Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

VĂN MẪU 11: HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM NHỮNG BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH HÌNH ẢNH THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƯỜI NƠI PHỐ HUYỆN NGHÈO LÚC CHIỀU TỐI TRONG TÁC PHẨM “HAI ĐỨA TRẺ” - THẠCH LAM”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.04 KB, 52 trang )

VĂN MẪU 11: HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
NHỮNG BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH HÌNH ẢNH THIÊN NHIÊN
VÀ CON NGƯỜI NƠI PHỐ HUYỆN NGHÈO LÚC CHIỀU TỐI TRONG TÁC
PHẨM “HAI ĐỨA TRẺ” - THẠCH LAM”

BÀI SỐ 1:
Thạch Lam là nhà văn lãng mạn tiêu biểu của Tự Lực Văn Đoàn với lối viết mang
phong cách riêng độc đáo. Ông rất nổi tiếng với những truyện ngắn vừa mang đậm chất
trữ tình vừa thể hiện một cảm quan hiện thực sâu sắc. Mỗi truyện ngắn của ông là một bài
thơ trữ tình đượm buồn. Tuy thời gian cầm bút chỉ 6 năm ngắn ngủi với số lượng tác
phẩm không nhiều nhưng cho đến nay có lẽ ơng là nhà văn duy nhất của Tự Lực Văn
Đoàn vượt qua được thử thách của thời gian bởi những truyện ngắn xuất sắc mà “Hai đứa
trẻ” là một trong số đó.Ở đó, nhà văn không tạo ra một cốt truyện đặc biệt đầy những tình
huống éo le mà chỉ dựng lên một bức tranh đời sống đầy ấn tượng qua hình ảnh thiên
nhiên và con người nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối.
Bức tranh đời sống ở phố huyện nghèo lúc chiều tối được bắt đầu bằng âm thanh
của một “tiếng trống thu không” vang vọng như đang gọi “Chiều, chiều rồi”. Đó khơng
phải là giọng của Thạch Lam mà là giọng của Liên, một tiếng kêu ngậm ngùi trước cảnh
ngày tàn. Lại một buổi chiều nữa Liên phải chứng kiến cảnh vật thiên nhiên trong ánh
mặt trời đang lụi tàn “đỏ rực” như lửa đang cháy khiến cho những đám mây ánh hồng
lên như “hòn than sắp tàn”. Tiếp đến là những luỹ tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên
nền trời. Đó là một buổi chiều “êm ả như ru” trong những âm thanh “văng vẳng râm ran
của tiếng ếch nhái ngồi đồng ruộng được “ngọn gió nhẹ hoang vu” mang theo vào phố
huyện. Hồ vào đó là tiếng muỗi kêu vo ve thật gợi buồn. Cảnh vật thiên nhiên trên phố
huyện lúc chiều xuống càng trở nên ám ảnh khi “mùi âm ẩm bốc lên hồ vào hơi nóng
của ban ngày lẫn với mùi cát bụi”. Với hai chị em Liên, đó là “mùi riêng của đất”, của
quê hương bình dị, quen thuộc. Đêm xuống, âm thanh như thưa thớt và mờ nhạt hơn đến


mức Liên chỉ còn nghe hoa bàng rụng xuống trên vai mình khe khẽ, thỉnh thoảng từng
loạt một. Phố huyện nghèo giờ đây chìm ngập trong bóng tối dày đặc, mênh mông “Tối


hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại
càng xẫm đen hơn nữa”. Bóng tối càng mênh mơng dày đặc hơn khi tác giả điểm vào đó
nhứng điểm sáng “le lói, lập loè, yếu ớt” của đàn đom đóm, một “quầng sáng lờ mờ”
của ngọn đèn hàng nước chị Tí, những “hột sáng” nhỏ nhoi lọt qua phên nứa nơi gian
hàng của chị em Liên.
Cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối trên phố huyện thật gợi buồn vì được cảm nhận
và mô tả qua ánh mắt của nhân vật Liên, một cơ bé mới lớn lên đã có những ngày tháng
sống ở Hà Nội đầy ánh sáng và hạnh phúc. Tất cả như được bắt đầu từ tiếng kêu ngậm
ngùi, thoảng thốt của cô bé Liên: “Chiều, chiều rồi”. Dưới ngòi bút tinh tế của nhà văn,
cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện hiện ra trong sự hoà hợp thật khéo léo của hình ảnh,
màu sắc, âm thanh và mùi vị. Đặc biệt là hình ảnh bóng tối và ánh sáng cứ trở đi trở lại
như một motip nghệ thuật rất giàu sức gợi cảm. Góp phần làm nên nét riêng cho đặc sắc
nghệ thuật mô tả thiên nhiên của Thạch Lam còn là lối hành văn giàu nhạc điệu, rất uyển
chuyển, tinh tế cứ nhẹ nhàng cuốn hút người đọc vào thế giới thiên nhiên của phố huyện
nghèo lúc chiều tối. Nó khơng những cho người đọc nhìn thấy mà quan trọng hơn là cịn
khơi gợi ở họ những tình cảm, xúc cảm đối với cảnh vật bởi dưới ngòi bút của Thạch
Lam mọi cảnh vật đều trở nên thật gợi cảm biết bao.
Cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối trên phố huyện thật nhẹ nhàng, êm ả nhưng
đượm buồn đã gợi rất chân thực không gian nơi đây. Sâu xa hơn, nó cịn gián tiếp giúp
người đọc cảm nhận thật thấm thía những diễn biến, trạng thái tâm trạng của các nhân
vật. Đọc “Hai đứa trẻ”, ta thấy thật khó nói cho rạch rịi nỗi buồn từ cảnh vật thấm vào
lòng người hay nỗi buồn trong tâm hồn ngây thơ của chị em Liên như nhuốm vào cảnh
vật. Ở đó có một cái gì đó thật nhẹ nhàng, hoà hợp nhịp nhàng giữa nỗi buồn của cảnh
vật và nỗi buồn trong tâm hồn con người, nhờ vậy mà nhà văn đã tạo ra cho tác phẩm
một chất thơ, chất trữ tình riêng cho truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.


Trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy lần lượt hiện ra những mảnh đời thật tội
nghiệp. Đó là hình ảnh của những kiếp người lam lũ, tàn tạ, sống mòn mỏi, héo hắt trong
mong đợi mơ hồ, xa xôi. Tất cả như đồng điệu với sự tàn tạ của cảnh vật thiên nhiên lúc

