Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến nuôi vỗ thành thục cá dìa(siganus guttatus bloch, 1787) tại xã hải dương, thị xã hương tra, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.67 MB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
Khoa Thủy Sản
……

KHÓA LUẬN

TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến quá trình nuôi vỗ
thành thục cá Dìa (Siganus guttatus Bloch, 1787) tại xã Hải Dương, thị xã
Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Văn Thủ

Lớp

: Nuôi Trồng Thủy Sản k46B

Giáo viên hướng dẫn

: Th.S Trần Nguyên Ngọc

Bộ môn

: Cơ sở thủy sản

Huế 05/2016
1



LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này bản thân tôi đẩ nhận được rất
nhiều sự giúp đỡ vô cùng quý báo về vật chất và tinh thần. Nhân đây cho phép
tôi được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến:
Thầy giáo Th.S Trần Nguyên Ngọc, người đả theo suốt tôi trong quá trình
nghiên cứu, trực tiếp hướng dẫn tôi tận tình, chu đáo trong suốt quá trình thực
hiện khóa luận tốt nghiệp.
Bác Phan Lân chủ tịch hội nghề cá Hương Giang đả nhiệt tình giúp đỡ và
hỗ trợ trang thiết bị, kỹ thuật cho tôi trong suốt thời gian thực tập.
Các thầy cô trong Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Nông Lâm Huế đả
trang bị cho tôi kiến thức trong suốt thời gian ngồi trên ghế nhà trường, luôn
quan tâm giúp đở và động viên tôi trong suốt quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè đồng nghiệp đả
giúp đở và tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề
tài này. Với thời gian học tập ngắn ngủi nên không tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong sự góp ý tận tình của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để khóa
luận được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn.

Huế, tháng 06 năm 2016
Sinh viên: Nguyễn Văn Thủ

2


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

BANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH


3


4


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

5


MỤC LỤC

6


BẢNG QUY ƯỚC CÁC TỪ VIẾT TẮT.

7

TB

: Trung bình

HSTT

: Hệ số thành thục

TLTT


: Tỷ lệ thành thục

GI (Gonado index)

: Hệ số thành thục sinh dục có nội quan

X

: Giá trị trung bình.

Xi

: Giá trị mẫu đo thứ i.

N

: Tổng số mẫu cần đo.

M

:Sai số.

δ

:Độ lệch chuẩn.

n

: Số mẫu



PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Mở đầu
Trong những năm gần đây ngành thủy sản Việt Nam đã có những bước
phát triển mạnh mẽ trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn với giá
trị xuất khẩu đứng thứ 3 cả nước. Các sản phẩm thủy sản cung cấp khoảng 40%
lượng protein động vật trong bữa ăn của người Việt Nam. Tạo ra khoảng 4 triệu
việc làm góp phần chuyển dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp và nông thôn,
cũng như xóa đói giảm nghèo cho hàng triệu người lao động khác.Sản phẩm
thủy sản có vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của con người.Đây
không chỉ là nguồn thực phẩm thiên nhiên giàu đạm mà còn có giá trị về dược
liệu,mỷ nghệ,cân bằng sinh thái. Bởi những vai trò to lớn đó mà thủy sản nói
chung được con người quan tâm từ rất sớm, là đối tượng được con người nuôi và
khai thác tại các thủy vực và vùng ven biển. Với tiềm năng lớn về đất đai,diện
tích mặt nước,nguồn lao động dồi dào,Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát
triển nuôi trồng thủy sản.Hiện nay tình hình dịch bệnh về gia súc, gia cầm ngày
càng tăng nên nhu cầu về thực phẩm có nguồn gốc từ thủy sản ngày càng tăng
cao. Vì vậy, việc mở rộng nuôi trồng thủy sản là một trong những hướng phát
triển chiến lược để đáp ứng nhu cầu về thực phẩm cho con người. Đa dạng hóa
đối tượng nuôi nhằm đa dạng hóa sản phẩm là mục tiêu, xu hướng phát triển của
ngành thủy sản nước ta trong những năm vừa qua cũng như những năm tới, đặc
biệt chú trọng đến những đối tượng bản địa, dể nuôi, có khả năng thích ứng với
môi trường,giá trị thương phẩm cao,góp phần tăng tính bền vững cũa ngành
đang đực nhiều nhà nghiên cứu sản xuất và người dân quan tâm.
Thừa Thiên Huế có hệ thống đầm phá Tam Giang - Cầu Hai với diện tích
hơn 22.000 ha, có tính đa dạng sinh học cao. Trong 230 loài cá phân bố tại vùng
đầm phá Tam Giang – Cầu Hai có nhiều loài có giá trị kinh tế cao như cá hồng,
cá mú, cá dìa,…. Trong đó, cá dìa (Siganus guttatus) là một trong những loài cá
biển có giá trị kinh tế cao phân bố phổ biến tại vùng đầm phá Thừa Thiên Huế.

Cá dìa là loài rộng muối, có khả năng thích ứng với độ mặn từ 1‰ đến 30‰. Cá
dìa (S.gustatus) có tốc độ sinh trưởng khá nhanh, phổ thức ăn rộng. Cá dìa là
loài có khả năng thích ứng với sự thay đổi của các yếu tố môi trường và nhu cầu
thị trường cao, ổn định nên đang được người dân nuôi phổ biến.
Cá dìa là một trong những đối tượng cho sinh sản rất khó khăn,nhiều công
trình nghiên cứu về sinh sản nhân tạo cá dìa đả được công bố nhưng chưa thực
sự mang hiệu quả cao, đáp ứng được nhu cầu về nguồn giống cho thị trường.
8


Một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng con giống,cho tỷ lệ nở và
tỷ lệ sống cao,số lượng con giống nhiều thì phải lựa chọn cá bố mẹ có hệ số thành
thục cao, buồng trứng lớn và nâng cao được sức sinh sản. Để tìm hiểu về cách nâng
cao sức sinh sản cho cá bố mẹ,được sự cho phép cũa Khoa Thủy Sản, Trường Đại
Học Nông Lâm Huế và giáo viên hướng dẩn tôi thực hiện đề tài “ Ảnh hưởng của
các loại thức ăn đến nuôi vỗ thành thục cá Dìa(Siganus guttatus Bloch, 1787) tại
xã Hải Dương, thị xã Hương Tra, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
1.2 Mục đích của đề tài
- Xác định các loại thức ăn phù hợp trong giai đoạn nuôi vỗ cá Dìa bố mẹ
nhằm nâng cao tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ đẻ, tỷ lệ nở và sức sinh sản của cá Dìa.
- Tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao khả năng sinh sản của cá Dìa, mang
lại hiệu quả kinh tế cho người sản xuất.

