Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở trong cải cách hành chính ở huyện thái thụy, tỉnh thái bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.13 KB, 89 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------

LÊ THỊ HÒA

THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ CƠ SỞ
TRONG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở HUYỆN THÁI THỤY,
TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa Xã hội khoa học

Nguời hưóng
S Nguyễn Thuý Vân

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------

LÊ THỊ HÒA

THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ CƠ SỞ
TRONG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở HUYỆN THÁI THỤY,
TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa Xã hội khoa học
Mã số: 60.22.03.08



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Công Nhất

Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phạm Công Nhất cùng sự tham khảo các công
trình khoa học của những tác giả ghi trong danh mục tài liệu tham khảo. Các tài
liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 29 tháng 04 năm 2016
Tác giả luận văn

Lê Thị Hòa


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CCHC : cải cách hành chính
XHCN : xã hội chủ nghĩa
UBND

: ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu .................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................... 8
8. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 9
NỘI DUNG..................................................................................................... 10
Chƣơng 1: THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG CẢI
CÁCH HÀNH CHÍNH Ở CẤP HUYỆN VIỆT NAM HIỆN NAY: MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ........................................................................................ 10
1.1. Cải cách hành chính và cải cách hành chính ở cấp huyện Việt Nam
hiện nay .......................................................................................................... 10
1.1.1.Những vấn đề chung về cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay ......... 10
1.1.2. Cấp huyện và yêu cầu cải cách hành chính ở cấp huyện của Việt Nam
hiện nay ........................................................................................................... 21
1.2. Pháp lệnh dân chủ cơ sở và sự cần thiết phải thực hiện Pháp lệnh
dân chủ cơ sở trong cải cách hành chính ở cấp huyện Việt Nam hiện nay 22
1.2.1. Khái niệm dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa ...................................... 23
1.2.2. Hoàn cảnh ra đời và một số nội dung cơ bản của Pháp lệnh dân chủ cơ
sở ..................................................................................................................... 25
1.2.3. Sự cần thiết phải thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong cải cách hành
chính ở cấp huyện Việt Nam hiện nay ............................................................. 32
1.2.4. Một số nội dung cơ bản của việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở
trong cải cách hành chính ở cấp huyện Việt Nam hiện nay.............................. 39


Tiểu kết chƣơng 1:......................................................................................... 42
Chƣơng 2: THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG CẢI
CÁCH HÀNH CHÍNH Ở HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH
HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP......................................... 44

2.1. Khái quát tình hình kinh tế- xã hội và đặc điểm tổ chức hoạt động bộ
máy hành chính cấp huyện ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. ............ 44
2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế- xã hội của huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình .... 44
2.1.2. Đặc điểm tổ chức hoạt động của bộ máy hành chính cấp huyện ở huyện
Thái Thụy, tỉnh Thái Bình ............................................................................... 46
2.2. Thực trạng thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong cải cách hành
chính ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình hiện nay. ................................. 49
2.2.1. Thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở
trong cải cách hành chính ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình hiện nay........ 49
2.2.2. Những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở
trong cải cách hành chính ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình hiện nay........ 63
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện Pháp lệnh dân
chủ cơ sở trong cải cách hành chính ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
hiện nay .......................................................................................................... 65
2.3.1. Nâng cao nhận thức về việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở nhằm
thực hiện cải cách hành chính ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình hiện nay . 65
2.3.2. Xây dựng đồng bộ hệ thống các cơ chế, chính sách và đội ngũ cán bộ
tham gia thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở nhằm thực hiện cải cách hành
chính ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình hiện nay. ........................................ 66
2.3.3. Tạo cơ chế, chính sách để quần chúng nhân dân tích cực tham gia giám
sát thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở nhằm thực hiện cải cách hành chính ở
huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình hiện nay. ..................................................... 68