chiều tối. Giữa cảnh ngày tàn, chợ tàn hiện ra mấy đứa trẻ nghèo lom khom đi nhặt nhạnh
những thanh nứa, thanh tre giữa những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”.
Nhìn cảnh ấy, Liên “động lịng thương” nhưng khơng có tiền để cho chúng nó. Khi trời
nhá nhem tối, khung cảnh phố huyện xuất hiên thêm mẹ con chị Tí với gánh hàng nước
thật nghèo nàn mà “tuy chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng
từ chiều đến đêm”. Tiếp đến là hình ảnh bà cụ Thi điên “lảo đảo đi lẫn vào bóng tối” với
“tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía cuối làng”. Đêm xuống, phố huyện có thêm
gánh phở của bác Siêu với chấm lửa nhỏ lơ lửng đi trong đêm mất đi rồi lại hiện ra trong
những chập chờn, có lẽ đây là hình ảnh có phần sáng sủa nhất của những kiếp người nơi
đây nhưng cũng rất ế ẩm. Khép lại những mảnh đời bé mọn, tội nghiệp là gia đình bác
xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, bác chưa hát vì khơng có người nghe”. Nổi bật lên thật
ấn tượng và ám ảnh nhất giữa những mảnh đời ấy là chị em Liên. Cha của hai em mất
việc phải rời Hà Nội về quê kiếm sống nên hai em phải giúp mẹ bán hàng và trơng coi
gian hàng tạp hố nhỏ xíu nghèo nàn. Nhớ lại cuộc sống phong lưu giữa “một vùng sáng
rực” của Hà Nội khiến hai em càng buồn hơn cho hiện tại. Giờ đây mùi phở bác Siêu
trong đêm thật hấp dẫn nhưng quá xa xỉ, nhiều tiền mà hai em không thể nào mơ tưởng.
Để lại trong lịng người đọc một ấn tượng khó qn là tâm hồn rất nhạy cảm, giàu
yêu thương, dễ chạnh buồn của cô bé Liên và cảnh ngộ những người nghèo khổ nơi phố
huyện. Có thể nói bằng ấy những mảnh đời nơi phố huyện đều sống trong cảnh nhếc
nhác, quẩn quanh cùng một tâm trạng buồn bã ít hi vọng vào lối sống bấp bênh có tính
cầu may của mình. Đó là một cuộc sống mịn mỏi lay lắt rất tương đồng với sự tàn tạ của
cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối của phố huyện. Tất cả những mảnh đời ấy đều được nhà
văn mô tả bằng nét bút chân thực nhưng khác với các nhà văn hiện thực Thạch Lam
không đi vào mô tả cụ thể chi tiết mà chỉ được vẽ bằng nét chấm phá thoáng nhẹ nhưng
rất tinh tế, giàu sức gợi tả và gợi cảm. Tất cả các nhân vật cứ hiện ra từ từ trong lặng lẽ,


âm thầm như những cái bóng, ít nói năng, ít hành động nhưng nhờ đó mà nhà văn đã tơ
đậm, khắc sâu hơn ở người đọc ấn tượng về kiếp sống héo hắt, leo lét, tội nghiệp của cư
dân phố huyện. Bên cạnh đó, nhà văn cũng rất thành cơng trong việc diễn đạt các trạng

thái tâm trạng vừa mong manh, mơ hồ buồn vừa khắc khoải da diết của cô bé Liên lúc
chiều tối.
Từ bức tranh thiên nhiên và những mảnh đời tội nghiệp của phố huyện lúc chiều
tối ta bỗng nhận ra có một nhà văn đang lặng lẽ, âm thầm rảo bước giữa chiều hôm mà
tâm hồn nặng tình gắn bó với mọi cảnh vật và con người bình dị, lam lũ nơi đây. Ở đó,
người đọc khơng ai khơng xúc động khi tấm lịng bùi ngùi thương cảm kín đào, nhẹ
nhàng mà chân thành, thấm thía của nhà văn đối với những kiếp người sống quẩn
quanh,leo lét trong xã hội cũ trước cách mạng. Ở đó, ta còn thấy thái độ rất mực trân
trọng và sự đồng cảm sâu xa của nhà văn đối với những mong ước tuy mơ hồ, mong
manh và xa vời trong tâm hồn họ vì đó chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt đi
qua phố huyện. Quả thật, tâm hồn nhà văn đã được thể hiện qua những lời văn nhiều hình
nhiều vẻ nhưng bao giờ cũng đằm thắm và nhân hậu, cũng ngẹn ngào một chút lệ thầm
kín của tình thương. Bên cạnh đó, nhà văn còn đưa đến cho người đọc những cảnh quê
hương thật quen thuộc mà không kém phần thơ mộng, gợi cảm. Từ đó cứ gợi nhắc mọi
người về tình cảm đối với nguồn cội quê hương, với những mẩu kí ức đẹp mà buồn. Có lẽ
tình u q hương đất nước của mỗi con người Việt Nam có phần được bồi đắp bởi
những kí ức hết sức bình dị như vậy đó.
Bức tranh thiên nhiên và đời sống con người ở phố huyện lúc chiều tối khơng có
nhiều sự kiện, nhân vật, ít hành động, ít nói năng. Nhưng với lối viết giàu hình ảnh, giàu
nhạc điệu, ngơn ngữ trong sáng Thạch Lam đã gợi được tinh tế những khơng khí của câu
truyện, những cảnh sinh hoạt, những xúc cảm trong tâm hồn con người khiến cho bức
tranh đời sống của phố huyện đầy ắp suy tư rung cảm. Từ bức tranh ấy cũng tủa ra một
mảng sáng lung linh ấm áp trong tâm hồn người lao động nghèo và tấm lòng đầy nhân ái
của Thạch Lam.


BÀI SỐ 2:

Trong nền văn học dân tộc, ít có người như Thạch Lam. Bằng những truyện ngắn
tưởng như đơn giản, khơng có cốt truyện nhưng những gì nhà văn viết, tiếng nói nhè nhẹ

của ơng đã để lại những lắng sâu, những nghĩ suy, những dư âm nhẹ nhàng mà sâu sắc
cho độc giả. "Hai đứa trẻ" (in trong tập "Nắng trong vườn", xuất bản năm 1938) là một
truyện ngắn như thế.
Dưới con mắt ngây thơ của "Hai đứa trẻ", người đọc dường như cùng nhập cuộc,
cùng theo dõi, để rồi bức tranh thiên nhiên và bức tranh đời sống của phố huyện nghèo,
của những con người bình dị, lam lũ hiện lên. Trong nắng chiều dần tắt, trong cái nhập
nhòe nửa sáng nửa tối và trong cái chập chờn của màn đêm bao la với vài ngọn đèn lay
lắt, cuộc sống hiện lên như những vật thể nhỏ xíu, trong cái đèn kéo quân đang hết dầu
chầm chậm quay, để rồi rơi tõm vào màn đêm sâu thẳm.
Cảnh khơng có gì hấp dẫn, hoạt động của con người thì lẻ tẻ, đơn điệu nhưng bức
tranh chiều thì dần dần đen lại, chập chờn mấy ngọn đèn nhưng cứ lôi cuốn người đọc dõi
theo cùng cô bé Liên bởi sự quan sát, cảm nhận, nhạy cảm, ngây thơ của cô bé, bởi sự
hiện lên sống động, chân thực của bức tranh đời sống phố huyện nghèo đã gây nên cảm
xúc trữ tình, tạo nên cảm giác buồn thương cho người đọc.
Mở đầu câu chuyện, Thạch Lam bằng sự quan sát tài tình của mình, bằng ngịi bút
tài hoa của mình đã vẽ lên một bức tranh đơn giản mà huyền ảo, gây cho ta cảm giác như
lạc vào thế giới thần tiên của truyện cổ tích: "Tiếng trống thu khơng trên cái chịi của
huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương Tây, đỏ rực như lửa cháy
và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn: dãy tre làng nước trước mắt đen lại và
cắt hình rõ rệt trên nền trời". Điệp từ "chiều" được nhắc đi nhắc lại, cái bóng tối lan
nhanh thấm vào tâm hồn ngây thơ của cô bé Liên, cái âm thanh "êm ả như ru, văng vẳng
tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng" tạo nên trong Liên nỗi "buồn man mác trước thời
khắc của ngày tàn".