9


PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm sinh học của cá dìa
2.1.1. Đặc điểm phân bố
Theo Woodland (1983), hiện nay trên thế giới có 26 loài cá trong họ cá Dìa

(Siganidae), phân bố ở vùng biển của các châu lục, sống đáy nơi các dãy san hô
ngầm, nước lợ ven biển. Phân bố phía Đông Châu Á Thái Bình Dương, chủ yếu
các nước như là Thái Lan, Malayxia, Singapore, Indonexia, Việt Nam, Đài Loan,
Philippine và phía Nam Trung Quốc. Cá có thể di chuyển từ phía Đông Nam
Châu Á Thái Bình Dương đến các khu vực và các địa phương phía Bắc.
Cá Dìa (Siganus guttatus) có kích cỡ trung bình, cá lớn nhất đạt 42cm và trọng
lượng khoảng 1,5kg. Giống (ấu trùng) thường tập trung ở vùng ven biển có thảm
cỏ quanh các lạch sông. Khi đạt kích thước nhất định chúng rời các cửa sông
đến vùng triều tìm đến các rạn san hô gần bờ có độ sâu 6m để đẻ trứng. Theo
Burgan và Zseleczky (1979) cá con sống quanh những rễ cây nơi có những bóng
râm ở vùng nước mặn, vịnh nước nông hoặc cửa sông. Cá trưởng thành sống
ven biển, nhưng thường ra vào các sông ngòi và cửa sông (Alaca, 1979; Soh và
Lam,1973).

Hình 2.1. Sự phân bố của cá Dìa (S.gustatus)
Cá dìa thích nghi với môi trường sống ở biển, các rạn san hô vùng nước lợ; Độ sâu: 0 25 m . Nhiệt độ: 24°C - 28°C. Cá phân bố ở các vùng biển thuộc Đông Ấn Độ
10


Dương và Tây Thái Bình Dương: quần đảo Andaman, Thái Lan, Malaysia,
Singapore, Indonesia (bao gồm cả Irian Jaya), Việt Nam, Ryukyus, miền nam và
miền đông Trung Quốc, Đài Loan, Biển Đông, Philippines, và Palau.
Cá Dìa có thể chịu được sự thay đổi độ mặn khá cao. Pilaii (1962) lưu ý rằng cá Dìa
có thể không chịu được độ mặn thấp và nhiệt độ cao. Tuy nhiên, Carumbana và
Luchavez (1979) lại quan sát thấy cá con S. guttatus (37- 43 mm SL) có thể chịu
được khi ở các điều kiện này. Tỷ lệ chết của loài S. guttatus là 28% sau 2 ngày.
Nồng độ tối ưu cho sự phát triển và sống còn của các loài là 10%o Cá Dìa có thể
chấp nhận nồng độ oxy thấp. Cá con có thể chịu được sự thay đổi nhiệt độ giữa 23
và 260C. Theo Gundermann (1983) thì các loài cá có thể chịu dược pH ở phạm vi
rộng và cũng có thể chịu được khi có yếu tố xử lý mạnh và chật chội.

2.1.2. Đặc điểm hình thái
Cá dìa có 13 tia vây lưng cứng, 10 tia vây lưng mềm, 7 tia cứng vây hậu môn; 9 tia
mềm vây hậu môn; 13 đốt sống. Lưng có màu sẫm, bụng có màu bạc,
Preopercular 91 ° -102 °; vảy mạnh đủ trang trải các má; đường giữa ngực thu
nhỏ. Lỗ mũi trước thấp, hơi mở rộng ra phía sau. Gai mập mạp, cay, có nọc độc.
Chiều dài tối đa: 42,0 cm [10]; chiều dài phổ biển: 25,0 cm.
2.1.3. Đặc điểm sinh trưởng và dinh dưỡng
Giai đoạn ấu trùng: Ống tiêu hoá của S.gut
tatus được nghiên cứu về phôi học và mô học. Bắt đầu như một ống thẳng, sau đó
xoắn lại 8 - 9 giờ sau khi nở cùng với việc hấp thụ noãn hoàng. Gan bắt đầu phát
triển vào ngày thứ nhất như một tấm mầm tế bào lỏng lẻo. Nó to lên và kích cỡ
noãn hoàng trở nên nhỏ đi, khác biệt đến ngày thứ năm. Noãn hoàng được hấp
thụ lại sớm hơn các hạt dầu nhỏ ở ngày thứ hai và thứ ba; điều đó ngụ ý rằng
chất noãn hoàng được sử dụng cho tổng hợp các cơ quan còn các hạt dầu nhỏ
tích luỹ năng lượng. Ấu trùng S. guttatus sinh trưởng rất nhanh trong 24 giờ.
Mồm loài này mở ra tại 36 giờ sau khi nở, học cách ăn lúc 60 giờ sau khi nở và
noãn hoàng tái hấp thu tại 72 giờ sau khi nở (Baraginao,1986). Ấu trùng của S.
guttatus tiêu thụ noãn hoàng của chúng và bắt đầu dinh dưỡng vào ngày thứ hai.
Tuy nhiên, tỷ lệ chết xảy ra rất cao ở những ngày đầu, đặc biệt rất cao ở ngày
thứ 3 và 4 [17], [15] do thiếu loại thức ăn phù hợp. Cho ăn bằng Brachionus (cỡ
nhỏ hơn 90 µm) cỡ 10 - 20 cá thể/ml tăng tỷ lệ sống sót trong giai đoạn ấu
trùng .Chlorella, Tetraselmis và Isochrysis là những nguồn thức ăn của ấu trùng
nhưng chúng không được sử dụng quá ngày thứ 4. Ấu trùng nauplii của giáp xác
chân chèo (copepoda) nhỏ hơn Brachionus và vì vậy thích hợp hơn cho giai
11


đoạn dinh dưỡng đầu tiên của ấu trùng cá Dìa. Trong các trại giống, ấu trùng cá
Dìa dinh dưỡng bằng ấu trùng nauplii của Brachionus, Artemi và thức ăn nhân
tạo.

