Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Sử dụng phương pháp tự học trong dạy học phần công dân với đạo đức môn giáo dục công dân lớp 10 ở trường THPT tam dương, tỉnh vĩnh phúc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.16 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ HÀ NINH

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP Tự HỌC TRONG
DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC”
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
Ở TRƯỜNG THPT TAM DƯƠNG,
TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân
ở trường Trung học phổ thông

Người hướng dẫn khoa học:
ThS. Nguyễn Quang Thuận

HÀ NỘI, 2016


Trong quá trình thực hiện khóa luận, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, sự động
viên, hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và chu đáo của thày giáo ThS. Nguyễn Quang
Thuận và những ý kiến đóng góp của các thầy cô trong khoa Giáo dục Chính
trị.
Tôi xin bày tỏ lòng biết om chân thành và sâu sắc tới các thầy giáo, cô
giáo trong khoa Giáo dục Chính trị, đặc biệt là sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình
của thầy giáo ThS. Nguyễn Quang Thuận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo, các em học sinh
trường THPT Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn
thành khóa luận của mình.
Do điều kiện thời gian, năng lực còn hạn chế nên khóa luận không tránh


khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy
cô và các bạn để khóa luận của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, 5 tháng 5 năm 2016.
Sinh viên


Nguyễn Thị Hà Ninh
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thầy giáo,
ThS. Nguyễn Quang Thuận. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Không trùng lặp với bất cứ công
trình nghiên cứu nào.
Trong quá trình làm khóa luận, tôi đã kế thừa những thành tựu của các nhà
khoa học với sự trân trọng và biết ơn.

Hà Nội, 5 tháng 5 năm 2016.
Sinh viên

Nguyễn Thị Hà Ninh


HS

: Học sinh

GV

: Giáo viên

GDCD


: Giáo dục công dân
: Giáo dục và Đào
tạo
: Sách giáo khoa
: Trung học phổ
thông

GD&ĐT
SGK
THPT


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng. Nó đòi hỏi mọi người
phải vận động để theo kịp sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy mà tinh thần tự học
có vai trò vô cùng quan trọng. Tự học được xem là một phương pháp đã trở thành
quen thuộc đối với mỗi chúng ta, là một truyền thống của người Việt.
Tại điều 5, Luật Giáo dục 2005 quy định: “Phương pháp giáo dục phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho
ngưòi học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập, ý chí vươn
lên”. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng trong việc đào tạo
ra nguồn nhân lực có đủ phẩm chất, năng lực, có tư duy độc lập, năng động, sáng tạo
để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Tự học chính là con đường tích cực để phát triển nội lực của mỗi cá nhân, là
động lực chính của quá trình giáo dục- đào tạo.
Thực hiện chỉ đạo trên, các trường THPT đã phát động phong trào sử dụng
phương pháp dạy học nhằm rèn luyện năng lực tự học cho học sinh. Từ phương
pháp lấy người dạy làm trung tâm chuyển sang phương pháp lấy ngưòi học làm

trung tâm, phương pháp dạy học sang phương pháp nghiên cứu.Tuy nhiên, ttên thực
tế, học sinh còn gặp khá nhiều khó khăn trong việc tự học. Vấn đề áp dụng phương
pháp tự học truyền thống đã và đang được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, các
giáo viên ở trường THPT Tam Dương, Vĩnh Phúc. Neu sử dụng những phương pháp
dạy học tích cực và các kỹ năng vào hướng dẫn tự học thì sẽ phát huy được những
ưu điểm và khắc phục được những hạn chế vốn có của phương pháp này. Vì vậy, tôi
chọn đề tài: “Sử dụng phương pháp tự học trong dạy học phần “Công dân với đạo
đức” môn Guío dục công dân lớp 10 ở trường THPT Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc
hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong lịch sử hình thành và phát triển của nền giáo dục, tự học là vấn đề được
5


rất nhiều nhà giáo dục quan tâm, nghiên cứu từ lâu cả về mặt lý luận và thực tiễn,
nhằm phát huy được học tập tích cực của người học.vấn đề tự học tự đào tạo của
ngưòi học đã được Đảng, Nhà nước quan tâm quán triệt sâu sắc từ nhiều năm qua.
Trên thế giới, ngay từ thời cổ đại đã cónhiều tác giả nghiên cứu về những vấn
đề liên quan đến việc tự học. Montaigne là một trong những nhà văn có ảnh hưởng
nhất của thời kỳ Phục Hưng Pháp, ông đã từng khuyên rằng: “Tốt hơn là ông thầy
để cho học trò tự học, tự đi lên phía trước, nhận xét bước đi của họ, đồng thời giảm
bớt tốc độ của thầy cho phù hợp với sức học của trò ”.N.A. Rubakin là nhà bác học,
nhà văn học có tài người Nga,trong cuốn sách “Tự học thể nào ” của ông đã tổng
kết toàn bộ kinh nghiệm quý báu từ cuộc đời lao động sách vở cần mẫn của ông. Ở
tác phẩm này, ông nêu lên cơ sở khoa học của việc tự học.
Gần đây, các nước phương Tây nổi lên cuộc cách mạng tìm phương pháp giáo
dục mới dựa trên cơ sở tiếp cận “Lấy người học làm trung tâm” để làm sao phát huy
hết năng lực của người học. Tiêu biểu là J.Deway- nhà triết học, tâm lý học và nhà
cải cách giáo dục người Mỹ, ông cho rằng: Học sinh là mặt trời, xung quanh nó quy
tụ mọi phương diện giáo dục.