Phiên chợ đã "vãn từ lâu", "người về hết và tiếng ồn ào cũng mất", chỉ còn lại sự
nghèo nàn, xa xác với những "rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá nứa", chỉ còn lại
"mùi âm ẩm bốc lên", chỉ cịn lại hơi nóng ban ngày, mùi cát bụi và cảnh mấy đứa con
nhà nghèo lom khom đi lại, tìm tịi. Cái thế giới "cổ tích" mà nhà văn dựng lên khác nào
thế giới của những cô Tấm, Lọ Lem ngày xưa!

Và rồi lần lượt hiện lên tiếp theo hình ảnh của những con người nghèo khổ khác:
mẹ con chị Tí xách điếu đóm, đội chõng tre dọn hàng nước mặc dầu chẳng kiếm được
bao nhiêu: "gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau trắng để trước mặt": hàng
phở của bác Siêu đến trong "tiếng đòn gánh kĩu kịt"; bà cụ Thi "hơi điên vẫn mua rượu ở
hàng Liên" cất tiếng cười khanh khách lẽo đẽo đi vào trong màn đêm tối mênh mông, lay
lắt như ngọn đèn trước gió của "hàng nước chị Tí". "Vũ trụ thăm thẳm bao la", "về phía
huyện một chấm lửa khác nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra";
"tiếng trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn khô khan, khơng vang động
ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối". Ngày lại ngày, chiều và tối đơn điệu lặp lại sự buồn tẻ
ấy như cuộc sống lầm than của người dân phố huyện này. Ánh sáng của cuộc sống ấy có
chăng chỉ là sự lay lắt "chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ" như chiếc đèn của chị Tí. Sự
sang trọng, vùng sáng lớn của con tàu đi qua phố huyện trong đêm chỉ lướt qua rồi mất
hút vào đêm tối, chỉ là cái gì thật mơ hồ, xa lạ không biết bao giờ mới đến với cuộc đời
của chị em Liên, của người dân phố huyện này.
Không một lời phê phán, không một sự lên án, không đặt ra một câu hỏi, ngòi bút
tài hoa của Thạch Lam chỉ miêu tả đời sống thật, đời sống tối tăm, không hi vọng của
người dân một vùng quê, một phố huyện nghèo mà sao làm nhức nhối chúng ta, gieo vào
lòng ta một sự hoài nghi về xã hội thời nhà văn sống. Đóng góp như thế cho cuộc đời,
cảm thơng như thế cho thân phận con người, miêu tả như thế trong tác phẩm của mình,
tâm hồn nhà văn đẹp đẽ biết bao, giá trị văn học mà Thạch Lam sáng tạo tài hoa và đáng
trân trọng biết bao. Chúng ta xếp Thạch Lam vào nhứng tên tuổi lớn của văn học nước
nhà giai đoạn 1930 – 1945, độc giả biết ơn nhà văn đã viết những trang sách cho đời và
coi ông như một trong những cây bút truyện ngắn bậc thầy thật đúng với tài năng của


ông, đúng như tuyên bố của nhà văn với độc giả: "Đối với văn chương không phải là một
cách mang đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí
giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả
dối và tàn ác, vừa làm cho người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn".



BÀI SỐ 3:

Truyện dường như chẳng có gì: hầu như khơng có cốt truyện, chẳng có xung đột
gay cấn, chắng có gì đặc biệt cả. Hai đứa trẻ chỉ là một mảng đời thường bình lặng của
một phố huyện nghèo từ lúc chiều xuống cho tới đêm khuya, với hương vị màu sắc, âm
thanh quen thuộc: tiếng trống thu không cất trên một chiếc chịi nhỏ, một ráng chiều ở
phía chân trời, một mùi vị âm ẩm của đất, tiếng chó sủa, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo
ve… những âm thanh của mấy người bé nhỏ, thưa thớt, một quán nước chè tươi, một
gánh hàng phở, một cảnh vãn chợ chiều với vỏ nhãn, vỏ thị, rác rưởi và những đứa trẻ
con nhà nghèo đang cúi lom khom tìm tịi, nhặt nhạnh, một đoàn tàu đêm lướt qua… và
nỗi buồn mơ hồ với những khao khát đến tội nghiệp của Hai đứa trẻ.
Nhưng những hình ảnh tầm thường ấy, qua tấm lòng nhân hậu, qua ngòi bút tinh
tế, giàu chất thơ của Thạch Lam lại như có linh hồn, lung linh mn màu sắc, có khả
năng làm xao động đến chỗ thầm kín và nhạy cảm nhất của thế giới xúc cảm, có khả năng
đánh thức và khơi gợi biết bao tình cảm xót thương, day dứt, dịu dàng, nhân ái. Đó là
truyện của Hai đứa trẻ nhưng cũng là truyện của cả một phố huyện nghèo với những con
người bé nhỏ thưa thớt, tội nghiệp đang âm thầm đi vào đêm tối.
Ít có tác phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi trở lại… như
một ám ảnh không dứt như trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam: tác phẩm mở đầu
bằng những dấu hiệu của một “ngày tàn” và kết thúc bằng một “đêm tịch mịch đầy bóng
tối”, ở trong đó, màu đen, bóng tối bao trùm và ngự trị tất cả: đường phố và các ngõ con
dần dần chứa đầy bóng tối, tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ
về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Một tiếng trống cầm canh ở huyện đánh
tung lên một tiếng ngắn, khô khan, không vang động ra xa, rồi cũng chìm ngay vào bóng
tối…
Cả đồn tàu từ Hà Nội mang ánh sáng lướt qua trong phút chốc rồi cũng “đi vào
đêm tối”… Trong cái phông của một khung cảnh bóng tối dày đặc này, là những mảnh



đời của những con người sống trong tăm tối. Họ là những con người bình thường, chỉ
xuất hiện thống qua, hầu như chỉ như một cái bóng, từ hình ảnh mẹ con chị Tí với hàng
nước tồi tàn đến một gia đình nhà xẩm sống lê la trên mặt đất, cho đến cả những con
người không tên: một vài người bán hàng về muộn, những đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom
khom nhặt nhạnh, tìm tịi…
Tất cả họ khơng được Thạch Lam miêu tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân, số
phận… nhưng có lẽ nhờ thế mà số phận họ hiện lên càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp, ai cũng
sống một cách âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ. Văn Thạch Lam là như thế: nhẹ về tả, thiên
về gợi và biểu hiện đời sống bên trong: sống trong lặng lẽ, tăm tối nhưng giữa họ khơng
thể thiếu vắng tình người. Qua những lời trao đổi và những cử chỉ thân mật giữa họ ta
nhận ra được mối quan tâm, gắn bó. Và tất cả họ dường như đều hiền lành, nhân hậu qua
ngọn bút nhân hậu của Thạch Lam.
Nhưng giữa bấy nhiêu con người, nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới tâm hồn của hai
đứa trẻ: Liên và An. Chúng chưa phải là loại cùng đinh nhất của xã hội nhưng là tiêu biểu
cho những con nhà lành, đang rơi vào cảnh nghèo đói, bế tắc vì sa sút, thất nghiệp.
Không phải ngẫu nhiên tác giả lấy Hai đứa trẻ để đặt tên cho truyện ngắn của
mình. Hình ảnh tăm tối của phố huyện và những con người tăm tối khơng kém, sống ở
đây hiện lên qua cái nhìn và tâm trạng của chị em Liên, đặc biệt là của Liên. Mở đầu tác
phẩm ta bắt gặp hình ảnh Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen “đơi mắt chị
bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn ngây thơ của
chị” và “chị thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của “ngày tàn”. Thạch Lam không
miêu tả tỉ mỉ đời sống vật chất của họ, nhà văn chủ yếu đi sâu thể hiện thế giới tinh thần
của Liên với nỗi buồn man mác, mơ hồ của một cô bé khơng cịn hồn tồn trẻ con,
nhưng cũng chưa phải là người lớn. Tác giả gọi “chị” là vì quả Liên là một người chỉ biết
quan tâm săn sóc em bằng tình cảm trìu mến, dịu dàng, biết đảm đang tảo tần thay mẹ
nhưng tâm hồn Liên thì vẫn cịn là tâm hồn trẻ dại với những khao khát hồn nhiên, thơ
ngây, bình dị.