Ấu trùng mới nở thường trôi nổi rất yêú và có chiều dài toàn thân khoảng 1,5-2,6mm.
Ruột của chúng thẳng, mắt chưa có sắc tố và miệng chưa hình thành, ở loài
S.guttatus túi noãn hoàng có kích thước 0,70 x 0,24mm và có 2 giọt dầu . Ấu
trùng của loài S. guttatus bộc lộ tính ưa ánh sáng và dòng chảy lần lượt thể hiện
khi cá đạt chiều dài toàn thân là 2,6mm và 2,7 mm; tính ưa ánh sáng biến mất ở
cỡ 9,2 mm. Ấu trùng ổn định ở bể đáy ương ở cỡ 19,6 mm.
Nhu cầu dinh dưỡng của ấu trùng Siganids cho đến nay vẫn còn chưa biết rõ. Ấu
trùng của S.guttatus ở 2,6 mm chiều dài toàn thân (TL) ban đầu dinh dưỡng
bằng luân trùng và ở chiều dài toàn thân 4,4 mm (ngày 12) dinh dưỡng bằng tôm
biển. Ấu trùng của loài S.guttatus từ ngày thứ 9 (3,7 mm TL), ngày 15 (5,8 mm
TL) và ngày 21 (7,9 mm TL). Đối với mọi nhóm tuổi, tỷ lệ ấu trùng có thức ăn
trong dạ dày giảm xuống vào ban đêm và xuống tới 0 vào lúc 22h, ấu trùng
thường ăn mạnh vào sáng sớm. Sự chán ăn thường xãy ra vào khoảng 8-10 giờ
sáng.
Giai đoạn cá con:Ở giai đoạn ấu trùng, cá Dìa ăn động vật phù du, sang giai đoạn
con non và con trưởng thành lại dinh dưỡng hoàn toàn bằng cỏ (Suyehiro,
1942). Chúng ăn bằng cách rỉa thực vật dưới biển, thường cúi đầu gặm cỏ, đầu
hướng xuống dưới cả ngày lẫn đêm (Gunderman, 1983). Phân tích dạ dày cho
thấy những cá bị nhốt thích tảo trong khi cá ngoài tự nhiên thì không thích
(Merta, 1982). Loài S.guttatus rất thích Eteromorpha. sp trong phòng thí nghiệm
nhưng ngoài tự nhiên thì ngược lại (Westernhagen,1974). Siganus guttatus và
một số loài cá Dìa khác khi được nuôi chấp nhận nhiều loại thức ăn (Carumbana
và Luchavez, 1979). Con non và con trưởng thành ngoài tự nhiên ăn bất cứ loài
tảo nào mà chúng có thể kiếm được và tiêu hoá. Chúng ăn rất tích cực vào buổi
sáng và ít hơn về ban đêm (Zseleczky,1979; Hasse, 1977). Để có những hiểu
biết tốt hơn về tính ăn của cá Dìa, các nghiên cứu về dinh dưỡng và enzym đã
được tiến hành, Parazo (1989) đã chỉ ra tỷ số tăng trưởng cụ thể của cá Dìa non
(S.guttatus) tăng lên theo từng mức protein và năng lượng. Fao cũng thừa nhận
rằng cá Dìa có khả năng sử dụng khẩu phần là mỡ và cacbonat trong một chừng
mực nào đó để sử dụng protein cho tăng trưởng.

Giai đoạn cá trưởng thành: Loài Siganus guttatus dinh dưỡng bằng thức ăn dạng
viên thương phẩm (20% protein) với khối lượng 2% trọng lượng của cơ thể
đựoc giữ thường xuyên trong các bể . Cá đẻ trứng hàng tháng nếu được dinh
dưỡng bằng thức ăn có hàm lượng protein cao, nhưng vẫn có sự suy giảm trong
12


tỷ lệ thụ tinh, nở và chất lượng ấu trùng với tuổi cá bố mẹ. Soletchnick (1984)
đã gợi ý rằng cá bố mẹ cần được duy trì ở một khẩu phần ăn ít năng lượng và
protein có hàm lượng tro cao. Đối với mục đích đẻ trứng, cá nên được cho ăn
thức ăn giàu năng lượng và protein, nhưng nghèo tro. Một cá mẹ có thể đẻ 4
tháng liên tục khi được dinh dưỡng bằng khẩu phần ăn có cho thêm 10% pollack
hoặc dầu từ gan cá tuyết to đầu. Thức ăn chứa nhiều dầu từ gan cá tuyết to đầu
hoặc kết hợp thêm đậu tương hoặc lecithin làm cho cá đẻ liền trong 13 tháng. Cá
bố mẹ của loài S. guttatus dinh dưỡng với khẩu phần ăn có chứa 18% mỡ từ các
nguồn này sẽ giúp cho cá có thể đẻ nhiều hơn và tỷ lệ sống sót của ấu trùng cao
hơn những cá dinh dưỡng bằng khẩu phần thức ăn chỉ có 12 - 15% mỡ. Ấu trùng
từ những nguồn cá bố mẹ này thường to hơn. Không có tác động đáng kể nào tới
sự thụ tinh, dung lượng của noãn hoàng và tỷ lệ nở theo 3 mức dinh dưỡng.
Rất nhiều nghiên cứu về sự phát triển cá Dìa đã cho các kết quả mâu thuẫn có thể là
do sự khác nhau về hệ thống nuôi và chế độ cho ăn. Cá S. guttatus trong lồng
chậm ở giai đoạn cá con nhưng rất nhanh ở giai đoạn tiền trưởng thành. Theo
Miranda (1984), tỷ lệ thả giống thích hợp ở ao là 50 con/m 2. Khi cho ăn cám gạo
cá phát triển nhanh hơn nhưng tỷ lệ sống thấp. Lumot (tảo lục dạng sợi) làm
thức ăn tốt hơn lap-lap của tảo lục- lam, tảo silíc và các vi khuẩn khác.
2.1.4. Đặc điểm sinh sản
Vòng đời của cá dìa trong tự nhiên hầu như đã được biết đến (Thresher,1984).
Chúng có chu kỳ sinh sản hàng năm, trong thời gian nhất định vào mùa xuân và
đầu mùa hè (Lam,1974). Lam (1974) báo cáo rằng juvenile của
Siganuscanaliculatus xuất hiện vào cuối mùa xuân, thành thục sinh dục vào mùa

