là một nhân tố không cho phép được bón
cho lúa đến lượng đạm tối đa. Nếu cây lúa đổ trước khi trỗ năng suất có thể giảm 50-60%.
Giống lúa mới thấp cây có khả năng chống đổ tốt, lượng đạm bón tối thích cao hơn nhiều.
Nếu vừa thu hoạch hạt thóc vừa lấy rơm rạ khỏi đồng ruộng thì bón phân cần nhiều
hơn đặc biệt là phân kali do khá nhiều kali bị lấy đi khỏi đồng ruộng theo rơm rạ, nhưng nếu

không lấy rơm rạ khỏi đồng ruộng thì chỉ khoảng 5% lượng kali bị lấy đi theo sản phẩm thu
hoạch qua hạt. Khoáng trong đất, rạ và nước tưới là nguồn kali cung cấp cho cây.
Ở đất nhẹ nhiều cát cây cần kali hơn, đồng thời các giống năng suất cao cần nhiều kali
hơn.

25


×