Ở đây, nhà văn đã nhập vào vai của “Hai đứa trẻ”, thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ

và diễn tả cái thế giới tâm hồn trong sáng của chị em Liên: hình ảnh bóng tối và bức
tranh phố huyện mà ta đã nói trên kia được cảm nhận chủ yếu từ nỗi niềm khao khát của
hai đứa trẻ. Tâm hồn trẻ vốn ưa quan sát, sợ bóng tối và khát khao ánh sáng. Bức tranh
phố huyện hiện ra chính là qua tâm trạng này: “Hai chị em gượng nhẹ (trên chiếc chõng
sắp gãy) ngồi n nhìn ra phố…” Liên trơng thấy “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ
cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tịi” nhưng “chính chị cũng khơng có tiền để mà cho
chúng nó…”. Trời nhá nhem tối, bây giờ chị em Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu
đóm và khiêng cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra… Hai chị em Liên đứng sững nhìn
theo bà cụ Thi đi lẫn vào bóng tối… “Hai chị em đành ngồi yên trên chõng đưa mắt theo
dõi những người về muộn từ từ đi trong đêm”… “Từ khi nhà Liên dọn về đây… đêm nào
Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang
cảnh phố xung quanh”… Đêm tối đối với Liên “quen lắm, chị không sợ nó nữa”.
“Khơng sợ nó nữa” nghĩa là đã từng sợ. Chỉ mất từ “khơng sợ nó nữa” mà gợi ra bao liên
tưởng. Hẳn là Liên đã từng sợ cái bóng tối dày đặc đã từng bao vây những ngày đầu mới
dọn về đây. Còn bây giờ Liên đã “quen lắm”. Sống mãi trong bóng tối rồi cũng thành
quen, cũng như khổ mãi người ta cũng quen dần với nỗi khổ. Có một cái gì tội nghiệp,
cam chịu qua hai từ “quen lắm” mà nhà văn dùng ở đây. Nhưng ngịi bút và tâm hồn của
Thạch Lam khơng chỉ dừng ở đấy. Cam chịu nhưng cũng khơng hồn tồn cam chịu, nhà
văn đã đi sâu vào cái nỗi thèm khát ánh sánh trong chỗ sâu nhất của những tâm hồn trẻ
dại. Ông dõi theo Liên và An ngước mắt lên nhìn vịm trời vạn ngơi sao lấp lánh để tìm
sơng Ngân hà và con vịt theo sau ông thần nông như trẻ thơ vẫn khao khát những điều kì
diệu trong truyện cổ tích, nhưng vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như
đầy bí mật, lại quá xa lạ làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát, hai em lại cúi nhìn về mặt đất,
và quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động của chị Tí… Nhà văn chăm chú
theo dõi từ cử chỉ, ánh mắt của chúng và ghi nhận lại thế thơi. Nhưng chỉ cần thế, cũng
đủ làm nao lịng người đọc.


Sống mãi trong bóng tối, “quen lắm” với bóng tối, nhưng càng như hế, chúng
càng khát khao hướng về ánh sáng, chúng theo dõi, tìm kiếm, chỉ mong ánh sáng đến từ

mọi phía: từ “ngàn sao lấp lánh trên trời”, đếm từng hột sáng lọt qua phên nứa, chúng
mơ tưởng tới ánh sáng của quá khứ, của những kỉ niệm về “Hà Nội xa xăm”, “Hà Nội
sáng rực, vui vẻ và huyên náo” đã lùi xa tít tắp; chúng mải mê đón chờ đồn tàu từ Hà
Nội về với “các toa đèn sáng trưng”; chúng cịn nhìn theo cả cái chấm nhỏ của chiếc đèn
xanh treo trên toa sau cùng xa xa mãi… Đó là thế giới của ao ước, dù chỉ là một ao ước
nhỏ nhoi, dù chỉ như là một ảo ảnh. Khơng thấm đượm một tấm lịng nhân ái sâu xa,
khơng hiểu lịng con trẻ, khơng có một tâm hồn nhạy cảm giàu chất thơ thì khơng thể
diễn tả tinh tế đến thế nỗi thèm khát ánh sáng của những con người sống trong bóng tối.
Đọc Hai đứa trẻ, ta có cảm giác như nhà văn chẳng hư cấu sáng tạo gì. Mọi chi tiết
giản dị như đời sống thực. Cuộc sống cứ hiện lên trang viết như nó vốn như vậy. Nhưng
sức mạnh của ngịi bút Thạch Lam là ở đấy. Từ những chuyện đời thường vốn phẳng
lặng, tẻ nhạt và đơn điệu, nhà văn đã phát hiện ra một đời sống đang vận động, có bề sâu,
trong đó ánh sáng tồn tại bên cạnh bóng tối, cái đẹp đẽ nằm ngay trong cái bình thường,
cái khao khát ước mơ trong cái nhẫn nhục cam chịu, cái xơn xao biến động trong cái bình
lặng hàng ngày, cái tăm tối trước mắt và những kỷ niệm sáng tươi… Nét độc đáo trong
bút pháp Thạch Lam là ở chỗ: nhà văn đã sử dụng nghệ thuật tương phản một cách hầu
như tự nhiên, không chút tô vẽ, cường điệu, và nhờ thế, bức tranh phố huyện trở nên
phong phú, chân thật, gợi cảm.
Đọc Hai đứa trẻ ta bị ám ảnh day dứt không thôi trước đêm tối bao trùm phố
huyện và xót xa thương cảm trước cuộc đời hiu quạnh cam chịu của những con người
sống nơi đây. Nhưng Hai đứa trẻ cũng thu hút ta bởi cái hương vị man mác của đồng quê
vào một “chiều mùa hạ êm như ru” và “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua
gió mát”… Nó làm sống lại cả một thời q vãng, nó đánh thức tình cảm quê hương đậm
đà, và làm giàu tâm hồn ta bởi những tình cảm “êm mát và sâu kín”.