Ở Việt Nam, các nhà khoa học, nhà giáo đã dành nhiều thời gian nghiên cứu
vấn đề tự học của học sinh, sinh viên như: Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức,
Nguyễn Nghĩa Dân, Nguyễn Cảnh Toàn, Trần Thị Mai Phương, Dương Thị Thúy
Nga... Một số sách và luận văn cũng đề cập đến vấn đề tự học ở nhiều khía cạnh
khác nhau, tiêu biểu là: PGS. TS Nguyễn Ngọc Bảo trong cuốn sách “Phát triển
tính tích cực, tính tự học của học sinh trong quá trình dạy học”; Luận văn thạc sĩ
của tác giả Cao Đức Sáu “Hướng dẫn phương pháp tự học nhằm nâng cao chất
lượng dạy học môn Kinh tể chính trị Mác - Lênin ở trường cao đẳng Sư phạm Kiên
Giang
Từ nhiều góc độ, các tác giả đã nghiên cứu, phân tích thực trạng của hoạt động
tự học và chỉ ra vai trò, tàm quan trọng của việc tiến hành hoạt động tự học đối với

6


người học. Tác giả đã tham khảo, kế thừa những giá trị của các công trình nghiên
cứu trên và lấy đó làm cơ sở để đi sâu nghiên cứu đề tài của mình. Từ đó, tác giả
tiến hành phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc sử dụng phương pháp tự
học trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD ở trường THPT Tam
Dương, Vĩnh Phúc.
3. Mục đích,nhiệm vụ của khóa luận
3.1.
-

Mục đích nghiên cứu

Mục đích của khóa luận nhằm tăng cường hiệu quả sử dụngphương pháp tự
học trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trường
THPT Tam Dương, Vĩnh Phúc góp phần phát huy tính tích cực học tập của
HS.

3.2.

-

Nhiệm vụ nghiên cứu

Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích trên khóa luận thực hiện những
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nêu được cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễncủa việc sử dụng phương

pháp tự học và phân tích, sự cần thiết phải tổ chức hoạt động tự học phần “Công dân
với đạo đức” môn GDCD lớp 10 cho HS.
Thứ hai, Xây dựng quy trình sử dụng phương pháp tự học trong dạy học phần
“Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10.
Thứ ba, thực nghiệm để từ đó thấy được hiệu quả của việc sử dụng phương
pháp tự học trong dạy học phàn “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở
trường THPT Tam Dương, Vĩnh Phúc.
4. Đổi tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu việc sử dụng phương pháp tự học trong dạy học phần “Công dân
với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Tam Dương, Vĩnh Phúc nhằm
nâng cao tính chủ động tích cực trong học tập cho HS.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu
7



Khóa luận giới hạn nghiên cứu việc sử dụng phương pháp tự học trong dạy học
phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD của HS lớp 10 trong học kì II, năm học
2015-2016 ở trường THPT Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: phương pháp nghiên cứu lý thuyết được sử dụng ở chương 1, phương pháp
nghiên cứu thực tiễn được sử dụng ở chương 2 và chương 3.
6. Ý nghĩa của khóa luận
Với kết quả nghiên cứu đạt được, khóa luận tiếp tục khẳng định tính khả thi
đúng đắn của việc sử dụng phương pháp tự học trong dạy học môn GDCD. Đồng
thời xác định quy trình và điều kiện cho việc sử dụng phương pháp tự học trong dạy
học phàn “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Tam Dương,
Vĩnh Phúc.
7. Kết cấu của khóa luân
Ngoài phàn mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận gồm 3
chương 9 tiết.
Chương 1
Cơ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC sử DỤNG PHƯƠNG PHÁP Tự HỌC
TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN GDCD
LỚP 10 Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY
1.1.

Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp tự học trong dạy học

phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lóp 10
1.1.1. Khái niệm về phương pháp
Trong mọi lĩnh vực cuộc sống của con người, vấn đề phương pháp bao giờ
cũng được đặt ra để xem xét, qua chọn lựa để sử dụng, nhằm thực hiện những ý

tưởng, những mục tiêu đã định. Việc lựa chọn phương pháp đúng đắn rất quan

8


trọng, nó sẽ là tiền đề tư tưởng thật vững chắc giúp con người có những hành động
đúng đắn. Do đó, phương pháp là một trong những yếu tố quyết định thành công hay
thất bại trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới.
Các nhà kinh điển đã có những quan điểm khác nhau về phương pháp.
Ph.Bêcơn cho rằng phương pháp như “sợi chỉ dẫn đường”; Phương pháp như “ngọn
đèn soi đường cho khách lữ hành trong đêm tối”. R.Đề-các tơ khi đề cập đến
phương pháp ông nhấn mạnh: “thiếu phương pháp thì người tài cũng có lỗi, có
phương pháp thì người tầm thường cũng làm được việc phi thường”. Hêghen coi
phương pháp như “linh hồn của đối tượng”. Thuật ngữ phương pháp xuất phát từ
thuật ngữ Hy Lạp “Methdos” có nghĩa là con đường, cách thức, biện pháp, phương
tiện làm việc... để đạt mục đích. Trong lĩnh vực GD&ĐT, phương pháp được đề cập
là phương pháp dạy học. Với góc độ của khoa học sư phạm, nó thực hiện nhiệm vụ
giảng dạy và truyền đạt tri thức cho người học.
Phương pháp là một phạm trù gắn với hoạt động thực tiễn của con ngưòi. Nó
không phải là một nguyên tắc có sẵn, bất biến mà nó phụ thuộc vào đối tượng và
nhiệm vụ đặt ra, chủ thể phải nghiên cứu đối tượng và mục đích càn đạt tói một cách
khách quan. Trên cơ sở đó, chủ thể mới xác định được phương tiện, công cụ và biện
pháp gì cho thích họp để đạt hiệu quả cao.
Như vậy, phương pháp là toàn bộ những cách thức với thực chất là một hệ
thống các nguyên tắc xuất phát từ các quy luật tồn tại và vận động của đối tượng,
khách thể đã nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người, nhằm tác động
vào đối tượng để thực hiện mục đích đã định.
1.1.2. Phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học là một hệ thống những hành động có mục đích của GV
nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của HS, đảm bảo HS lĩnh hội nội

dung học vấn. Hay nói cách khác, phương pháp dạy học là những cách thức hoạt
động tương tác, được điều chỉnh của GV và HS hướng vào giải quyết các nhiệm vụ