2.3.4. Tích cực nghiên cứu, tổng kết thực tiễn nhằm xây dựng mô hình phù
hợp trong thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở nhằm thực hiện cải cách hành
chính ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình hiện nay. ........................................ 69
Tiểu kết chƣơng 2:......................................................................................... 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân chủ là giá trị của lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát
triển của đời sống con người. Lịch sử loài người đã trải qua nhiều nền dân chủ
khác nhau như dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản và đang tiến đến xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ XHCN. Dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội và
cũng là bản chất của nhà nước Việt Nam XHCN. Tiếp thu quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định đúng đắn tầm quan trọng và vai trò to lớn của dân chủ, trong bất kỳ giai
đoạn nào, Đảng và Nhà nước ta đều nhận thức việc thực hành dân chủ rộng
rãi sẽ tạo nên sức mạnh to lớn, đảm bảo sự thành công của cách mạng Việt
Nam. Với nhận thức đúng đắn trên, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản pháp lý quan trọng , đánh dấu những bướ c phát triển trong việc thể
chế hoá phương châm ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'' (mà ở đại
hô ̣i Đảng toàn quốc khóa VI năm 1986 đã nêu) nhằm phát huy quyền làm chủ
trực tiếp của nhân dân. Trong đó văn bản quan trọng nhất khẳ ng đinh
̣ vai trò
và tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ cơ sở đố i với hê ̣ thố ng chính tri ̣
- xã hội nước ta , đó là Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH 11 về thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn do Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 11
(2007) ban hành ngày 20/4/2007. Thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở được
gắn với phát triển kinh tế - xã hội, cải cách thủ tục hành chính, cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", các phong trào, các
hoạt động văn hoá, xã hội, giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở được nhân dân
đồng tình hưởng ứng và thực hiện có hiệu quả, dân chủ nói chung, dân chủ
trực tiếp của nhân dân nói riêng tiếp tục được coi trọng, tăng cường.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, văn hóa, CCHC trở thành
một trào lưu, một nhu cầu thiết thực tự thân, nỗ lực của hầu hết các quốc gia

trên thế giới - cả các nước đang phát triển và các nước phát triển - đều xem
1


CCHC như một động lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển
dân chủ và các mặt khác của đời sống xã hội, nhằm xây dựng một nền hành
chính nhà nước hiện đại, năng động hiệu quả, giảm phiền hà, lấy phục vụ
nhân dân làm tôn chỉ, mục đích để từ đó xây dựng và hoàn thiện nền hành
chính. Ở nước ta, công cuộc CCHC nhà nước đang là kế hoạch trọng tâm của
Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng, phát triển hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh. Công cuộc CCHC được thực hiện ở tất cả các cấp hành
chính- từ trung ương đến cấp xã, phường, thị trấn - từng bước thận trọng và
đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. CCHC đang thể hiện rõ vai trò
quan trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Tuy nhiên, quá trình CCHC ở Việt Nam còn rất nhiều vấn đề đặt ra
cần được tiếp tục giải quyết ngay như vẫn còn bộc lộ sự xa dân, quan liêu, bộ
máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả, thủ tục hành chính rất nặng nề, gây
phiền hà cho dân; chế độ và trách nhiệm công vụ không rõ ràng, thiếu minh
bạch; cán bộ, công chức có nhiều người sách nhiễu dân, lãng phí và tham
nhũng... Chính vì vậy cần phải đẩy mạnh thực hiện dân chủ cơ sở, đặc biệt là
việc áp dụng Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC nhằm thực hiện tốt chủ
trương cải cách nền hành chính nước nhà, đồng thời phát huy hơn nữa quyền
làm chủ của nhân dân.
Huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình là một huyện ven biển đồng bằng
sông Hồng, là lá cờ đầu của sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới
và đây là một trong những địa phương đầu tiên thí điểm thực hiện CCHC.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, CCHC ở huyện Thái Thụy vẫn còn nhiều
hạn chế, chưa phát huy được hết quyền làm chủ của nhân dân. Chính vì vậy

tôi chọn “Thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong cải cách hành chính ở
huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình hiện nay” làm đề tài luận văn của mình

2


nhằm phân tích thực trạng thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC ở
huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình từ đó đề xuất một số phương hướng, giải
pháp nâng cao chất lượng thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC ở
huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về
dân chủ và CCHC nói chung, dân chủ và CCHC ở Việt Nam nói riêng. Trong
các công trình ấy, dân chủ, CCHC ở Việt Nam đã được nghiên cứu theo nhiều
cách tiếp cận khác nhau có thể khai thác và kế thừa như:
Nhóm các công trình nghiên cứu về CCHC nhà nước.
Bàn về CCHC nhà nước có các công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học như:
Tô Tử Hạ, Nguyễn Hữu Trị và Nguyễn Hữu Đức (1998),“Cải cách hành
chính địa phương lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. Trong
cuốn sách này, các tác giả đã nêu và phân tích tập trung vào những vấn đề lý
luận và thực tiễn về CCHC; chức năng, vị trí, vai trò của CCHC địa phương
trong CCHC nhà nước, đánh giá thực trạng chính quyền địa phương và xác
định xu hướng cải cách. Các tác giả đã đưa ra các giải pháp cụ thể CCHC đối
với bộ máy hành chính theo các góc độ, phạm vi như: mô hình tổ chức bộ
máy, thiết chế, sự phân chia theo lĩnh vực hành chính lãnh thổ…
Nguyễn Ngọc Hiến (2001), “Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở
Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. Tác giả đã đề cập đến quá trình
CCHC diễn ra như thế nào, các rào cản trong CCHC, đặc điểm, nguyên tắc
CCHC từ đó đưa ra những kiến nghị các giải pháp thúc đẩy quá trình CCHC.