BÀI SỐ 4:
Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: “Thạch Lam là một nhà văn yêu mến cuộc sống,
trang trọng trước sự sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn
thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn

học”. Nguyễn Tuân là nhà văn cùng thế hệ với Thạch Lam, cùng có chân trong Tự lực
văn đồn, Nguyễn Tn đã khẳng định mình thẩm mĩ độc đáo và tình cảm nhân đạo đằm
thắm trong những trang văn Thạch Lam.
Truyện của Thạch Lam khơng có chuyện, mỗi tác phẩm như một bài thơ văn xuôi,
thấm đẫm chất trữ tình, man mác xót thương. Đó là loại truyện tâm tình nồng nàn ý vị.
“Dưới bóng hồng lan'’, “Nhà mẹ Lê”, “Cô hàng xén", “Hai đứa trẻ” ... là những truyện
ngắn rất hay của Thạch Lam. Truyện “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn”, nhà
xuất bản "Đời tay”, Hà Nội, 1938. Truyện ngắn này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật
Thạch Lam, khai thác những mẫu đời thường mà nơi sâu kín tâm hồn của mảnh đời nào
cũng chứa đầy bao nỗi xót xa, thương cảm. Bối cảnh câu chuyện là một phố huyện nghèo
nàn, xơ xác, có đường tàu đi qua, một ga xép, một cái chợ nhỏ bé nằm giữa thơn xóm và
cánh đồng. Thời gian là một buổi chiều muộn và cảnh đầu hơm cho đến lúc chuyến tàu
chạy qua. Có hai đứa trẻ ngồi trong một ngôi hàng xén nhỏ nhoi ngắm nhìn cảnh vật và
cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua.
Chuyện mở ra một thời điểm là phố huyện lúc chiều xuống. Tiếng là phố huyện
nhưng chỉ là một thị trấn nhỏ bé, nghèo nàn ở nước ta những năm đầu thế kỉ XX mà Tú
Xương có nói đến: “Phố phường tiếp giáp với bờ sông” ... Cảnh một chiều hè muộn ở
đồng quê. “phương Tây đỏ rực như trời cháy...”, "Một chiều êm ả như ru" có tiếng trống
thu khơng, tiếng ếch nhảy kêu ran ngồi đồng. Màn đêm dần dần buông xuống, tiếng
muỗi kêu vo ve trong các cửa hàng hơi tối. Cảm xúc của nhà văn như tràn ra câu chữ,
biểu lộ một tấm lòng sâu nặng gắn bó với quê hương. Bức tranh quê hiện lên dưới ngòi
bút tinh tế của Thạch Lam trở nên gần gũi, thân thiết, bình dị mà nên thơ.


Nhưng “Hai đứa trẻ” không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà trước hết cịn là bức
tranh đời sống. Đó là bức tranh đời sống của phố huyện nghèo ngày xưa lúc chiếu tối và
đêm xuống, được quan sát và cảm nhận qua tâm hồn ngây thơ nhạy cảm cùa hai đứa trẻ hai chị em Liên và An.
Trước cái giờ khắc của ngày tàn, Liên ngồi yên lặng bên mấy q thuốc sơn đen,
cơ thấy “lịng buồn man mác”, đơi mắt “bóng tối ngập đầy dần” và cái buồn của buổi
chiều quê thấm thìa vào tâm hồn ngây thơ của cô. Trời nhá nhem tối, các nhà đã lên đèn:

“Đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dây sáng
xanh trong hiệu khách...”. Cát trên phố “lấp lánh từn chỗ”, đường “mấp mô thêm” trong
cảnh tranh sáng tranh tối. Chợ “vãn từ lâu” là một cảnh buồn và xơ xác của bức tranh đời
sông phố huyện nghèo lúc buổi chiều tối. Không một tiếng ồn ào, vỏ thị, vỏ bưởi, lá
nhãn, bã mía và rác rưởi cịn lại trên đất. Vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng
hóa. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ lom khom đi lại tìm tịi “nhặt thanh nứa,
thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Chúng đi
lại chập chờn như những linh hồn bơ vơ. Thấy chúng nó, Liên động lịng thương nhưng
chị cũng khơng có tiền mà cho chúng nó. Cái nghèo là cảnh đời chung cua mọi người,
mọi nhà, và cái mùi ẩm ẩm bốc lên, mùi cát bụi lẫn hơi nóng mà Liên tưởng là “mùi
riêng của đất, của q hương”. Đó chính là mùi vị của cái “Ao đời”, của lầm than và
nghèo khó.
Bóng tơi như phủ đầy thiên truyện, phủ mờ cảnh vật và đè nặng lên cuộc đời của
những con người “bé nhỏ" nơi phố huyện nghèo xác xơ. Cửa hàng bé xíu phên nứa dán
giấy nhật trình, chiếc chõng tre nơi chị em Liên ngập đầy bóng tối. Càng về đêm “đường
phố và các ngõ con dán dần chứa đầy bóng tối". Con đường thăm thẳm ra sông, con
đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Tiếng trống cầm canh,
tiếng ếch nhái kêu ran từ đồng xa vọng đến tiếng động khẽ của hoa bằng rụng xuống vai
Liên, tiếng đòn gánh kĩu kịt của người bán quà rong, tiếng cười “giòn giã” của bà cụ
Thi... tất cả mọi âm thanh ấy “chìm ngay vào bóng tối". Phố huyện càng về đêm càng
tịch mịch và đầy bóng tối.


Trong cảnh xác xơ, tiêu điều và ngập đầy bóng tối hiện lên những mảnh đời lầm
lũi, đáng thương. Cuộc đời mẹ con chị Tí như gắn liền với màn đêm bóng tối. “Thằng cu
bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng và trong ngõ đi ra”. Mẹ của nó, chị Tí đi
theo sau "đội cái chõng trẽn đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc...”. Ngày
thì mị cua bắt tép, chiều nào cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm” mà “chả kiếm
được bao nhiêu!”. Hình ảnh hai mẹ con chị Tí đã làm ta nhớ đến cuộc đời hai mẹ con cái
Hiên trong truyện “Gió lạnh đầu mùa” : mẹ thì mị cua bắt ốc, con thì áo rách phong

phanh, đứng co ro trước làn gió lạnh... Thạch Lam đã dành cho những bà mẹ nghèo,
những em bé nghèo khổ nhiều trắc ẩn, xót thương!
Hình ảnh bà cụ Thi hơi điên “tiếng cười khanh khách”, tay cầm cút rượu soi lên
rồi cười giòn giã, “vừa đi vừa ngửa cổ ra đằng sau”, dốc cút rượu uống một hơi cạn sạch,
chép miệng “lảo đảo” trong bóng tối... cũng gợi cho ta nhiều thương xót về một cuộc đời
xế bóng nơi phố huyện nghèo.
Cảnh gia đình bác xẩm mới thê lương. Tiếng đàn bầu bần bật, ngồi trên manh
chiếu, trước mắt là cái chậu thau sắt trắng, thàng con ngồi trên đất “nghịch nhặt những
rác bẩn vùi trong cát bên đường”. Và bác bán phở rong trong đêm, một thứ quà xa xỉ mà
chị em Liên khơng bao giờ mua được. Địn gánh bác kêu “kĩu kịt”, bóng bác “mênh
mang ngã xuống được một vùng...". Tất cả góp phần vào cảnh đời đầy bóng tối nơi phố
huyện nghèo nàn xơ xác, những kiếp sống lầm than, tàn tạ và cơ cực.
Có thể nói, hai chị em Liên là hình ảnh trung tâm của bức tranh đời sống của phố
huyện nghèo. Cảnh nhà sa sút, bố Liên mất việc, cả nhà bỏ Hà Nội về quẽ, mẹ làm hàng
xáo. Hai chị em được mẹ cho trơng coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, vách dán giấy nhật
trình, bán lèo tèo vài bao diêm, dăm miếng xà phịng, một ít rượu. Liên là một cơ gái mới
lớn, biết làm dáng, cô hãnh diện với cái dây xà tích bạc ở thắt lưng. Từ ngày xa Hà Nội
“một vùng sáng rực và lấp lánh, Hà Nội nhiều đèn quá”. Liên quen dần với bóng tối nơi
phố huyện nghèo. Ngọn đèn của Liên... “từng hột sáng lọt qua phên nứa”, đèn hoa kì leo
lét trong căn nhà ông Cửu, quầng sáng ngọn đèn “lay động trên chõng hàng chị Tí” chấm
lụa nhỏ và vàng “lơ lửng” nơi gánh phở bác Siêu... từ đêm này qua đêm khác. Liên vẫn


ngồi trên chõng ngắm nhìn. Càng về khuya, “tâm hồn Liên n tĩnh ăn, có những cảm
giác mơ hồ khơng hiểu”.
Đêm nào cũng vậy, An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt, nhưng vẫn cố thức đợi
chuyến tàu đêm chạy qua. Liên đón nhìn con tàu từ xa “ngọn lửa xanh biếc, nát mặt đất
như ma trơi”, tiếng còi tàu vang lại kéo dài ra theo gió xa xơi đoàn tàu đến gần, vụt qua
“các toa đèn sáng trưng", rồi nó “đi vào đêm tối. để lại những đốm than đỏ bay tung trên
đường sắt”. Tàu đã chạy xa mà hai chị em Liên cịn nhìn theo “cái chấm nhỏ của chiếc