9


giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong quá trình dạy học.
Trong sách: “Phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân ở trường trung học
phổ thông” tác giả Đinh Văn Đức đã khẳng định: “Phương pháp dạy học được hiểu
là cách thức hoạt động, phối họp thống nhất của GV và HS nhằm thực hiện tối ưu
mục đích và nhiệm vụ dạy học”. [8;13]
Phương pháp dạy học là một khái niệm phức họp, được thể hiện ở nhiều quan
niệm khác nhau, nhưng tất cả các quan niệm đó đều thể hiện rằng: Phương pháp dạy
học luôn gắn liền với mục đích và nội dung dạy học.
Phương pháp dạy học là một trong những thành tố cơ bản của quá trình dạy
học, nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoàn thành mục tiêu, nội dung, cũng như đảm
bảo hiệu quả chất lượng dạy học.
Phương pháp dạy học cũng là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá
trình dạy học. Phương pháp có ý nghĩa là con đường để đạt mục đích, theo đó,
phương pháp dạy học là con đường để đạt mục đích dạy học.
Phương pháp dạy học là một khái niệm phức họp, được thể hiện ở nhiều quan
niệm khác nhau, nhưng tất cả các quan niệm đều thể hiện rằng: Phương pháp dạy
học luôn gắn liền với mục đích và nội dung dạy học, phương pháp dạy học luôn gắn
liền với mục đích và nội dung dạy học, phương pháp dạy học phục vụ cho từng môn
học, bài học, tiết học. Ở mỗi bài cụ thể, GV căn cứ vào nội dung tri thức, đối tượng
người học để sử dụng phương pháp, phương tiện dạy học cho phù họp. Tuy nhiên,
khi nghiên cứu về phương pháp dạy học đều phải dựa trên một số đặc trung cơ bản
sau:
-


Phương pháp dạy học là sự thống nhất giữa hai phương pháp là: phương pháp
dạy và phương pháp học.

-

Phương pháp dạy học thực hiện sự thống nhất các chức năng là: đào tạo và
giáo dục.

-

Phương pháp dạy học được xem xét cả trên cả hai mặt: mặt khách quan và

1
0


mặt chủ quan.
-

Phương pháp dạy học là sự thống nhất của logic nội dung dạy học và logic
tâm lý nhận thức.

-

Phương pháp dạy học là sự thống nhất của cách thức hành động và phương
tiện dạy học.
Từ đặc trưng của phương pháp dạy học, chúng ta thấy rằng, phương pháp dạy

học là một phạm trù tư duy khoa học, một nghệ thuật sư phạm có tổ chức, có định
hướng, có sự phù hợp giữa nội dung và hình thức. Mỗi bài dạy cụ thể, tùy từng nội

dung tri thức phải có phương pháp dạy học, phương tiện dạy học và các thao tác
thích hợp.
Như vậy, phương pháp dạy học là tổng hợp các cách thức tác động của GV
trong quá trình dạy học nhằm vào người học và quá trình học tập để gây ảnh hưởng
thuận lợi cho việc học theo mục đích hay nguyên tắc đã định. Phương pháp dạy học
bao gồm sự thống nhất chặt chẽ cả phương pháp dạy và phương pháp học.
1.1.3. Phương pháp tự học
* Khái niệm tự học:
Tự học luôn gắn liền với hoạt động học tập, là việc phổ biến, được nhiều bậc
hiền triết và các nhà giáo dục trên thế giới quan tâm. Nhà tâm lý học N.Arubakin
viết: “Tự tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học”. Theo tác giả Nguyễn Văn Đạo: “Tự
học phải là công việc tự giác của mỗi người do nhận thức được đúng vai trò quyết
định của nó đến sự tích lũy kiến thức cho bản thân, cho chất lượng công việc mình
đảm nhiệm, sự tiến bộ của xã hội”.
Giáo sưTiến sĩ Nguyễn Cảnh Toàn đã đưa ra quan điểm khá toàn diện về tự
học: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát,
so sánh, phân tích, tổng họp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng
các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan
(như tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì,

1
1


nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi...) để
chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở
hữu của mình”.
Tự học, tính tự giác trong học tập của HS là hoạt động thường xuyên, liên tục
của HS trong quá trình học tập. Nhưng để nâng cao chất lượng, hiệu quả thật sự, một
yêu cầu tất yếu đặt ra là hoạt động tự học cần phải được sắp xếp và tổ chức một cách

đúng đắn, khoa học, người giáo viên cần quan tâm tổ chức hoạt động hoạt động tự
học cho HS.
Từ những quan điểm trên, có thể hiểu: Tự học là quá trình cá nhân người học
tự giác, tích cực, độc lập chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sổng
bằng hành động của chính mình nhằm đạt được mục đích nhất định.
Phương pháp tự học là sắp xếp, thiết kế các biện pháp tiến hành hoạt động, là
việc sử dụng đối tượng và các phương tiện hỗ trợ nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Hướng dẫn hoạt động là công việc có vai trò rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp
tới kết quả của hoạt động.
Trong hoạt động dạy học, hướng dẫn, tổ chức hoạt động là một công việc càn
thiết ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả học tập, đó là cách thiết kế, sắp xếp các
biện pháp hoạt động phối hợp chung giữa GV và HS trong học tập trên lớp và ở nhà,
chính khóa và ngoại khóa theo quy chế học tập, dưới sự chỉ đạo của nhà trường
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động học tập.
Đối với HS, phương pháp tự học là cách thức hoạt động tích cực, chủ động, tự
lực và sáng tạo nhằm thực hiện có chất lượng, hiệu quả mục đích và nhiệm vụ học
tập.
Đối với GV, vận dụng phương pháp tự học cho HS là quá trình thiết kế, tự sắp
xếp các biện pháp tổ chức giảng dạy nhằm tiến hành hướng dẫn, điều khiển, chỉ đạo
cách tự thiết kế, tự sắp xếp các biện pháp hoạt động tự học, giúp HS phát huy tới
mức cao nhất năng lực tự học của mình.