Đoàn Trọng Truyến (2006), “Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Cuốn
sách gồm 2 phần: Phần 1: Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Phần 2: Cải cách hành chính. Cuốn sách là tổng hợp

3


kiến thức cơ bản về nhà nước pháp quyền, về nền hành chính trên cơ sở học
thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh giá sắc sảo nền hành chính
phong kiến Việt Nam, có cách nhìn độc lập về nền hành chính nước ta, đồng
thời đề xuất mô hình một nền hành chính tương lai. Tác giả nhấn mạnh rằng
trong giai đoạn cách mạng mới, CCHC được coi là trọng tâm của công cuộc
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước. Tác giả cũng chỉ ra rằng, cải cách nền hành
chính phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và triển khai các nhiệm vụ về cải
cách thể chế hành chính, cải cách bộ máy hành chính, tinh giảm biên chế, xây
dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, vững mạnh.
Các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp những luận cứ khoa học
làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong tiến trình CCHC nhà nước, đề
xuất những kiến nghị về nguyên tắc, phương pháp, giải pháp cho công tác
CCHC, nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính
nhà nước và các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và dân chủ
hóa đời sống xã hội.
Nhóm các công trình nghiên cứu về dân chủ và dân chủ cơ sở:
Vấn đề dân chủ và dân chủ ở cơ sở là một vấn đề đã được rất nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu với nhiều công trình có giá trị và ý nghĩa đã
được công bố như:
Nguyễn Tiến Phồn: “Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực
tiễn”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; Luận án Tiến sỹ Chính trị học của
Nguyễn Thị Tâm: “Dân chủ cơ sở và vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn

nước ta hiện nay” (2007). Các tác giả đã nêu rõ những thành tựu và hạn chế
trong nhận thức và cả những khuyết tật trong xây dựng và thực hiện nền dân
chủ XHCN ở nước ta trong thực tiễn.
PGS.TS Dương Xuân Ngọc: “Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000;
PGS.TS Nguyễn Cúc: “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình

4


hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002; Lương Gia Ban: “Dân chủ và việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; TS. Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ
Văn Thông: “Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Các công trình này,
các tác giả đã tập trung làm rõ ý nghĩa, tầm quan trọng cả về mặt lý luận lẫn
thực tiễn, cùng với thực trạng của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
trong tình hình hiện nay của nước ta.
Phạm Văn Bính: “Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh”, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2008. Cuốn sách này đã góp phần xác định và làm rõ hơn
những vấn đề cơ bản trong phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh, đề xuất
áp dụng phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh đối với việc hoàn thiện
phương pháp lãnh đạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Hoàng Chí Bảo (2007), cuốn sách “ Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông
thôn trong tiến trình đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007. Tác giả
đã nghiên cứu, luận giải sâu sắc về lý luận và thực tiễn một vấn đề xã hội
phức tạp hiện nay là tâm lý làng xã, ảnh hưởng và tác động của nó đối với
việc thực hiện và phát huy dân chủ hiện nay.
PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh- ThS. Tào Thị Quyên: “Dân chủ trực tiếp ở
Việt Nam, lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. Trong

cuốn sách này tác giả đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về dân
chủ và dân chủ trực tiếp trên thế giới và ở Việt Nam; đánh giá thực trạng, đưa
ra giải pháp nhằm phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp ở nước ta hiện
nay.
PGS.TS Lê Minh Quân: “Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. Ở đây tác giả đã
đề cập đến nhiều vấn đề về dân chủ hóa từ góc độ lý luận và thực tiễn, chỉ ra
các yếu tố tác động và quá trình dân chủ hóa trên thế giới, phân tích những

5


vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình dân chủ hóa XHCN ở nước ta hiện
nay.
Bên cạnh những công trình sách đã được xuất bản, chúng ta còn có thể
kế thừa những bài báo, tạp chí như:
Dương Xuân Ngọc - Lưu Văn An: “Kết quả thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở, vấn đề đặt ra và một số giải pháp”, Tạp chí Thông tin lý luận, số 92000. Trong bài viết này, tác giả đã nêu lên những kết quả bước đầu của việc
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đồng thời nêu lên những vấn đề cần giải
quyết cùng những giải pháp cụ thể để tiếp tục thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở.
Dương Trung Ý: “Nâng cao sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng
thực hiện hiệu quả dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản số 14 (tháng 5/2013).
Ở bài viết này tác giả chủ yếu đề cập đến các giải pháp nhằm nâng cao vai trò
và năng lực của các tổ chức cơ sở Đảng trong việc phát huy dân chủ cơ sở.
TS. Đoàn Minh Huấn: “Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và quá trình
mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8/2014. Tác
giả bài viết này làm rõ đặc trưng của hai hình thức dân chủ là dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện, đồng thời khẳng định vai trò, ưu thế của mỗi hình
thức cũng như sự cần thiết phải phối hợp chặt chẽ hai hình thức này với nhau