đèn xanh treo trên toa sau cùng..." Với nhiều man mác bâng khuâng. Chuyến tàu đêm
như một niềm an ui, mội nỗi khao khát mơ hồ, một ước mơ không bao giờ tắt, một chút
tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày. Chuyến tàu đêm “như đã đem một chút thế
giới khác đi qua”. Chờ tàu đến, nuối tiếc con tàu chạy qua. Rầm rộ lên chốc lát. lừng
sáng lên khoảnh khắc, đế rồi sau đó, “tử phía ga, bóng đêm lồng với bóng người đi về”.
Chuyến tàu đêm đã thành một biến cố trọng đại nơi phố huyện nghèo: “Chừng ấy người
trong bóng tối mong đợi một điều gi tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của
họ".
Bức tranh đời sống phố huyện nghèo sau khi con tàu chạy vụt qua, đêm khuya dần
càng trở nên n tĩnh mênh mơng. Chỉ có đêm khuya, “tiếng trống ấm canh và tiếng chó
cắn”. Chị Tí sửa soạn đồ đạc, bác xẩm đã ngủ gục trên mành chiếu. Liên chìm dần vào
giấc ngủ yên tĩnh “tịch mịch và đầy bóng tối” như đêm yên tĩnh trong phố hụyện nghèo.
Cảnh phố huyện nghèo với những mảnh đời quanh quẩn và lầm than, nghèo khổ và tối
tăm. Chị em Liên, mẹ con chị Tí, bà cụ Thi hơi điên, bác Siêu bán phở rong, vợ chồng
bác xẩm héo hon, những phu gạo, phu xe ngồi hút thuốc ! Bấy nhiêu con người nhỏ bé
đáng thương. Thạch Lam đã miêu tả cả phố huyện nghèo bằng những cảnh, những người,
những chi tiết rất chân thật và cảm động. Ông đã dành cho con người quê hương, những
con người nghèo khổ, tăm tối một sự cảm thơng và xót thương nồng hậu. Cảnh phố
huyện nghèo vừa hiện thực vừa chứa chan tinh thần nhân đạo. Trong “Thay lời bạn” –
Tuyển tập Thạch Lam, Nhà xuất bản Văn học, năm 1988, nhà văn Nguyễn Tuân viết:
“Truyện Hai đứa trẻ có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về dĩ


vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì cịn ở trong tương lai... Nơi thế giới quan của
đôi trẻ ở một phố q, hình ảnh đồn tàu và cái tiếng cịi tàu đã thành một thói quen của
cảm xúc và của ước vọng. Đọc “Hai đứa trẻ”, thấy bận bịu vơ hạn về một tấm lịng q
hương êm ái và sâu kín.


BÀI SỐ 5:

Trong Tự Lực văn đoàn, nhà văn Thạch Lam đứng thành một dòng riêng biệt.
Nhất Linh với Khái Hưng cịn có thể viết tiểu thuyết chung nhưng Thạch Lam thì khơng.
Giọng điệu của Thạch Lam nhỏ nhẹ, điềm tĩnh, sâu lắng, nhiều dư vị, có sức truyền cảm
đặc biệt. Thạch Lam lại hướng về các nhân vật bé nhỏ ở tầng lớp dưới của xã hội. Trong
khi đó, các nhà văn khác của Tự lực văn đoàn lại hướng về các nhân vật thượng lưu. “Hai
đứa trẻ” là truyện ngắn tiêu biểu cho văn phong Thạch Lam, cho khuynh hướng tư tưởng
của Thạch Lam, hướng về cuộc đời, hướng về cái Thiện, cái Mĩ.
Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có
hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trơng coi một cửa hàng tạp hóa
nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hồng hơn, rồi
đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm
từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm
thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình
mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp. “Hai đứa trẻ” hấp dẫn người đọc
bằng chất liệu thật của đời sống. Cách lựa chọn chất liệu này gần với Nam Cao, Ngun
Hồng, Tơ Hồi (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo), lại kích thích người đọc bằng
những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn Nhất Linh,
Khái Hưng, Hồng Đạo. Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa.
Bức tranh bằng ngôn ngữ của ơng có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn dầu. Thạch
Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. lãng mạn tích cực, đẹp.
Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong
bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần
buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát…” thiên nhiên thì
cao rộng thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám
mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng q thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong
cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đơi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ
thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất


mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương

day cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố
huyện nghèo.
Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi
cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và
tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố
huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ
bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh cịn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà
văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá,
khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện
trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế.
Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ,
lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ
rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị
đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này…. Gia đình bác Xẩm ngồi trên
manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn
bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả
nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu
uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều sống lầm than, cực khổ,
tàn tạ. Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mơng, chỉ cịn
ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên… tức
chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng
sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dầy đặc mà thôi. “Tất cả phố xá trong huyện
bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của
chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình
ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những kiếp sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong
đêm đen mênh mông của cuộc đời.


Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại.
Chiều tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền,

rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại
trải chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một
chút hi vọng. Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người khổ ấy. Nhất Linh cũng
từng nói những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão “chừng
ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày
của họ”. Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà
chúng đang sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm
hồn ngây thơ, nhạy cảm, cơ bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vơ thức hiện thực đó,
khát vọng đó. Chính vì khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên
đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi
qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và
ánh lửa bác Siêu.
“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung
đột giai cấp. Ơng cũng khơng để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc
lột và khn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cũng Thạch Lam là một nhà
văn lãng mạn. Ông phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và
trong chiều sâu tinh thần của nó. Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ
nhoi đáng thương ấy thấm đẫm niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những
người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm. Qua bức tranh ảm đạm của
phố huyện và qua hình ảnh của những con người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta thấy
được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó cho những con
người lao động nghèo khổ.