đông sau, và đẻ trứng vào mùa xuân. Hasse và ctv (1977) lưu ý rằng cá có thể đẻ
trứng nhiều lần trong một năm nhất định, và có thể đạt ít nhất hai năm tuổi thọ.
Sinh sản tự nhiên của các loài thuộc Siganidae đã được quan sát ở S.argenteus
(Tobias, 1976; Luchavez và Carumbana,1982), S. Canaliculatus (McVey, l972),
S. Chrysosphilos (Tridjoko và ctv.,1985); S. Guttatus (Soletchnik, 1984; Juario
và ctv.,1985; Hara và ctv.,1986), S. Rivulatus (Popper và ctv.,1973), S. Virgatus
(Tridjoko và ctv.,1985) và S. Vermiculatus (Popper và Gtmdermann,1976).
McVey (1972) phát biểu rằng mức độ thủy triều là yếu tố quan trọng nhất trong
sinh sản của S.canaliculatus; điều này cũng giống với khẳng định của Manacop
(1937) rằng loài này đẻ khi thủy triều rút. Lavina và Alcala (1974) ghi nhận là
việc sinh sản xảy ra trong ở tầng gần mặt của những vùng nước mở.
Sinh sản tự nhiên tuân theo chu kỳ trăng, ví dụ S.guttatus, sinh sản vào khoảng 2-3
ngày sau 7 ngày đầu tiên của chu kỳ trăng trong suốt cả năm (Hara và ctv.,
13


1986). Những quả trứng được phóng thích khi sinh sản tự nhiên ở loài S.guttatus
chiếm khoảng 12% số lượng tế bào trứng trong buồng trứng và mất 5-10% trọng
lượng cơ thể của con cái mỗi tháng (Soletchnik, 1984). Theo kết quả nghiên cứu
về mô (Juario và cộng sự, 1985), cá đực S. guttatus sinh ra từ trại giống, thành
thục ở 10 tháng tuổi đạt chiều dài toàn thân 19 cm, con cái thành thục 12 tháng
tuổi chiều dài 21,5 cm.
Soletchenik (1984) quan sát thấy sự thành thục đầu tiên của con S. guttatus cái nuôi
nhốt ở cỡ 200g (34cm) và con cái sinh ra từ trại giống ở cỡ 260g (20-22cm).
Chất lượng và số lượng cho ăn là yếu tố quan trọng đối với sự thành thục của
loài. Hầu hết con cái ăn thức ăn công nghiệp chứa 43% protein đều đặn một
tháng một lần trong suốt thời gian sinh sản 11 tháng, cá dìa càng lớn cho lượng
trứng càng nhiều (Soletchenik, 1984).
Cá 400g có chỉ số so sánh dinh dưỡng sinh sản (GSI) là 13,8 đẻ 0,8 triệu trứng. Cá
520g có 12,6 GSI cho 1,2 triệu trứng (Soletchenik, 1984). Hara (1987) dựa trên

cơ sở sự theo dõi hàng tuần GSI và cỡ trứng của cá ở thủy vực Cebu- Bohol
(Philippin) trong 12 tháng cho thấy khi GIS lớn hơn 7,0 cá có thể đẻ được. Theo
Soletchenik (1984) trứng cá dìa (S.guttatus) xuất ra trong 1 đợt sinh sản tự nhiên
chiếm khoảng 12% số lượng noãn bào và làm mất khoảng 5-10% trọng lượng
con cái mỗi tháng.
Tại bang nuôi trồng thủy sản thuộc SEAFDC, người ta đã tiến hành cho loài cá
dìa(Siganus gutatus) sinh sản nhân tạo và đã thành công. Cá cái sinh sản hàng
tháng trong bể bằng vải bọt đường kính 6cm cá cái được kích thích đẻ tự nhiên
bằng các loại hooc mon HCG, Citrat clomiphine. Để đáp ứng về tinh của cá dìa
đực trưởng thành người ta đã tiêm cho cá đực loài S. guttatus hoocmon LHRH

a

6
cùng với spermatocit (68%) và một số tinh trùng là 14.1*10 tinh trùng 1ml tinh
dịch: việc sản xuất tinh dịch được duy trì suốt 3 tuần liên tiếp bằng các cách
tiêm thường xuyên 200ml LHRH . Tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở, tổng số trứng đẻ
a
bằng tổng số ấu trùng sinh ra cũng giống như trong sinh sản tự nhiên. Các nhà
nghiên cứu còn cho rằng, sự thay đổi môi trường (có thể giảm mực nước, gây
phản ứng stress cũng có tác dụng làm tăng sự sinh sản hằng tháng nhưng để đảm
bảo 100% cá đẻ vẩn còn có thêm kích dục tố ngoại sinh. Trứng nở tự nhiên
o
thường được độ măn từ 3-71 /
o
chịu được độ mặn tới 68 /
14

oo,


với tỷ lệ nở là 90%. Trứng đẻ do kích thích

. Kết quả nghiên cứu cho thấy độ mặn thích hợp là

oo


o
từ 20-32 /

oo

để ấp trứng và ương ấu trùng, tỷ lệ sống củng được cải thiện khi

0
ương ở nhiệt độ từ 22-26 C.
Sự biến thái của ấu trùng gần như thay đổi nhanh chóng và rõ ràng về hình dạng bên
ngoài. Ấu trùng loại S. guttatus khi nở dài 1.42mm, nhưng chúng phát triển cực
nhanh trong 16 giờ đầu mặc dù khối lượng cơ thể giảm đi trong giờ đầu tiên, cỡ
miệng chỉ đạt 0.08 mm, khoảng 1.5 giờ sau thì chúng ăn lần đầu tiên. Thức ăn
chúng ưa thích là luân trùng nhỏ (80-120 µm). Juario và cộng sự (1985) đã tiến
hành cho loài cá Siganus guttatus ăn tảo, luân trùng, artemia, thức ăn nhân tạo
trong quá trình ương cá bột và đã đạt được những thành công. Sau khi nở 45
ngày, ấu trùng chuyển thành cá bột với độ dài khoảng 10mm. Cá dìa (S.
guttatus) đã được nuôi ở các môi trường khác nhau với các kích cỡ khác nhau,
sau đây là tốc độ phát triển trung bình của cá dìa (S. guttatus) ở những môi
trường nuôi khác nhau.
Một số loài cá dìa đã được nuôi từ lâu đời ở Philippin dưới các hình thức nuôi đơn,
ghép với cá Măng và phần lớn là nuôi trong ao. Ao nuôi cá dìa có thể lấy nước
lợ trực tiếp từ sông, nếu phải phụ thuộc vào nguồn nước từ các ao bên cạnh