trong việc mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta.
Nhìn chung, các công trình khoa học, bài báo, luận án nêu trên với
những cách tiếp cận và phạm vi nghiên cứu khác nhau nhưng đều đã nêu lên
và làm rõ tầm quan trọng của dân chủ, dân chủ cơ sở cũng như những tiền đề
lý luận và thực tiễn của vấn đề dân chủ và dân chủ cơ sở. Do vậy những tài
liệu trên sẽ là những nguồn tư liệu tham khảo bổ ích đối với tác giả. Tuy
nhiên do Pháp lệnh số 344/2007/PL-UBTVQH 11 về thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới được ban hành ngày
20/04/2007 nên các công trình nghiên cứu trước thời điểm ban hành Pháp

6


lệnh chưa thể đề cập đến các nội dung Pháp lệnh này của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội. Từ sau thời điểm công bố pháp lệnh cũng chưa có một công trình
nghiên cứu nào nghiên cứu cụ thể tình hình thực hiện pháp lệnh đó trong lĩnh
vực CCHC ở UBND huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Vì vậy trong khuôn
khổ luận văn này tác giả muốn chú trọng làm rõ việc thực hiện Pháp lệnh dân
chủ cơ sở trong CCHC ở UBND huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích thực trạng và đề xuất những
phương hướng, giải pháp cơ bản để góp phần nâng cao hiệu quả của việc vận
dụng thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC ở UBND huyện Thái
Thụy, tỉnh Thái Bình hiện nay.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
+ Phân tích làm rõ những cơ sở lý luận của việc vận dụng thực hiện Pháp lệnh
dân chủ cơ sở trong CCHC ở UBND huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình hiện
nay
+ Đánh giá thực trạng việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC ở
UBND huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình từ năm 2001 đến nay, chỉ ra nguyên

nhân và phân tích những vấn đề đặt ra cần giải quyết để tăng cường vai trò
của Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC
+ Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao
hiệu quả vận dụng thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC ở UBND
huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Đối tượng mà luận văn tập trung nghiên cứu là toàn bộ thực tiễn
triển khai thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC ở UBND huyện
Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Nghiên cứu việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong lĩnh vực CCHC
của UBND huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

7


+ Số liệu điều tra, khảo sát từ năm 2001 đến nay, đây là thời điểm Đảng và
nhà nước ta ban hành Quy chế dân chủ cơ sở và Ủy ban Thường vụ Quốc hội
ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (04/2007). Trong
giai đoạn này, chính phủ ban hành các chương trình tổng thể CCHC nhà
nước giai đoạn 2001- 2010, 2011-2020.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận nghiên cứu của luận văn được dựa trên những
quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện
thể hiện quan điểm, chủ trương của Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam về
thực hiện dân chủ cơ sở và CCHC. Bên cạnh đó tác giả luận văn cũng có kế
thừa, chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số nhà khoa học đã được
công bố về dân chủ cơ sở và CCHC.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Luận văn sử dụng phương pháp luận triết học của chủ nghĩa duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử; các phương pháp nghiên cứu chung như: phương
pháp lôgíc- lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh và chứng minh; phương pháp
liên ngành như: điều tra xã hội học... để nghiên cứu đề tài này.
6. Đóng góp của luận văn
Pháp lệnh dân chủ cơ sở có phạm vi điều chỉnh ở cấp xã, phường, thị
trấn nhưng luận văn đã vận dụng mở rộng nghiên cứu việc thực hiện Pháp
lệnh dân chủ cơ sở ở cấp huyện và nghiên cứu trong lĩnh vực CCHC cấp
huyện. Trên cơ sở đó, luận văn đi sâu nghiên cứu thực tiễn việc vận dụng thực
hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC ở UBND huyện Thái thụy, tỉnh
Thái Bình. Việc vận dụng thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC ở
cấp huyện (qua thực tiễn ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) cũng chính là
đóng góp mới của luận văn.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn sẽ là cứ liệu khoa học góp phần để các cơ quan hành chính cả
nước nói chung, các cơ quan hành chính nhà nước ở Thái Thụy, tỉnh Thái