1
2


Như vậy, tự học liên quan trực tiếp với yêu cầu của GV, người học được GV
định hướng về nội dung, hướng dẫn về phương pháp và tổ chức quá trình lĩnh hội tri
thức.
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau:

Hình thức thứ nhất: cá nhân này tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập
không có sách và sự hướng dẫn của giáo viên. Kết quả của quá trình tự học đi đến sự
sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học mới, đây là hình thức thể hiện đỉnh
cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này được dựa trên nền tảng một niềm khao
khát, say mê khám phá tri thức mói và một vốn tri thức sâu rộng. Vói hình thức tự
học này, người học không có thầy, không có sách mà chỉ qua rèn luyện trong thực
tiễn vẫn có thể tổ chức hiệu quả hoạt động học tập của mình.
Hình thức thứ hai: Tự học có sách nhưng không có GV trực tiếp hướng dẫn. Ở
hình thức này, có thể xảy ra hai trường hợp: tự học có sách, không có hướng dẫn của
GV và trường họp thứ hai là có sách, được giáo viên hướng dẫn từ xa.
Đối với trường hợp tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của GV, người
học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong sách qua đó phát triển về tư duy. Tự
học với sách là mục tiêu mà mọi người học càn đạt để hướng đến xây dựng xã hội
học tập suốt đời.
Đối với trường họp tự học có sách và được GV hướng dẫn từ xa, dù giáo viên
ở xa nhưng vẫn có sự trao đổi thông tin giữa GV và HS bằng các phưomg tiện thông
tin dưới dạng phản ánh, giải đáp thắc mắc, làm bài kiểm tra...
Hình thức thứ ba: Tự học có sách, có GV hướng dẫn trực tiếp một số tiết, còn
chủ yếu là HS về nhà tự học, tự nghiên cứu. Trong quá trình học tập trên lớp, giáo
viên đóng vai trò là người hướng dẫn, thiết kế, tổ chức và tạo điều kiện thuận lợi
nhất để học sinh tự chủ động, sáng tạo, chiếm lĩnh tri thức.
Trong quá trình tự học, GV trực tiếp hướng dẫn, HS là chủ thể, phải chủ động
phát huy tính tự giác, tích cực để hoàn thành những yêu cầu, bài tập do GV đưa ra

1
3


và những hoạt động học tập khác của cá nhân.
* Vai trò và ý nghĩa của tự học:

Trong quá trình dạy học, GV giữ vai trò là người tổ chức, điều kiển, hướng dẫn
và chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh. Nhưng dù giáo viên có kiến thức tốt,
phương pháp giảng dạy hay đến đâu nhưng HS không chủ động tiếp thu kiến thức,
không đầu tư thời gian, không có kế hoạch và phương pháp cho việc học tập... thì
việc học tập khó có thể đạt kết quả cao. Hoạt động “dạy” của GV dù quan trọng
nhưng là yếu tố ngoại lực, là yếu tố hỗ trợ, tác động, thúc đẩy và tạo điều kiện cho
HS tiếp thu tri thức, tự phát triển và trưởng thành. Năng lực tự học của HS dù còn ở
giai đoạn đang phát triển vẫn là nội lực quyết định sự phát triển bản thân người học.
Đó là quy luật phát triển của sự vật.
Vì vậy có thể khẳng định, hoạt động tự học luôn giữ một vị trí rất quan trọng
trong quá trình học tập của ngưòi học, là con đường giúp cho người học chiếm lĩnh
tri thức, thành công trong học vấn. Ngưòi học quyết định chất lường và hiệu quả của
việc học mà không phải là ngưòi dạy.
Tự học là hoạt động có mục đích của con người, là điều cần thiết trong quá
trình tiếp nhận tri thức. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học có vai trò đặc biệt quan
họng, là một trong những yếu tố quyết định tạo nên trí tuệ của Người. Người cho
rằng tự học có vai trò đặc biệt quan trọng và không thể thay thế: “Lấy tự học làm
cốt”, cốt ở đây có thể hiểu là cốt yếu, là chủ chốt, là bộ khung, là cái sườn, cái cốt
lõi. Như vậy, tự học chính là yếu tố cốt lõi của hoạt động học,là bộ khung, là nội lực
quyết định chất lượng học tập. Các yếu tố khác là ngoại lực. Học mà thiếu tự học thì
chỉ là một cơ thể thiếu xương cốt “lấy tự học làm cốt”. Ngưòi đã miệt mài học tập cả
cuộc đòi, nói đúng hơn là không ngừng tự học.[ll; 312]
Chủ tịch Hồ Chí Minh có một phương pháp tự học rất đáng chú ý và là kinh
nghiệm quý cho chúng ta hiện nay. Chỉ nói riêng việc học ngoại ngữ và học viết báo
của Ngưòi là đủ rõ. Ra đi tìm đường cứu nước, vừa bước chân xuống tàu, Người đã