thường thất bại vì chất lượng nước không đảm bảo. Ao ương chiếm khoảng 1/5
tổng diện tích, cá đựợc nuôi trong ao ương khoảng 1 tháng với tỷ lệ thả giống là
200.000-300.000 con/ha. Ao chuyển tiếp chiếm khoảng 1/4 hoặc 1/3 diện tích,
được đặt gần ao ương hoặc ao nuôi vỗ, cá được nuôi ở đây khoảng 1 tháng với
mật độ thả giống là 60.000-100.000 con/ha. Cá nuôi vào khoảng 3-4 tháng với
mật độ thả giống là 1.500-2.000 con/ha phụ thuộc vào thức ăn trong ao và cỡ cá
giống.
Ở Indonesia, cá dìa là loài cá có giá trị và sinh sống ở nhiều đầm phá. Yếu tố liên
quan tới sự phát triển nghề nuôi cá dìa ở nước này trong tương lai bao gồm mối
quan hệ về lợi ích kinh tế và nhu cầu thị hiếu (Woodland, 1979; Duray, 1990).
Tuy cá dìa đã được nuôi phổ biến ở một số nước nhưng vẫn còn nhiều vấn đề
phải nghiên cứu tiếp. Có 6 vấn đề cần được xác định là: Cần điều tra về loài để
xác định loài nuôi phù hợp và các yếu tố thị trường; Cần nghiên cứu kỹ về thức
ăn có sử dụng các nguyên liệu giá rẻ và sẵn có ở địa phương, nhu cầu thức ăn
của cá bố mẹ và ấu trùng; Nghiên cứu kỹ thuật nuôi trong các điều kiện khác
nhau như nuôi ao, lồng bè …; Hiện sinh sản nhân tạo không còn là trở ngại
nhưng phải nghiên cứu sản xuất giống có quy mô lớn đối với các loài khác nhau
nhất là ở Việt Nam việc sản xuất giống đại trà vẫn chưa được tiến hành, người
dân chủ yếu là vớt giống ngoài tự nhiên để ương nuôi; Cần hoàn thiện thêm để
đưa ra các tiêu chuẩn về các phương pháp thu hoạch, vận chuyển. Nghiên cứu
15


tiếp về các loại bệnh và cách phòng trị. Và điều cuối cùng là cũng cần tìm hiểu
các vấn đề về kinh tế xã hội của các trại nuôi cá dìa và nghề nuôi cá dìa nói
chung.
Hara và ctv. (1986) tiến hành quan sát các hành vi sinh sản của S.guttatus. Trước khi
sinh sản thực sự, con đực và con cái bơi kèm sát nhau. Chúng bơi từ từ gần mặt
nước, con đực thường theo sau con cái. Khi đẻ trứng, con đực tiếp cận con cái,
chạm vào vùng hậu môn của con cái, sau đó tách ra khỏi con cái. Sau thời gian

kích thích của con đực, con cái đẻ một lượng nhỏ trứng và con đực phóng tinh
dịch. Chúng sẽ trở lại tĩnh lặng trong một thời gian, sau đó trứng và tinh dịch
được phóng ra nhiều hơn. Hành vi sinh sản này tương tự như của S.
Vermiculatus (Gundermann và ctv., 1983; Popper và Gundermann,1975), S.
Canaliculatus trong tự nhiên (Manacop, 1937), và S. rivulatus, S. Luridustrong
điều kiện nuôi nhốt (Popper và Gundermann, 1975).
Trứng của cá dìa khi chín có dạng cầu, nhỏ, bám dính mạnh, có nhiều giọt dầu hình
cầu, chìm trong nước (Lam, 1974; Leis và Rennis, 1983) trừ trứng của loài S.
argenteus là dạng trứng trôi nổi tự do và không bám dính (Burgan và Zseleczky,
1979; Luchavez và Carumbana, 1982). Manacop (1937) cho rằng sự cấu tạo lưới
ở màng trứng của loài S. canaliculatus là nguyên nhân gây ra sự bám dính của
trứng. Cấu tạo lưới này không thấy rõ ở trứng của S. guttatus (Hara và ctv.,
1986). Trứng phát triển nhanh chóng và nở trong 25 đến 32 giờ ở 27-29°C (May
và ctv., 1974; Popper và ctv,1973; Von Westernhagen và Rosenthal, 1975). Ấu
trùng mới nở có kích thước từ 0,76mm ở S.canaliculatus (Thresher, 1984) đến
2,60mm ở S.fuscescens (Fujita vàUeno,1954). Ấu trùng cá dìa là sinh vật phù du
và ăn noãn hoàng của chúng trong vòng hai hoặc ba ngày (Poppervà ctv., 1973).
Thời gian trung bình của giai đoạn phù du khoảng 25 ngày (23ngày đối với
S.canaliculatus (May và ctv.,1974); 29ngày đối với S.leneatus (Bryan và
Madraisau,1977). Hầu hết các loài cá dìa có thể đẻ trứng trong điều kiện nuôi
nhốt nhiều tháng trong năm. Khả năng đẻ trứng liên tục quanh năm của
S.guttatus ở điều kiện bị giam cầm đãđược báo cáo bởi Hara và ctv(1986). Phát
hiện này cho rằng xử lý nội tiết tố (Bryan và ctv, 1975) có thể không cần thiết
nếu cho sinh sản vào đúng những ngày tháng âm lịch. Bên cạnh đó, dinh dưỡng
của cá mẹ là một yếu tố thành công tự nhiên (Lam, 1974; Hara và ctv, 1986).
Người ta đã quan sát hiện tượng sinh sản tự nhiên diễn ra trong điều kiện nuôi nhốt
ở loài S. guttatus (Soletchnik, 1984; Juario và cộng sự,1985; Hara và cộng
sự,1986). Việc sinh sản tự nhiên diễn ra theo chu kỳ trăng, loài S. guttatus sinh
ra vào khoảng 2-3 ngày sau 7 ngày đầu tiên của chu kỳ trăng trong suốt cả năm
(Hara và cộng sự, 1986). Cá Dìa cũng được kích thích đẻ tự nhiên bằng hooc