8


Bình nói riêng đề ra những phương hướng và giải pháp nhằm thực hiện tốt
hơn nữa Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC
Luận văn có thể làm tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy
những vấn đề lý luận liên quan đến dân chủ, dân chủ cơ sở, dân chủ trong lĩnh
vực CCHC và là tư liệu trong các khoa học lý luận chính trị,...
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn còn
có 2 chương 5 tiết

9



NỘI DUNG
Chƣơng 1: THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG CẢI
CÁCH HÀNH CHÍNH Ở CẤP HUYỆN VIỆT NAM HIỆN NAY: MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Cải cách hành chính và cải cách hành chính ở cấp huyện Việt Nam
hiện nay
1.1.1.Những vấn đề chung về cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay
1.1.1.1. Khái niệm cải cách hành chính
Từ nhiều năm nay, CCHC đã là một vấn đề mang tính tương đối phổ cập
của xã hội Việt Nam. Người dân, tổ chức cảm nhận được kết quả, tác động
của CCHC một cách trực tiếp nhất khi có việc phải tiếp xúc, giải quyết công
việc với các cơ quan hành chính nhà nước. Vậy CCHC là gì?
Cải cách là sửa đổi những bộ phận, yếu tố, thành phần đã có cho thành
hợp lý, cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới để sự vật có thể vận động
và phát triển tốt hơn [48]. Theo nghĩa triết học và chính trị học thì cải cách là
làm thay đổi một số mặt của sự vật mà không làm thay đổi căn bản sự vật đó.
Đó còn là “sự sửa đổi, cải thiện một số mặt của đời sống xã hội mà không
động tới nền tảng của chế độ xã hội hiện hành” [43, tr.335]. Khái niệm cải
cách có nội hàm hẹp hơn đổi mới.
Còn thuật ngữ “hành chính” có gốc từ tiếng Latinh “administratio” là
quản lý, lãnh đạo. Hiện nay có khá nhiều cách hiểu và giải thích khác nhau về
thuật ngữ này, tuỳ theo góc độ tiếp cận của từng nhà nghiên cứu. Tuy có
nhiều cách tiếp cận, nhưng đặc điểm cơ bản của hành chính xuất phát từ việc
trong bất kỳ xã hội nào cũng cần có sự phân công lao động, cần tới sự xác lập
những tỉ lệ giữa các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Như vậy, hành
chính theo nghĩa chung là quản lý công việc, là quản lý xã hội; theo nghĩa
riêng, hẹp hơn là công việc nhà nước và tổ chức quản lý nhà nước. Về cơ bản,
hành chính là tổng thể những hoạt động (thao tác) nhất định do con người,


10


chủ thể quản lý thực hiện đối với khách thể quản lý nhằm cải tạo khách thể,
bảo đảm cho nó vận động tới một mục tiêu đã định. Hành chính chính là hoạt
động quản lý của con người để tạo ra sự vận hành mang tính hệ thống của xã hội.
Căn cứ vào quan niệm về cải cách và hành chính đã làm rõ ở trên thì
CCHC chính là hoạt động có ý thức và mục đích của con người nhằm hợp lý
hóa, hay khắc phục các khiếm khuyết trong các chương trình điều hành, quản
lý các hệ thống, cải tạo, nâng cấp, hoàn thiện công tác quản lý cho tất cả các
hệ thống trong xã hội. Song do hành chính gắn chủ yếu với hoạt động của các
cơ quan nhà nước, các thể chế chính trị nên khái niệm CCHC thường được
coi là đồng nhất với khái niệm CCHC nhà nước. Nhìn nhận một cách tổng
quát, CCHC được xác định là hành vi có tính hướng đích của con người
nhằm cải biến nền hành chính của một quốc gia theo hướng hoàn thiện hơn.
CCHC nhà nước là tạo ra những thay đổi trong các yếu tố cấu thành của nền
hành chính nhằm làm cho các cơ quan hành chính nhà nước hoạt động hiệu
lực, hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội tốt hơn.
Trên cơ sở nêu trên, các khái niệm CCHC thống nhất tại các điểm sau:
- CCHC là sự thay đổi có kế hoạch theo một mục tiêu xác định nhưng không
làm triệt tiêu hay thay đổi bản chất của hệ thống hành chính nhà nước mà để
hệ thống hành chính nhà nước hoạt động hiệu quả hơn;
- CCHC hướng tới điều tiết những mâu thuẫn trong cơ cấu tổ chức và cơ chế
quản lý của bộ máy hành chính nhà nước;
- CCHC tập trung vào việc định rõ trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân mà
thông qua đó nhằm thiết lập một hệ thống hành chính chặt chẽ từ trên xuống
dưới;
- CCHC không phải là cải cách chế độ chính trị - kinh tế - xã hội mà là quá
trình khắc phục mọi trở lực trong cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của nền
hành chính, làm cho nó phát triển một cách năng động và phù hợp với sự biến