1
4



tranh thủ học tiếng Pháp ở mọi lúc, mọi nơi có thể, mỗi ngày học mấy từ thật chắc,
ngày nào cũng nhưngày nào, để đến khi sang Pháp, và sau đó, viết báo, viết truyện
ngắn bằng tiếng Pháp.
Người chỉ rõ: Tự học là học một cách tự động. Chính Người đã định nghĩa:
“Tự động là không phải dựa vào ai, là tự mình biết biến báo xoay xở, tự mình biết
thực hành công tác theo nhiều hình thức mói mẻ, phong phú”. Tự học tập tức là học
một cách hoàn toàn tự giác, tự chủ, không đợi ai nhắc nhở, không chờ ai giao nhiệm
vụ. Tự học chính là tự quản lý việc học tập, tự mình chủ động vạch kế hoạch đó một
cách tự giác, tự mình làm chủ thời gian để học và tự mình kiểm tra, đánh giá việc
học của mình.[10; 44]
Tổng Bí thư Đỗ Mười đã có phát biểu khi bàn về vai trò của tự học: “Tự học,
tự đào tạo là con đường phát triển suốt cuộc đời của mỗi người, trong điểu kiện kinh
tế xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau, đó cũng là truyền thống quý báu của ngưòi
Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi
tạo ra được năng lực sáng tạo của ngưòi học khi biến quá trình giáo dục thành quá
trình tự giáo dục. Qui mô của giáo dục được mở rộng khi có phong trào toàn dân tự
học” (Trích thư gửi Hội thảo Khoa học nghiên cứu phát triển tự học, tự đào tạo ngày
6/1/1998).
Ở bậc Trung học phổ thông, HS phải tiếp thu một lượng kiến thức lớn và khó
so với Trung học cơ sở, đặc biệt là với HS lớp mới chuyển cấp (HS lớp 10). Vì vậy,
ngoài thòi gian học trên lớp HS phải tự học, tự nghiên cứu để mở rộng và đào sâu tri
thức. Hoạt động tự học đã giúp rất nhiều cho HS trong quá trình học tập.
Thứ nhất, tự học giúp HS nắm vững tri thức, nâng cao năng lực nhận thức, kỹ
năng kỹ xảo. Hoạt động tự học tạo điều kiện cho học sinh hiểu sâu, mở rộng tri thức,
củng cố, ghi nhớ, vận dụng tri thức vào việc giải quyết các nhiệm vụ học tập, các
vấn đề cuộc sống.
Thứ hai, tự học giúp HS có được hứng thú, thói quen và phương pháp học tập
1
5



thường xuyên để làm phong phú, hoàn thiện thêm vốn hiểu biết của mình, giúp họ
tránh được sự lạc hậu trước sự biến đổi không ngừng của khoa học và công nghệ
trong thời đại ngày nay.
Thứ ba, tự học thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập tạo cho họ có nếp sống
và làm việc khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, lòng say mê
nghiên cứu khoa học.
Thứ tư, nếu bồi dưỡng được ý chí và năng lực tự học càn thiết sẽ khơi dậy được
ở HS tiềm năng sẵn có, tạo nên động lực nội sinh trong quá trình học tập, vượt lên
trên mọi khỏ khăn, trở ngại.
Thứ năm, tự học tiết kiệm được thời gian, giảm sức ép của việc giảng dạy, tăng
cường động cơ học tập... Tự học góp phàn quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục
và đào tạo. Nói như vậy không có ý nghĩa là hạ thấp vai trò của giáo viên, mà dưới
sự tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo của người GV, HS sẽ biết cách tự học, chủ động,
sáng tạo chiếm lĩnh tri thức của nhân loại.
Là những chủ nhân tương lai của đất nước, thế hệ trẻ cần năng động, sáng tạo
có đủ tri thức, năng lực, có khả năng thích ứng với đời sống xã hội. Muốn vậy, thế
hệ trẻ phải có khả năng tự học, tự nghiên cứu, không ngừng nâng cao, hoàn thiện
vốn hiểu biết về văn hóa, khoa học kĩ thuật và hiện đại hóa vốn tri thức của mình để
trở thành người công dân, người lao động với đầy đủ hành trang bước vào cuộc
sống.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng phương pháp tự học trong dạy học phần
“Công dân vói đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Tam Dương, Vĩnh
Phúc
1.2.1. Khái quát về hoạt động dạy-học môn GDCD ở trường THPT Tam
Dương, Vĩnh Phúc
* Vài nét về trường THPT Tam Dương
Đặc điểm tình hình nhà trường: là đơn vị có bề dày lịch sử gần 50 năm xây

1

6


dựng và phát triển, trường được thành lập từ năm 1966, trên cơ sở nhà trường được
đặt tại thị trấn Họp Hòa, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Nhà trường là đơn vị
thi đua, đạt nhiều danh hiệu, bằng khen, giấy khen.
Tình hình giáo dục ở địa phương: đây là đơn vị lá cờ đầu của tỉnh trong cả
thành tích học tập và các hoạt động ngoại khóa. HS chăm ngoan, lễ phép, có tinh
thần học tập, học hỏi, có sức sáng tạo. Công tác phát triển đội ngũ, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ đối với đội ngũ nhà giáo luôn được trường THPT Tam
Dương xác định là nhiệm vụ hàng đàu để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
bền vững, lâu dài. Đen nay, trình độ của cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường
100% đạt chuẩn và trên chuẩn. Nhà trường quan tâm tới những giáo viên mới ra
trường, phân công GV có thâm niên, có năng lực giúp đỡ về chuyên môn, về
phương pháp, nhờ đó GV trẻ nhanh chóng trưởng thành.
Cơ sở vật chất: cơ sở vật chất nhà trường tương đối đầy đủ, có phòng đọc điện
tử cho GV sử dụng làm tài liệu, tham khảo tài liệu và nhập liệu điện tử. Có đầy đủ
phòng học cho các lớp, có phòng máy tính để học sinh thực hành tin học. Nhà
trường có sân trường rộng, đảm bảo cho các hoạt động vui chơi của HS và các hoạt
động tập thể, đồng thời có nhà tập đa năng sử dụng trong các hoạt động thể dục thể
thao trong nhà và biểu diễn văn nghệ.
Đội ngũ GV: Nhà trường có hơn 100 GV cùng viên chức trong trường, các thầy
cô cùng đội ngũ viên chức trong Trường hăng say vói công việc, hòa đồng và luôn
nhiệt tình giúp đỡ đoàn giáo sinh thực tập. Tinh thần đoàn kết trong công việc và
trong các hoạt động tập thể cao, hăng hái nhiệt tình tham gia các sân chơi dành cho
GV.
Hiện nay, Nhà trường có 31 lớp chia làm 3 khối, khối 10, khối 11 và khối 12.
Kết quả học tập của HS: năm học 2014 - 2015, chất lượng giáo dục đạt kết quả cao.
Thi tốt nghiệp THPT đạt 99.76%; học sinh đỗ ĐH, CĐ đạt 68,5% ừong đó HS đạt
điểm từ 24 trở lên có 34 em.