BÀI SỐ 6:

Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Thạch Lam, với giọng văn
điềm tĩnh, sâu lắng, Hai đứa trẻ đã để lại trong lòng độc giả những ấn tượng sâu sắc. Câu
chuyện miêu tả về bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối, nói lên cái
nghèo khổ của người dân trong xã hội lúc bấy giờ. Tuy sống trong nghèo khổ nhưng họ

ln mơ ước có cuộc sống tươi đẹp hơn trong tương lai.
Một trong những nét đặc trưng của truyện Hai đứa trẻ là truyện ngắn khơng có cốt
truyện. “Hai đứa trẻ” ngồi trên chiếc chõng nát trước cửa hàng của một phố huyện,
ngắm cảnh phố xá lúc chiều muộn đi vào đêm; tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em
vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm đi qua, rồi mới khép cửa hàng đi ngủ... Với lối
miêu tả chầm chậm, giản dị, khơng có những biến cố, nhưng Hai đứa trẻ không hề nhạt
nhẽo, vô vị, mà trái lại, rất thấm thía, nhiều dư vị, dư vang.
Câu chuyện bắt đầu với khung cảnh chiều muộn ở một miền quê nghèo, “một
chiều êm ả như ru”. Rồi màn đêm dần dần buông xuống, “một đêm mùa hạ êm như
nhung và thống qua gió mát...”. Dưới ngịi bút tinh tế và nặng lịng gắn bó với q
hương của Thạch Lam, “bức tranh quê” ở đây rất bình dị mà rất đỗi thân thiết và nên thơ.
Thạch Lam đã vẽ lên bức tranh đời sống phố huyện qua cái nhìn, cái cẩm nhận của
một tâm hồn ngây thơ bé nhỏ là bé Liên, đó là cách xây dựng truyện tinh tế, sắc sảo, để
người đọc thấy được cuộc sống chân thực hơn, sống động hơn. Chính bức tranh đời sống
vừa rất mực chân thực vừa thấm đượm cảm xúc trữ tình này đã gây nên cảm giác buồn
thương day dứt là cảm giác chủ yếu của người đọc sau khi gấp trang sách. Ý nghĩa tư
tưởng của truyện chủ yếu toát lên từ bức tránh đời sống, phố huyện nghèo đó.
Buổi chiều thường gợi cho người ta buồn và có nhiều suy tư, hai đứa trẻ đứng
trước cảnh chiều tàn đó, cũng có những cảm nhận về cuộc sống xung quanh mình. Có
cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ “đã vãn từ lâu”. “Người về hết và tiếng ồn
ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn càng phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện


nghèo: “Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía”. Và cái mùi vị
riêng rất quen thuộc mà chị em Liên có cảm tưởng là “mùi riêng của đất của quê hương
này” - chính là mùi vị của nghèo khổ, lầm than: mùi âm ẩm bốc lên lẫn mùi cát bụi, rác
rưởi... của cái chợ nghèo.
Hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác, của phố huyện hiện
dần ra, trước khung cảnh của phố : “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom
trên mặt đất đi lại tìm tòi, nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có

thể dùng được của các người bán hàng để lại”; mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng, xách diếu
đóm ra dọn hàng, “ngày chị đi mị cua bắt tép, tối đến chị mới dọn cái hàng nước này
(...) chị chả kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối đến
nửa đêm”, nhưng “Ơi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì!”; “gia đình bác Xẩm ngồi
trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”, “thằng con bò ra đất, nghịch nhặt
những rác bẩn vùi trong cát bên đường...”. Và hai chị em Liên, với “cửa hàng tạp hóa
nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở thì thầy Liên mất việc”. Rồi
hình ảnh bà cụ Thi hơi điên, mua rượu uống và cười khanh khách, lảo đảo đi vào bóng
tối... Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ.
Tại cửa hàng nhà mình, với ánh đèn leo lét, Liên ngắm nhìn mọi vật xung quanh
và cảm nhận về bức tranh đời sống tại phố huyện của mình. Khắp phố huyện lúc này chỉ
còn ngọn đèn con của chị Tí, cái bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn Hoa Kì vặn nhỏ của
Liên..., tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù. Những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố
huyện trở nên sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối càng thêm mịt mùng, dày đặc mà
thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình
ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí “chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ” ấy trở đi
trở lại tới 7 lần trong truyện, là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những
kiếp sống nhỏ nhoi leo lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời. Truyện kết
thúc cũng với hình ảnh ngọn đèn tù mù của chị Tí đi vào giấc ngủ chập chờn của cô bé
Liên.


Khơng phải chỉ có chiều tối hơm nay mọi vật mới diễn ra buồn như vậy, mà cảnh
đó, diễn ra hàng ngày, nhưng hôm nay hai chị em Liên mới thể hiện cảm nhận của mình.
Bởi vì chiều tối nào cũng vậy, mẹ con chị Tí lại lễ mễ dọn hàng; chị em Liên lại đếm
những phong thuốc lào, những bánh xà phịng, tính tiền hàng và tối nào cũng “ngồi trên
chõng tre dưới gốc bàng” để ngắm nhìn phong cảnh ngoài phố; tối nào bác phở Siêu
cũng gánh hàng ra và thổi lửa, bác Xẩm cũng rải chiếu và bày cái thau sắt... Mọi người
lại chờ đợi những điều mọi ngày họ vẫn chờ đợi: mấy chú lính trong huyện hay người
nhà cụ thừa, cụ lục đi gọi người đánh tổ tôm rẽ vào uống nước, hút thuốc... Nhịp sống ấy

cứ lặp đi lặp lại ngày này sang tháng khác, đơn điệu, uể oải, buồn tẻ. Nhưng biết làm sao
được! Không phải những con người khốn khổ ấy không hi vọng - khơng hi vọng thì làm
sao sống được? “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự
sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Có điều, sự mong đợi ấy thật tội nghiệp: “một cái gì
tươi sáng” ấy là “một cái gì?” thật mơ hồ; và biết đến bao giờ nó mới đến?
Tuy còn là một đứa trẻ ngây thơ, nhưng Liên đã hiểu được cuộc sống nơi đây thật
là nghèo túng, em đã biết so sánh với cuộc sống đủ đầy nơi phố thị đơng đúc. Điều đó thể
hiện khát vọng với một cuộc sống tươi đẹp hơn trong tâm hồn đứa trẻ thơ ngây ấy. Chính
vì khao khát được thốt khỏi cảnh tù đọng, mù tối ấy mà Liên đêm đêm cố thức để đợi
xem chuyến tàu đêm đi qua. Chuyến tàu đêm rầm rộ với “cái toa đèn sáng trưng” là hình
ảnh cụ thể của “một cái gì tươi sáng” mà cô mong đợi. “Con tàu như đã đem một chút
thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của
ngọn đèn chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”.
Bức tranh về đời sống của phố huyện nghèo hiện lên trong con mắt của Liên thật
chân thực. Thể hiện niềm cảm thông với những con người lao động nghèo khổ, họ khơng
tìm cho mình được lối thốt, phải chịu cảnh nghèo khó triền miên, bế tắc, tác giả đã khắc
họa lên hình ảnh phố huyện nghèo, miêu tả tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ.