16


môn. Đối với cá Dìa (S. guttatus) tiêm HCG với liều 2IU/g tỷ lệ cá đẻ là 25%
sau 4 lần tiêm (Palma,1978), với Clomiphinecitrate 2IU/g đẻ sau 2 lần tiêm, kết
quả phụ thuộc vào đường kính noãn bào (Juario và cộng sự, 1985); Với HCG
2IU/g đẻ 100% (Ayson 1990,1989); với LRH-a 6,7mg/viên/250g cá cá đẻ 8-9
ngày sau khi cấy hoóc môn dạng viên (Havey và cộng sự, 1985). Trứng xuất ra
trong một đợt sinh sản tự nhiên của loài S. guttatus (Soletchnik, 1984) chiếm
khoảng 12% số lượng noãn bào và làm mất 5-10% trọng lượng con cái mỗi tháng.
Về tập tính sinh sản ở loài S.guttus, Hara và cộng sự (1986) quan sát thấy con đực
đuổi theo và thúc vào bụng con cái. Con đực tiếp tục bơi gần con cái, thỉnh
thoảng lại thúc lần lượt vào nắp mang, vùng hậu môn và cuống đuôi. Con cái
sau đó đẻ trứng và con đực xuất tinh, cả hai con bơi rất năng động quanh bể. Tất
cả những lần quan sát được đều xãy ra vào khoảng giữa những ngày trăng non
và trăng rằm. Các kết quả của một nghiên cứu trong một năm về chu kỳ sinh sản
của cá Dìa (S. guttatus) ở các vùng nước ở Cebu-Bohol (Philipin) trùng với quan
sát trước đây là cá nuôi nhốt sinh sản trong tuần đầu tiên của chu kỳ trăng (Hara
và cộng sự,1986). Hầu hết cá Dìa trong tự nhiên có một mùa đẻ nhất định, cá
Dìa nuôi nhốt sinh sản suốt năm. Theo Soletchnik (1984); Hara và cộng sự
(1986 ) cá S. guttatus ở Philipin đẻ quanh năm.
Sự phát triển của phôi phụ thuộc rất lớn vào nhiệt độ và đường kính trứng. Trứng cá
S. guttatus đã thụ tinh có đường kính 0,46mm mất khoảng 28 - 31 giờ để nở ở
nhiệt độ 25 - 27oC (Palma, 1978), đường kính 0,55mm nở sau 20 - 26 giờ ở nhiệt
độ 26 - 30oC (Juario và cộng sự, 1985), còn đường kính 0,54 - 0,60mm mất 18 20 giờ ở nhiệt độ
26 - 28oC (Hara và cộng sự, 1986).
Ấu trùng mới nở thường trôi nổi rất yêú và có chiều dài toàn thân khoảng 1,52,6mm. Ruột của chúng thẳng, mắt chưa có sắc tố và miệng chưa hình
thành, ở loài S.guttatus túi noãn hoàng có kích thước 0,70 x 0,24mm và có
2 giọt dầu (Hara và cộng sự, 1986). Ấu trùng của loài S. guttatus bộc lộ tính
ưa ánh sáng và dòng chảy lần lượt thể hiện khi cá đạt chiều dài toàn thân là

2,6mm và 2,7 mm; tính ưa ánh sáng biến mất ở cỡ 9,2mm. Ấu trùng ổn định ở
bể đáy ương ở cỡ 19,6mm (Hara,1987).
Ở lần mở miệng đầu tiên, cỡ miệng của S.guttatus chỉ là 0,08mm ở 30,5 giờ sau khi
nở. Lần ăn đầu tiên xuất hiện vào 1,5 giờ sau khi mở miệng và thức ăn ưa thích
là luân trùng nhỏ (80 -120µm).

17


2.2. Tình hình nghiên cứu cá dìa trên thế giới và ở Việt Nam
Theo nghiên cứu của các nhà ngư loại học, họ cá dìa (Siganidae) ở Việt
Nam có 15 loài (danh mục cá biển Việt Nam, 1996). Vùng đầm phá thừa Thiên
Huế chỉ có 4 loài; S. guttatus, S. oramin, S.sp, S. fusceceus (Nguyễn Văn Tiến,
2000, Võ Văn Phú, Lê Văn Miên, 2001). Trong đó cá dìa ( S. guttatus) là loài cá
nước lợ điển hình, có giá trị kinh tế nhất, loài này thường gặp ở vùng nước nông
ven bờ. Ở vùng đầm phá, chúng phân bố rộng từ cửa biển nơi có nồng độ muối
o
khá cao (>20 /

o
) đến vùng cửa sông, nơi có nồng độ muối thấp (1-2 /

), (Võ
oo
oo
Văn Phú, 2001). Nhờ sự thích nghi rộng muối và rộng nhiệt, cá dìa xuất hiện
quanh năm và có thể nuôi trên toàn bộ đầm phá.
Các nghiên cứu về thành phần thức ăn tự nhiên của cá dìa, đã xác định
được 34 loài. Trong đó tảo Silic chiếm ưu thế 20 loài. Về khối lượng các loài
thực vật chiếm ưu thế, ngoài ra còn có một ít động vật có xương sống. Phổ thức

ăn của cá phù hợp với thức ăn có trong môi trường (Võ Văn Phú, 2001). Dựa
vào đặc điểm này có thể thấy cá là đối tượng nuôi thả tốt. Các nghiên cứu gần
đây về nguồn lợi cá dìa cho biết sản lượng cá dìa trong thời gian qua suy giảm
rõ rệt. Nguyên nhân là do người dân sử dụng nhiều loại ngư cụ khác nhau: lưới
vây, chuôm, te máy, xiết điện …để khai thác quanh năm. Đặc biệt nghề đáy
dùng đụt đáy có mắt lưới quá nhỏ nên hầu hết cá dìa giống trôi từ biển vào đều
bị chết, làm cho nguồn lợi cá dìa trong đầm phá gần như cạn kiệt. Việc sản xuất
thức ăn và kỹ thuật cho ăn là một trong những khâu quan trọng trong sản xuất
giống. Ngày nay với nhiều kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất thức ăn nhân tạo cho
ấu trùng, những loại thức ăn tươi sống như: tảo, luân trùng, giáp xác và Artemia
vẫn được xem là nguồn thức ăn quan trọng và có tiềm năng lớn trong sản xuất
giống. Nhiều loại tảo đã được nghiên cứu nuôi trong phòng thí nghiệm và nuôi
sinh khối như: Thalasiossirapseudomonas,Skeletonema, Chaetoceroscalcitrans,
Chaetocerosmulleri, Nannochloropsis ocula, Chlorella minutissma, Isochrisis
galbana, Pavlova viridi,Phaeodactylum triconutum, Tetraseomis, luân trùng
(Brachionusplicatilis), ấu trùng 2 mảnh vỏ, ấu trùng tôm, cá theo nhiều phương
pháp khác nhau.
Theo Lê Đức Ngoan và CTV., 2003 có kết quả nghiên cứu khoa học cấp
bộ đã xác định thành phần thức ăn trong ống tiêu hóa của cá dìa là 37 chi thuộc
8 ngành động vật và thực vật. Ở Thừa Thiên Huế, cá dìa là loài cá nước lợ đặc