1
7


GV tích cực giảng dạy và giáo dục theo đúng chương trình giáo dục, kế hoạch
dạy học; soạn bài, chuẩn bị thí nghiệm; kiểm tra, đánh giá theo quy định; vào sổ
điểm, ghi học bạ đầy đủ; lên lớp đúng giờ; không tuỳ tiện bỏ giờ, bỏ buổi dạy; quản
lý HS trong các hoạt động do nhà trường tổ chức; coi thi, chấm thi: thi học kỳ, thi
lên lớp, thi tuyển vào lớp đầu cấp, thi tốt nghiệp... Tham gia các họat động sinh hoạt
chuyên môn: họp hội đồng giáo dục, họp tổ chuyên môn, dự giờ, rút kinh nghiệm
giáo dục và giảng dạy HS.
* Hoạt động dạy học môn GDCD ở trường THPT Tam Dương
Trường THPT Tam Dương cũng như tất cả các trường THPT khác trên phạm vi
cả nước, việc dạy học môn GDCD đều theo chương trình chuẩn của Bộ Giáo dục và
Đào tạo.
Thực tế việc giảng dạy hiện nay đối vói môn học này còn nhiều bất cập. Một
mặt, một số GV hoặc chưa thấy hết tàm quan trọng của môn học; hoặc ngại đổi mới
phương pháp dạy học nên đã biến phần lớn các giờ dạy chỉ đơn thuần mang tính lý
luận, xa rời thực tế, trở nên khô khan, nhàm chán; hoặc không phù hợp với tình hình
hiện nay cũng như thực tiễn. Mặt khác, với một tư tưởng đã ăn sâu vào tiềm thức
của các em môn GDCD chỉ là môn phụ nên tự học môn GDCD vói các em là xa lạ
và mới mẻ.
Trường THPT Tam Dương cũng như các trường THPT khác hiện nay đều có
mối quan tâm hàng đầu là vấn đề chuyên môn của các môn học liên quan trực tiếp
định hướng thi tốt nghiệp, cao đẳng, đại học như môn: Toán, Lý, Hóa, Sinh, Văn,
Sử, Địa, Tiếng Anh. Còn các môn cơ sở, mang tính định hướng chính trị, giáo dục
phẩm chất và năng lực khác như môn GDCD thường ít được coi trọng, hoặc chỉ
mang tính chất bổ trợ mà thôi, việc tổ chức ngoại khóa cho môn này còn rất ít. GV
chủ yếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống, dẫn đến chất lượng dạy của

môn GDCD còn chưa cao, từ đó gây tâm lý coi nhẹ bộ môn của HS, dẫn đến hiệu
quả học tập chưa cao.
1.2.2.Thực trạng sử dụng phương pháp tự học trong dạy học phần “Công dân
1
8


với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Tam Dương, Vĩnh Phúc
* Tác giả tiến hành điều tra nhận thức của HS trường THPT Tam Dương về
tầm quan trọng của môn GDCD lớp 10. Việc điều tra được tiến hành trên 146 HS
lớp 10 năm học 2015 - 2016 thuộc các lớp 10A5,10A7,10A8, 10A9.
Bảng 1.1. Nhận
thức
về tầm
quan
Mức
đô• nhân
thức
về trọng
tầm của môn GDCD

STT

quan trọng của môn GDCD

Sổ lượng HS

Tỉ lệ (%)

1


Rất quan trọng

76

52,1

2
3

Quan trọng

31

Bình thường

27

21,2
18,5

4

Không quan trọng

12

8,2

Nhìn vào bảng số liệu, ta có thể dễ dàng nhận thấy phần lớn HS đã có

nhận thức đúng đắn được tầm quan trọng của môn học. Tuy nhiên vẫn còn một
số HS chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn học. Đó cũng là nguyên
nhân gây ảnh hưởng tới chất lượng dạy học môn GDCD.
* Thực tế dạy học đã chứng minh rằng khi HS có hứng thú với môn học
thì thái độ học tập rất nghiêm túc và kết quả học tập thu được rất cao. Vì khi đó
HS tập trung, dồn hết trí lực của mình để tìm hiểu, khám phá tri thức. Tác giả
tiến hành khảo sát về vấn đề này qua bảng số liệu điều tra về hứng thú tự học
môn GDCD, cụ thể là ở học phần “Công dân với đạo đức” lớp 10.
Bảng 1.2. Bảng thể hiện mức độ hứng thú tự học phần “Công dân với đạo

1
9


đức” trong môn GDCD lóp 10
Mức độ hứng thú tự
ST
hoc môn GDCD •
T
1

Rất hứng thú

2
3
4

Tỉ lệ(%)
Sổ lượng HS
17,8


Hứng thú

26
37

Bình thường

81

55,5

2

1,4

Không hứng thú

25,3

Nhìn vào bảng số liệu, ta có thể nhận thấy hứng thú tự học môn GDCD
còn chưa cao, chưa có tính tích cực, chưa tự giác trong việc tự học.
Theo kết quả điều ưa về việc sử dụng phương pháp tự học của GV vào
dạy học cho HS còn chưa cao, cụ thể là teong phàn “Công dân với đạo đức”
môn GDCD lớp 10. GV chủ yếu chỉ yêu cầu HS về học bài cũ và đọc trước bài
mới, việc lập kế hoạch thiết kế bài giảng có sử dụng phương pháp tự học còn
hạn chế.
Thông qua việc điều ưa tìm hiểu về thực ưạng tự học môn GDCD ở trường THPT
Tam Dương, chúng ta có thể nhận thấy được thực tế rằng: phần lớn HS đã nhận
thức được tầm quan ưọng của môn GDCD. Nhưng mức độ hứng thú tự học môn

này còn chưa cao do một phàn các em chưa có phương pháp tự học phù hợp. Vì
vậy, vấn đề đặt ra là GV cần phải có biện pháp hướng dẫn cho HS và có phương
pháp tự học phù họp để đạt được hiệu quả cao, đặc biệt là với môn GDCD.