đổi kinh tế-xã hội;

11


Ở Việt Nam hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào chính
thức định nghĩa CCHC là gì. Tuy nhiên, nhiều văn bản quan trọng của Đảng
ta đã đề cập đến thuật ngữ này như Nghị quyết đại hội VII, Nghị quyết Trung
ương 8 khóa VII, Nghị quyết Đại hội VIII đã đưa ra mục tiêu nhiệm vụ cụ thể
cho công cuộc CCHC nhà nước. So sánh với các quốc gia, Việt Nam là quốc
gia đã xây dựng một chương trình CCHC toàn diện nhằm giải quyết những
vấn đề căn bản của nền hành chính nhà nước. Ở nhiều quốc gia khác, CCHC
không phải lúc nào cũng được tiến hành theo một kế hoạch tổng thể mà theo
các nhóm giải pháp ở các quy mô nhỏ hơn như đổi mới cơ chế, chính sách
cho khu vực nào đó, phát triển tổ chức, phát triển nguồn nhân lực, quản lý
chất lượng và những lĩnh vực cải cách có liên quan khác.
Trong phạm vi luận văn này, nếu đề cập đến CCHC là nói đến CCHC
nhà nước để phân biệt với CCHC ở các tổ chức, cơ quan, nhất là doanh
nghiệp tư nhân, tức là khu vực tư nhân.
1.1.1.2. Bối cảnh ra đời cải cách hành chính ở Việt Nam
Vào cuối thập kỉ 80, đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX, tình hình thế giới có
những biến chuyển to lớn ảnh hưởng tới nước ta. Không gian chính trị thời kỳ
hậu Xô Viết với tác động của toàn cầu hóa như một xu thế tất yếu và phổ biến
đã làm nổi bật một đặc điểm mới của thế giới hiện nay là hòa bình, hợp tác và
phát triển đòi hỏi các quốc gia phải thích nghi để phù hợp với tình hình mới.
Trong khi đó, nhiều nước trên thế giới trong quá trình phát triển của mình
cũng tiến hành cải cách trên nhiều phương diện, đặc biệt là kinh tế và tổ chức
vận hành bộ máy nhà nước để thích ứng với tình hình mới, trong đó có CCHC
để đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm tiếp tục đưa đất nước tiến
lên và phát triển một cách bền vững. Những bài học của nhiều nước tiên tiến,

theo nhiều con đường khác nhau đã tác động đến Việt Nam làm thay đổi nhận
thức của nhiều nhà lãnh đạo đất nước. Nhiều người ở Việt Nam dần dần đã
nhận ra rằng, cải cách nền hành chính nhà nước là một đòi hỏi có tính quy
luật. Việt Nam cũng nằm trong quy luật đó.

12


Trong bối cảnh thế giới đó, ở Việt Nam công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước diễn ra bắt đầu từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
cộng sản Việt Nam (năm 1986) đến nay đã qua 30 năm tạo ra bước chuyển
biến có ý nghĩa hết sức quan trọng từ nền kinh tế kế hoạch hóa vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong
tiến trình đó, CCHC được đặt ra như một đòi hỏi khách quan của thực tiễn để
tạo tiền đề thúc đẩy cải cách kinh tế. CCHC được xác định là trọng tâm của
việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, trở thành một bộ phận quan trọng trong chủ trương, đường lối của
Đảng và Nhà nước ta.
Việc CCHC ở Việt Nam trong những năm qua được tiến hành rộng
khắp trên tất cả mọi lĩnh vực của CCHC và trong tương lai đi theo hướng làm
cho bộ máy hành chính hoàn bị hơn, hoạt động có hiệu quả hơn, phục vụ nhân
dân ngày một đúng pháp luật, tốt hơn và tiết kiệm nhất, dần từng bước chuyển
nền hành chính từ cơ quan cai quản thành các cơ quan phục vụ dân, làm các
dịch vụ hành chính đối với dân, công dân là khách hàng của nền hành chính,
là người đánh giá khách quan nhất về mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, bộ
máy hành chính. Việc ban hành Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm
2007- một văn bản về những quy chế dân chủ cơ sở đã được luật hóa mang
tính pháp lý quan trọng- có một ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần thiết để
thực hiện thành công CCHC ở nước ta hiện nay.
1.1.1.3. Nội dung cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay

CCHC ở Việt nam được tiến hành nhiều năm nay với những bước đi, lộ
trình khác nhau từ thấp tới cao. Bắt đầu là việc cải cách một bước thủ tục
hành chính trong việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức với Nghị
quyết số 38/CP năm 1994 của Chính phủ, đến cải cách một bước nền hành
chính nhà nước với ba nội dung được trình bày có hệ thống trong Nghị quyết
Hội nghị TW 8 (Khoá VII) (tháng 1/1995) là: cải cách thể chế hành chính; cải

13


cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đây
cũng là lần đầu tiên thuật ngữ cải cách nền hành chính được sử dụng chính
thức trong văn kiện của Đảng. Tiến đến thực hiện bốn nội dung CCHC trong
Chương trình tổng thế CCHC nhà nước giai đoạn 2001-2010 bao gồm: cải
cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính; đổi mới, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công. Ngày 8/11/2011,
chính phủ đã ban hành chương trình tổng thế CCHC nhà nước giai đoạn
2011-2020, CCHC đã chuyển sang một bước mới với sáu nội dung: cải cách
thể chế hành chính; cải cách thủ tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức; cải cách tài chính công; hiện đại hóa nền hành chính.
Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011- 2020 với các
mục tiêu đó là: Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước. Tạo môi trường kinh doanh
bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm giảm thiểu chi phí về
thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
trong việc tuân thủ thủ tục hành chính. Xây dựng hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh,
hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động

điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước. Bảo đảm
thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người,
gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước. Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình
độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.
Trọng tâm CCHC trong giai đoạn 10 năm tới là: Cải cách thể chế; xây
dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chú trọng
cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công

14


chức, viên chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao; nâng cao chất
lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công.
Chương trình được triển khai thực hiện thông qua hai giai đoạn, giai
đoạn 1 từ năm 2011 – 2015; giai đoạn 2 từ năm 2016 – 2020. Nếu chương
trình CCHC giai đoạn 2001 – 2010 tập trung vào 4 nội dung (cải cách thể chế;
cải cách tổ chức bộ máy hành chính; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức và cải cách tài chính công) thì chương trình mới giai đoạn
2011 - 2020 xác định rõ nhiệm vụ CCHC trên 6 lĩnh vực cụ thể là: Cải cách
thể chế, cải cách thủ tục hành chính, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức,
cải cách tài chính công, hiện đại hóa hành chính.
- Thứ nhất, về cải cách thể chế: một vấn đề rất quan trọng được đặt ra
đó là việc hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong đó khẳng định sự tồn tại khách
quan, lâu dài của các hình thức sở hữu trước hết là sở hữu nhà nước, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
sở hữu khác nhau trong nền kinh tế; sửa đổi đồng bộ thể chế hiện hành về sở
hữu đất đai, phân định rõ quyền sở hữu đất và quyền sử dụng đất, bảo đảm
quyền của người sử dụng đất. Qua những vụ việc về đất đai mới xảy ra gần

đây cho thấy việc hoàn thiện thể chế về sở hữu và đất đai là một bước đi cần
thiết và kịp thời của Đảng và Nhà nước nhằm hoàn thiện khung pháp lý về
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, khuyến khích sự phát triển của các
thành phần kinh tế và đảm bảo sự ổn định, công bằng trong xã hội.
- Thứ hai, về cải cách thủ tục hành chính: điểm mới là Nghị quyết
30c/NQ- CP của Chính phủ về Ban hành chương trình tổng thể CCHC nhà
nước giai đoạn 2011- 2020 đã tách lĩnh vực cải cách thủ tục hành chính ra
khỏi cải cách thể chế và đưa ra làm nhiệm vụ riêng. Đây là một yêu cầu cần
thiết trong bối cảnh hiện nay, bởi thủ tục hành chính có vai trò quan trọng,
được thực hiện hằng ngày trong đời sống xã hội cũng như tác động lớn đến

15


thu hút đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp. Trong giai đoạn 2011- 2015 cần
tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh trong một số lĩnh vực trọng tâm cần
tập trung là: Đầu tư, đất đai, xây dựng, sở hữu nhà ở, thuế, hải quan, xuất
nhập khẩu, y tế, giáo dục, lao động, bảo hiểm, khoa học- công nghệ... Một
điểm mới nữa là việc đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá
trình xây dựng thể chế và việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá
nhân, tổ chức về các quy định hành chính. Đây sẽ là một bước tiến đáng kể
góp phần vào việc nâng cao chất lượng của các quy định hành chính và giám
sát việc thực hiện thủ tục hành chính của các cơ quan nhà nước.
- Thứ ba, về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước: chương
trình đã lượng hóa kết quả trên một số lĩnh vực cụ thể như bảo đảm sự hài
lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà
nước và đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực
giáo dục, y tế đạt mức trên 80 % vào năm 2020.
- Thứ tư, về xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức đã đưa ra nội dung mới đó là việc thực hiện chế độ thi nâng

ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh, thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị
trí lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ trưởng và tương đương (ở trung ương), giám
đốc sở và tương đương (ở địa phương) trở xuống. Ngoài ra chương trình cũng
tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ bảo
hiểm xã hội và ưu đãi người có công; đến năm 2020, tiền lương của cán bộ,
công chức, viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của cán
bộ, công chức, viên chức và gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội.
- Thứ năm, về cải cách tài chính công có một điểm đáng chú ý là việc
đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước, tiến tới
xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cơ chế cấp
ngân sách dựa trên kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu
ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính

16


nhà nước. Bên cạnh đó đối với cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp dịch
vụ công sẽ từng bước thực hiện chính sách điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp
công phù hợp, chú trọng đổi mới cơ chế tài chính của các cơ sở giáo dục, đào
tạo, y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch. Đổi mới và hoàn
thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế, khám, chữa bệnh, có lộ trình thực
hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
- Thứ sáu, về hiện đại hóa hành chính đã cụ thể hóa mục tiêu đến năm
2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành
chính nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử; hầu hết các giao dịch của
các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử, mọi
lúc, mọi nơi; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng
thông tin điện tử hành chính của Chính phủ ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu
thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều
phương tiện khác nhau; Ứng dụng công nghệ thông tin- truyền thông trong

quy trình xử lý công việc của từng cơ quan hành chính nhà nước, giữa các cơ
quan hành chính nhà nước với nhau và trong giao dịch với tổ chức, cá nhân,
đặc biệt là trong hoạt động dịch vụ hành chính công, dịch vụ công của đơn vị
sự nghiệp công.
Chương trình Tổng thể về CCHC giai đoạn 2011- 2020 là một bước đi
quan trọng trong việc cụ thể hóa chủ trương của Đảng về tiếp tục đẩy mạnh
CCHC, xác định đây là một trong ba khâu đột phá trong thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 và đóng góp chung vào sự phát triển
của đất nước trong thời gian tới.
1.1.1.4. Một số đặc trưng trong cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay
Ngoài những điểm giống CCHC ở các nước, CCHC ở Việt Nam có
những đặc trưng riêng sau:
- CCHC là giải pháp đột phá tiên phong trong cải cách các hoạt động
của Nhà nước nói chung, của Chính phủ nói riêng.

17


- Cải cách được tiến hành trong khuôn khổ hệ thống chính trị một Đảng
duy nhất cầm quyền- Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặt thuận lợi từ đặc trưng
này chính là ở chỗ dễ tạo sự đồng thuận trong hoạch định chính sách, biện
pháp, thể chế cho cải cách.
- CCHC diễn ra cùng một lúc với khá nhiều cuộc cải cách khác, ví dụ
như cải cách kinh tế, cải cách lập pháp, cải cách tư pháp, cải cách giáo dục
v.v... Đặc trưng này đòi hỏi phải có sự chỉ đạo thống nhất, tập trung nhằm bảo
đảm mục tiêu chung của phát triển.
- CCHC được triển khai trên diện rộng, ở tất cả các cấp hành chính với
sáu lĩnh vực cải cách. Mỗi lĩnh vực lại bao gồm một loạt các lĩnh vực thành
phần cho thấy tính phức tạp, độ rộng của CCHC ở Việt Nam.
- CCHC ở nước ta chịu ảnh hưởng khá lớn của điều kiện xã hội và tâm

lý của người dân Việt Nam. CCHC nước ta đang được tiến hành trong xã hội
có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, do ảnh hưởng tâm lý phong kiến nặng nề,
ý thức dân chủ và năng lực dân chủ không tương xứng, trọng tình cảm, nhẹ
lý, tách rời quyền với nghĩa vụ cùng với những tệ nạn phát sinh từ mặt trái
của cơ chế thị trường.
Từ những đặc trưng này rút ra những vấn đề sau:
- CCHC không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng
Đặc trưng tiêu biểu của hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống một
đảng duy nhất cầm quyền. Đặc trưng này chi phối nhiều vấn đề, trong đó có
vấn đề CCHC. CCHC muốn tiến hành được, muốn duy trì và đẩy mạnh, trước
hết phải là một chủ trương trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng không thể có cải cách, càng không thể có
những kết quả tích cực. Từ năm 1995 cho đến nay, chủ trương CCHC đã
được xác định trong một loạt các nghị quyết của Đảng tại các hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương và trong các văn kiện Đại hội VII cho đến Đại hội XI.
Năm 2007 đánh dấu một mốc thời gian quan trọng, chính là vì lần đầu tiên

18


×