18


sản nổi tiếng, có nhiều ở đầm Cầu Hai. Giá cá dìa tại các nhà hàng hiện nay là từ
130.000-150.000đ/kg, Nguyễn Văn Huy và Nguyễn Văn Huệ, 2007.
Báo cáo tổng kết công tác nuôi trồng thủy sản năm 2005 và phương
hướng nhiệm vụ kế hoạch năm 2006 của Sở thủy sản tỉnh Thừa Thiên Huế, tỉnh
đã phát triển đa dạng hóa đối tượng, trong lúc tình hình nuôi tôm gặp khó khăn,
năm 2006 nhiều địa phương đã mạnh dạn chuyển sang nuôi các đối tượng khác,

nghề nuôi cá dìa, cá Hồng , cá Mú …bằng lồng phát triển mạnh ở vùng gần cửa
biển Tư Hiền, Hải Dương, Lộc Bình,…Tổng số lồng nuôi là 246 cái, sản lượng
thu hoạch là 53 tấn. Quảng Điền đã thử nghiệm nuôi xen ghép trong ao nuôi tôm
các đối tượng mới như cá dìa …có kết quả và mở ra triển vọng phát triển mô
hình này đối với các loại ao chìm trên đầm phá hiện nuôi tôm không hiệu quả.
Năm 2005, trung tâm khuyến ngư đã sản xuất nhân tạo thành công giống cá dìa,
mở ra hướng mới cho sản xuất cung cấp giống cá dìa cho nuôi trồng thủy sản
năm 2006 đồng thời đưa ra những mô hình mới có kết quả tốt như nuôi tôm Sú
kết hợp cá dìa và trồng rong câu. Toàn tỉnh sẽ chuyển đổi đối tượng nuôi thủy
sản từ 15-20 ha ao nuôi vùng hạ triều bị ô nhiễm không nuôi tôm được sang
nuôi cá dìa, rong câu và tôm.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu cá dìa chưa được công bố nhiều trên các tài
liệu cũng như các phương tiện thông tin mà chỉ là những báo cáo khoa học nhỏ,
lẻ, chưa có hệ thống. Người dân đa phần nuôi cá theo kinh nghiệm chứ chưa có
kỉ thuật nuôi hoàn thiện. Do vậy cần nhiều hơn sự quan tâm, đầu tư nghiên cứu
của các nhà khoa học Việt Nam. Một số thành công bước đầu nghiên cứu về cá
Dìa ở nước ta:Theo nghiên cứu của các nhà ngư loại học, họ cá Dìa ở Việt Nam
có 15 loài (Danh mục cá biển Việt Nam, 1996). Ở vùng đầm phá Thừa Thiên
Huế có 4 loài (Võ Văn Phú, 2001) [4]. Trong đó cá Dìa S. Guttatus là loài cá
nước lợ điển hình có giá trị kinh tế nhất, thường gặp ở vùng nước nông ven bờ.
Vùng đầm phá chúng phân bố rộng từ vùng cửa biển có nồng độ muối cao đến
vùng cửa sông nơi nồng độ muối chỉ đạt 1 – 2ppt. Nhờ sự thích nghi rộng muối
và rộng nhiệt cá Dìa xuất hiện quanh năm và có thể nuôi trên toàn bộ đầm phá.
Theo Lê Thị Nam Thuân (1996) cá Dìa trong điều kiện tự nhiên, chin muồi sinh
dục và đẻ vào tháng 4. Chúng có thể đẻ trứng kéo daì và kết thúc vào tháng 8.
Một số nghiên cứu về sinh sản nhân tạo cá Dìa như: Dự án sản xuất giống cá
Dìa do Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Thừa Thiên Huế thực hiện (2003 – 2005)
dưới sự hỗ trợ kỹ thuật của chuyên gia đến từ Trung tâm nghiên cứu ngề cá
Đông Nam Á. Nghiên cứu của Lê Văn Dân (2006) về sự phát tiển tuyến sinh dục
cá Dìa, một số chỉ tiêu sinh học sinh sản và nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá Dìa ở