2
0


Chương 2
QUY TRÌNH SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP Tự HỌC TRONG DẠY HỌC
PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN GDCD LỚP 10 Ở
TRƯỜNG THPT TAM DƯƠNG, VĨNH PHÚC
2.1.

Quy trình thiết kế bài giảng

2.1.1.

Xác đinh muc tiêu bài hoc

m

m

m

Mục tiêu bài học là cái đích hướng tới về kiến thức, kĩ năng và thái độ mà
học sinh cần đạt được sau bài giảng. Đó là cơ sở để giáo viên lựa chọn phương
pháp, phương tiện và thiết kế các biện pháp phù hợp cho hoạt động dạy học.
Trong việc sử dụng phương pháp tự học ương dạy học phần “Công dân với đạo

đức” môn GDCD, GV cần phải hiểu rõ các tiến trình sau:
Thứ nhất, GV liên hệ với mục tiêu và nhiệm vụ của phần kiến thức, của
bộ môn, của nhà trường để xây dựng mục tiêu cho bài học.
Căn cứ vào nhiệm vụ và mục tiêu của phần kiến thức, của bộ môn, của
nhà trường về tri thức, kĩ năng, thái độ cần phải đạt được ở HS, GV xác định
mục tiêu cho bài học và hướng hoạt động dạy học vào thực hiện mục tiêu trên.
Thứ hai, GV nghiên cứu nội dung bài học sẽ giúp GV xác định đúng nội
những kiến thức cơ bản, trọng tâm của bài mà HS cần nắm được với các mức
độ kiến thức phải biến, cần biết và có thể biết. Từ đó hướng dẫn HS cách tự học
để đạt được hiểu quả tốt nhất, chủ động tiếp thu kiến thức của bài học.
Thứ ba, GV nghiên cứu đối tượng của quá trình dạy học. Khi hiểu rõ đối
tượng dạy học của mình giữa lớp nhận thức chậm và lớp nhận thức nhanh GV
sẽ xác định được khả năng, trình độ và năng lực nhận thức của các em. Trên cơ
sở đó, xây dựng mục tiêu bài học phù hợp với khả năng tự học của HS và kích
thích năng lực của HS.
2.1.2.

Xác định phương pháp, phương tiện dạy học


về phương pháp dạy học, dựa vào mục tiêu, nội dung bài học, đặc điểm
và điều kiện của người học, GV xác định phương pháp dạy học cho phù hợp.
Trong đó, mục tiêu, nội dung bài học quyết định sự lựa chọn phương pháp dạy
học. Vói nội dung tri thức phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD, GV sử
dụng phương pháp tự học trong dạy học trong dạy học sẽ tạo điều kiện cho HS
có sự chủ động tìm hiểu và lĩnh hội tri thức.

về phương tiện dạy học, đây là cầu nối để người dạy truyền tri thức đến
cho ngưòi học. Các phương tiện dạy học như: trang ảnh, băng hình, máy chiếu,
máy tính.. .có khả năng làm khơi dậy khả năng tự học, dẫn truyền, tăng sức

mạnh tác động của người dạy đến người học, người học tiếp cận đối tượng tri
thức một cách nhanh nhất.

về tài liệu, tài liệu chủ yếu là SGK, sách bài tập, sách tình huống GDCD,
ngoài ra còn tư liệu tham khảo trên mạng, báo chí, truyện đọc...
2.1.3.

Các bước thiết kế bài giảng

Để thiết kế bài học theo phương pháp tự học cho HS, tác giả tiến hành
theo quy trình gồm 3 giai đoạn sau:
* Giai đoạn 1: Trước khi giảng bài mới một tuần GV giới thiệu sách giáo
khoa, tài liệu liên quan đến bài học, giao những nội dung cho HS tự đọc, tự
nghiên cứu, tự giải quyết theo cách của mình. Nội dung chuẩn bị có thể chung
cho cả lớp, cho từng nhóm, từng cá nhân, nhưng cơ bản là giao cho từng nhóm
nhỏ HS vói những đơn vị kiến thức phù hợp. Cụ thể, GV phải:
-

Thiết kế nội dung bài học cho HS tự học, nội dung đó bao gồm lý thuyết
và bài tập.

-

Cung cấp các nguồn tài liệu cần thiết cho bài tập, yêu cầu, hướng dẫn HS
tự đọc, tự nghiên cứu, tự làm bài tập.
Cuối cùng GV phải nêu rõ yêu cầu của mình đối với HS, HS phải làm gì,

làm theo nhóm hay làm cá nhân, có thể nhờ đến GV hoặc bạn bè giúp đỡ hay
không.. .và khi nào phải hoàn thành bài tập.



* Giai đoạn 2: Giai đoạn lên lớp
Giờ lên lớp: Được tiến hành theo các hoạt động vói từng việc cụ thể cho
mỗi hoạt động như sau:
Thứ nhất: Giói thiệu nội dung bài học.
Thứ hai: Xác định mục tiêu, nhiệm vụ học tập.
Việc thực hiện các nhiệm vụ học tập được tiến hành theo phương pháp tự
học trong giờ thảo luận bao gồm các hoạt động sau:
-

Hoạt động 1: Thảo luận nhóm/cả lớp
Một là: GV tổ chức lớp thành các nhóm học tập có nhóm trưởng và có

thể có cả thư ký nên luân phiên nhau) điều khiển thảo luận.
Hai là: Thảo luận nhóm. Yêu cầu cá nhân tranh luận, thảo luận.
Ba là: Nhóm trưởng thống nhất ý kiến để chuẩn bị trinh bày trước lớp.
-

Hoạt động 2: Báo cáo kết quả và tranh luận giữa các nhóm/cả lớp
Một là: Các nhóm trưởng làn lượt lên trình bày kết quả làm việc của nhóm.
Hai là: Ý kiến tranh luận của các cá nhân xung quanh các báo cáo.