BÀI SỐ 7:

Thạch Lam từng nói: “Mỗi tác phẩm của nhà văn đều có một phần nhà văn trong
đấy”. Dù người viết trong các sáng tác có cố gắng che dấu cái chủ quan của mình đằng
sau những trang văn miêu tả hiện thực khách quan, thì ít hay nhiều, những sáng tác ấy
đều mang bóng của nhà văn. Phải thế chăng mà sau những truyện ngắn của Thạch Lam,
ta từng bắt gặp một con người của ông với tâm hồn đôn hậu, tinh tế, hết sức nhạy cảm
trước mọi biến thái của tạo vật và lòng người. Chúng ta sẽ thấy rõ điều đó qua bức tranh
phố huyện nghèo và diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên trong truyện ngắn “Hai đứa
trẻ”.
Thạch Lam 1910–1942 tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn

Tường Lân. Ông sinh và mất ở Hà Nội, nhưng khi còn ấu thơ có một thời gian ở Cẩm
Giàng, Hải Dương. Ơng là em ruột hai nhà văn Nhất Linh và Hoàng Đạo, và là một trong
những cây bút chủ chốt của “Tự lực Văn Đoàn”.Thạch Lam là một cây bút truyện ngắn
tài hoa, xuất sắc. Truyện của ơng thường khơng có cốt truyện đặc biệt. Mỗi truyện là một
bài thơ trữ tình đượm buồn. Ông thường đi sâu khai thác đời sống nội tâm nhân vật với
những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh, tinh tế. Hai yếu tố “Hiện thực và lãng
mạn, tự sự và trữ tình thi vị” ln luôn đan cài, xen kẽ vào nhau, tạo nên nét đặc thù, đặc
sắc khó lẫn trong trong phong cách nghệ thuật của ông, “Hai đứa trẻ” rút từ tập truyện
“Nắng trong vườn” – 1938 là tác phẩm xuất sắc tiêu biểu cho đời văn và phong cách
Thạch Lam.
I. Một bức tranh quê đầy chất thơ.
“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn đơn giản hầu như khơng có chuyện. Rất khó tìm
được ở đây những sự kiện mang tính chất kịch, bi hài như sáng tác của Nguyễn Công
Hoan, những cuộc vật lộn, đau đớn, giằng xé về mặt nội tâm như những trang văn của
Nam Cao. Đọc truyện Thạch Lam, người ta chỉ cảm nhận bằng tâm hồn, bằng tất cả các
giác quan, chứ ít khi có thể tóm tắt mạch lạc toàn bộ diễn biến của cốt chuyện. Truyện chỉ


kể lại hình ảnh hai đứa trẻ ngồi trên chiếc chõng nát ngắm nhìn phố xá chìm dần vào đêm
tối, tuy “đã buồn ngủ ríu cả mắt” nhưng vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm đấy ánh sáng
vụt qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Cậu chuyện đơn sơ như vậy sẽ làm thất vọng cho
những ai muốn đi tìm cốt chuyện giàu kịch tính với những chi tiết li kì, lắt léo.Tuy nhiên,
dưới ngịi bút Thạch Lam, “Hai đứa trẻ” không hề nhạt nhẽo, trái lại rất ám ảnh, thấm
thía, đầy dư vị với cảm xúc buồn thương và giọng thủ thỉ trầm lắng, thiết tha. Tác phẩm
mở đầu bằng một bức tranh chiều quê phố huyện sinh động như một bài thơ về quê
hương quen thuộc mà rất thi vị: “Chiều, chiều rồi! Một chiều êm ả như ru”. Lời văn rất
nhẹ nhàng, nhịp văn êm ái đã đưa con người vào thế giới thanh bình của cảnh vật. Ngịi
bút tinh tế và tạo hình của Thạch Lam chỉ chấm phá vài nét mà đã vẽ được một bức tranh
rất sinh động với đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị “phương Tây đỏ rực…và
những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mắt đen lại và cắt

hình rõ rệt trên nền trời”. Giữa những hình ảnh sinh động của cảnh vật vang lên âm
thanh “tiếng trống thu không” gọi buổi chiều xen lẫn với tiếng “ếch nhái kêu ran ngồi
đồng theo làn gió nhẹ đưa vào” “muỗi bắt đầu vo ve”, “đom đóm bay nhấp nháy”, “hoa
bàng rụng khẽ”… chỉ bằng mấy câu văn ngắn gọn, Thạch Lam đã đưa độc giả trở về
khung cảnh đầy linh hồn êm ả, thị vị mà đượm buồn, thân thiết của quê hương, làng mạc,
của nơng thơn Việt Nam mn đời. Nó khơi gợi trong tâm hồn con người một tình cảm
gắn bó thiết tha với miền quê lam lũ. Nơi ấy khơng chỉ có những cảnh sắc thanh bình, thơ
mộng, êm đềm mà cịn có cả những mảng đời lam lũ, tăm tối.
II. Tâm trạng của chị em Liên trước bức tranh chân thực về đời sống phố huyện
nghèo lúc chiều tối
Vì thế “Hai đứa trẻ” ngồi việc mở ra bức tranh thiên nhiên, còn đi sâu vào tái
hiện bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo và chỉ qua bức tranh đó, ngịi bút
nhân đạo, cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của Thạch Lam mới có dịp phát huy đầy đủ
nhất.Cuộc sống con người phố huyện trong thế giới “chìm chìm, nhạt nhạt” và vắng lặng
của buổi chiều tối được dựng lên bằng những nét kí hoạ rất đỗi chân thực và được nhà
văn gửi gắm qua cái nhìn ngây thơ của chị em Liên. Trong con mắt của hai đứa trẻ, từ


cảnh vật cho đến cảnh sinh hoạt nơi phố huyện, đâu đâu cũng gợi lên sự tàn tạ, quẩn
quanh, bế tắc.
1. Mở đầu là khung cảnh ngày tàn.
Sự tàn tạ được cảm nhận bắt đầu bằng một hình ảnh: một buổi chiều tà, khoảng
thời gian vốn dễ khơi dậy nhiều nỗi niềm trong tâm hồn con người. Buổi chiều quê lặng
lẽ khép lại bằng “tiếng trống thu không” báo hiệu ngày tàn. Những ánh sáng yếu ớt của
thiên nhiên rồi cũng tắt dần. Thời điểm hồng hơn đã trở thành khoảng thời gian đặc biệt
gắn bó với văn chương. Khoảnh khắc giao thoa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống
náo nhiệt và sự yên lặng lụi tàn luôn gây cho lịng người nỗi buồn thấm thía. Xn Diệu,
thi sĩ của những vần thơ xôn xao, rạo rực xuân tình, đắm say cảnh sắc cũng đã hơn một
lần cảm thấy “Khơng gì buồn bằng những buổi chiều - Mà ánh sáng hồ cùng bóng
tối”… “Khơng gian xám tưởng sắp tan thành lệ”.

2. Cảnh chợ cũng tàn.
Cái buồn của hình ảnh chiều tàn ở đây dường như được cộng hưởng, được nhân
lên với hình ảnh của một buổi chợ tàn: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và
tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi: vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía…”.
Khơng khí náo nhiệt, nhộn nhịp người mua kẻ bán đã lắng xuống, chỉ cịn lại sự trống
vắng quạnh hiu. Có gì vui hơn là cảnh chợ đơng, có gì buồn hơn là cảnh chợ tàn: Khung
cảnh “Chợ tết” trong thơ Đồn Văn Cừ náo nhiệt là thế mà cũng khơng cứu vãn được
cảnh tàn tạ, hiu hắt, khi “Những người quê lũ lượt trở ra về": "Ánh dương vàng trên cỏ
kéo lê thê - Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”
Giữa khung cảnh chợ tàn ấy, tâm hồn nhạy cảm của Liên đã nhận ra thứ mùi vị rất
riêng của xứ sở. “Cái mùi cát bụi quen thuộc quá” mà Liên tưởng “là mùi riêng của đất,
của quê hương này”chính là mùi vị quen thuộc của nghèo khổ, lầm than, bế tắc. Hiện
thực cuộc sống trong tác phẩm của Thạch Lam không phải là sự cày xới ngổn ngang
những mảnh đời đau thương, bi đát, quằn quại như cuộc đời nhân vật của Nam Cao, Ngô


×