-

Hoạt động 3: GV tổng kết, rút ra kết luận.
Một là: GV nhận xét, đánh giá kết quả hoạt động của nhóm, nhận xét và

giải đáp những ý kiến thắc mắc của cá nhân, phân xử những ý kiến đối lập. GV
phải chuẩn bị kiến thức sẵn sàng để đánh giá và giải đáp những ý kiến của HS.
Qua đó GV cũng kiểm tra được việc HS lĩnh hội được bao nhiêu kiến thức.

Hai là: GV tổng kết, kết luận những vấn đề chủ yếu, trọng tâm của bài học.
-

Hoạt động 4: GV giới thiệu nội dung học tập tiếp theo.
Cuối giờ lên lớp GV dành thời gian khoảng 5 phút để củng cố bài học

bằng cách đưa ra một số câu hỏi đánh giá việc thực hiện nội dung học tập trên
(có thể tiến hànhđánh giá ngay sau mỗi nội dung học tập vào cuối hoạt động 3).
Sau đó GV giới thiệu bài học mới của tiết sau và giới thiệu, yêu cầu, hướng dẫn
HS đọc SGK, tài liệu có liên quan.


2.2.

Quy trình thực hiện bài giảng

2.2.1.

Bước tiến hành thảo luận nội dung tự học

* Các quỉ trình chuẩn bị bài giảng:
-

GV cần lập kế hoạch trước cho bài giảng có sử dụng phương pháp tự học

-

Dặn dò, giao từng nội dung cho từng nhóm HS về nhà chuẩn bị những
nội dung cần thiết cho bài học.


-

Khuyến khích HS tìm hiểu thêm những kiến thức sâu hơn, ở phạm vi
rộng hơn có liên quan đến bài học.

* Qui trình tiến hành lên lớp:
-

Mở đầu thảo luận GV thông báo chủ đề thảo luận, xác định mục đích,
yêu cầu, nhiệm vụ và quy trình, thủ tục thảo luận.

-

Trong quá trình thảo luận GV phải yêu cầu có sự tham gia của tất cả HS,
GV nên làm nhiệm vụ quan sát, theo dõi mà không tham gia ý kiến khi
HS thảo luận, không cắt ngang lòi HS, không phản ứng nếu câu trả lòi
không đúng với ý mình. Để tạo hứng thú và không khí tự do, cởi mở, sôi
nổi trong buổi thảo luận. Nếu một số HS cố tình đưa ra những thông tin
ngoài lề, những sự kiện không thích họp hoặc hỏi những câu hỏi ngờ
nghệch...GV nên có ý kiến hướng các em vào trọng tâm của vấn đề cần
thảo luận, giúp các em nhận thức được sự không phù họp của những
hành động đó mà không làm ảnh hưởng đến cảm xúc của HS. Khi thảo
luận, GV cần chú ý lắng nghe và ghi chép lại những điểm cơ bản của
mỗi ý kiến phát biểu để trên cơ sở đó đưua ra những vấn đề nảy sinh
trong thảo luận để HS tiếp tục suy nghĩ. Khi thấy phần lớn HS đã trao
đổi ý kiến GV nên kết thúc thảo luận và tiến hành tổng kết.
2.2.2.

Bước kết luận buổi thảo luận nội dung tự học


Buổi thảo luận được kết thúc bằng lòi kết luận của GV. GV sẽ phải tập


trung đánh giá vào những vấn đề sau:
Những nội dung tự học đã chuẩn bị cho buổi thảo luận của các tổ các
nhóm đạt đến mức độ nào; sự phổi hợp của các thành viên trong nhóm, tổ khi
tham gia thảo luận; những nội dung mới được làm sáng tỏ ưong buổi thảo luận,
như vậy đã đạt được mục đích, yêu cầu đặt ra chưa...
GV nêu một cách có hệ thống những ý kiến của HS đã chuẩn bị thông
qua việc tự học. Đánh giá những ý kiến đó và bổ sung thêm những nội dung cần
thiết. Nhận xét tinh thần, thái độ làm việc của HS trong giờ thảo luận, có khen
và chê đúng mực.
Như vậy, thảo luận có các chức năng dạy học, giáo dục, đặc biệt là chức
năng kiểm tra, tự kiểm tra. 1
2.3.

Quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của HS

2.3.1.

Ỷ nghĩa của việc kiểm tra, đánh giá kết quả của học HS

Ở một số bài kiểm ưa, HS có thể tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Nhưng đối với những bài kiểm ưa có
tính quyết định, thì việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh hoàn
toàn do GV đảm nhiệm.
Hoạt động kiểm ưa đánh giá kết quả học tập của HS không chỉ có ý nghĩa
quan ưọng đối với học sinh, nó còn giúp GV kiểm soát được quá trình dạy học,
phân loại và đưa ra được những biện pháp giúp đỡ HS hoàn thành nhiệm vụ học
tập. Đánh giá kết quả học tập là đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu đã đề

ra của mỗi bài học, mỗi giai đoạn học tập; qua đó xác định mức độ nắm được
kiến thức, hình thành kỹ năng của HS so vói yêu cầu của nhiệm vụ học tập đề
ra. Thông qua bài kiểm ưa của HS, GV nắm bắt được chính xác và cụ thể ưình
độ, năng lực của mỗi HS ưong quá trình học tập môn học; từ đó. GV sẽ có
những biện pháp giúp đỡ, hỗ ượ kịp thời cho HS. Đồng thòi, qua kiểm ưa, đánh


×