19


Thừa Thiên Huế. Tuy đã có những nghiên cứu về sản xuất giống cá Dìa ở Việt
Nam, nhưng đến nay vẫn chưa sản xuất được con giống để cung cấp cho người
nuôi.
2.3. Tình hình nghiên cứu cá dìa tại Thừa Thiên Huế
Cá dìa là đối tượng nuôi có giá trị kinh tế ở đầm phá tỉnh Thừa Thiên
Huế. Mùa vụ sinh sản tự nhiên của cá dìa từ tháng 8 ðến tháng 3 nãm sau (Lê
Vãn Dân và cộng sự, 2006). Cá dìa có kích thước 1,5 - 5 cm xuất hiện ở đầm
phá Thừa Thiên Huế từ tháng 3 đến tháng 9, tập trung vào các tháng 3, 4, 5 tại
khu vực Tam Giang, Đầm Sam và cửa Tư Hiền.
Năm 1980, Hoàng Đức Đạt, Võ Văn Phú nghiên cứu về đặc tính sinh học
của cá dìa - Siganus guttatus ở đầm phá nam tỉnh Bình Trị Thiên. Năm 1991, Võ
Văn Phú dẫn liệu về đặc tính sinh học của một số loài cá kinh tế ở vùng đầm phá
tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 1995, Võ Văn Phú nghiên cứu khu hệ cá và đặc điểm
sinh học 10 loài cá đầm phá Thừa Thiên Huế [9]. Năm 1998, Võ Văn Phú
nghiên cứu dẫn liệu bước đầu về đặc tính sinh trưởng và dinh dưỡng của cá dìa
(Siganus guttatus) ở đầm phá Thừa Thiên Huế. Năm 2006, Lê Đức Ngoan
nghiên cứu phát triển nuôi cá dìa (Siganus guttatus) và tôm he Rằn (Peanus
semisulcatus) ở vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế.
Lê Đức Ngoan, Lê Văn Dân, 2006 “Nghiên cứu sự phát triển tuyến sinh
dục của cá dìa (Siganus guttatus, Bloch, 1787) ở vùng đầm phá Thừa Thiên Huế,
đã nghiên cứu được chu kỳ phát dục của noãn sào cá Dìa không rõ ràng, chỉ bắt
gặp cá thành thục vào tháng 3 và tháng 5, tỷ lệ thành thục thấp (8,3%). Trong
năm, thời gian thành thục của cá Dìa đực từ tháng 3 đến tháng 7 năm sau, tỷ lệ
thành thục cao vào tháng 3 (72,7%) và tháng 6 (61,5%). Cá dìa là loài cá đơn tính,
trong cấu trúc tế bào học tuyến sinh dục có nhiều tế bào sinh dục phát triển qua
các thời kỳ khác nhau, tế bào trứng chín có kích thước khác nhau chứng tỏ cá đẻ
nhiều đợt, nhiều lần trong năm và thời gian đẻ kéo dài. Không tìm thấy tuyến sinh

dục của cá dìa ở giai đoạn V và VI, chứng tỏ cá không sinh sản ở vùng đầm phá
Thừa Thiên Huế [1]. Lê Văn Dân, Lê Đức Ngoan, 2006, Một số tiêu chí sinh sản
của cá dìa (Siganus guttatus, Bloch, 1787) ở đầm phá Thừa Thiên Huế. Lê Văn
Dân, Lê Đức Ngoan, 2006, Kết quả bước đầu về sinh sản nhân tạo cá dìa
(Siganus guttatus, Bloch, 1787).
“Nuôi cá dìa giống sinh sản nhân tạo (Siganus guttatus, Bloch, 1787) kết
hợp với Rong Câu chỉ vàng (Gracilaria Verrucosa) và tôm sú (Penaeus
monodon)” tại xã Hương Phong, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế do Lê
20


Thị Bích Thủy nghiên cứu năm 2007. Năm 2007, Nguyễn Thị Thúy Hằng, Châu
Thị Tuyết Hạnh nghiên cứu ảnh hưởng củ thức ăn công nghiệp và rong biển
(Gracillaria sp) đến sinh trưởng và phát triển của cá dìa (Siganus guttatus) nuôi
thương phẩm. Năm 2008, Nguyễn Văn Huy “Nghiên cứu đặc điểm sinh thái dinh
dưỡng và khả năng tiêu hóa của cá Dìa (Siganus guttatus) đối với một số loại thức
ăn khác nhau ở đầm phá Tam Giang, Thừa Thiên Huế. Nghiên cứu đặc điểm sinh
thái dinh dưỡng của cá dìa: Vùng phân bố đặc điểm môi trường, thành phần thức
ăn tự nhiên, tập tính ăn.
Nguyễn Hữu Khánh, Hồ Thị Bích Ngân, Đặng Đình Dũng, Ngô Nguyên
Đáng đã công bố kết quả thử nghiệm nuôi cá Dìa (Siganus guttatus), cá Kình
(Siganus oramin) kết hợp với cá Nâu (Scatophanus argus) và cá Đối (Mugil
cephslus) ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, Thừa Thiên Huế [6].
Năm 2012, Nguyễn Tý với đề tài nghiên cứu một số ký sinh trùng ngoại
ký sinh trên cá dìa (Siganus guttatus) giai đoạn cá hương đến cá giống nuôi ở
đầm phá Tam Giang, Thừa Thiên Huế. Phạm Thị Hải Yến xác định tỷ lệ tiêu hóa
các chất dinh dưỡng và axit amin của một số loại thức ăn cá dìa (Siganus
guttatus).
2.4. Một số cơ sở khoa học về nuôi vỗ.
Sản xuất giống cá trong thực tiễn là thực hiện các biện pháp kỹ thuật sinh

học nhằm tạo ra thế hệ con có sức sống từ những cá đã trưởng thành để thả nuôi
ở các vùng nước. Vì thế nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ là khâu quan trọng đầu tiên
trong quy trình sản xuất giống, làm tiền đề cho những khâu kỹ thuật kế tiếp. Sau
đó mới là việc kích thích sinh sản (có thể gồm cả việc gieo tinh nhân tạo), ấp
trứng và ương cá mới nở đến khi thành cá giống, nghĩa là có đủ sức sống để thả
vào các vùng nước.
Nuôi vỗ cá bố mẹ là quá trình cho ăn, chăm sóc, tạo điều kiện thuận lợi
cho sự thành thục, tức là để có buồng tinh (tinh sào) và buồng trứng (noãn sào)
phát triển tốt ở cá đực và cá cái một cách tương ứng vào thời gian thích hợp
trong điều kiện nhân tạo. Cá phát triển đầy đủ sẵn sàng chuyển sang tình trạng
sinh sản khi gặp điều kiện môi trường thuận lợi, hoặc được kích thích bằng
phương pháp sinh lý (Nguyễn Tường Anh, 2005)[1].
2.4.1. Cơ sở lý luận về vấn đề nuôi vỗ cá bố mẹ
Mỗi loài cá đẻ vào một thời vụ khác nhau. Quá trình thành thục có tính
chu kì rõ rệt. Tính chu kì là sự thích nghi có tính chất di truyền. Nghiên cứu tính
chu kì trên, người ta căn cứ vào những vấn đề sau:
21


22


2.4.1.1. Về tổ chức tế bào học
Để nuôi cá vào nuôi vỗ đúng thời điểm, cần phải nghiên cứu tổ chức tế
bào học của tuyến sinh dục.
2.3.1.2. Về đặc điểm sinh thái và sinh lý
Vào cuối thu sang đông nhiệt độ nước lớn hơn nhiệt độ sinh học, đôi khi
nhiệt độ nước nhỏ hơn nhiệt độ sinh học (rất hiếm) cá có hiện tượng tích lũy mỡ
rất tốt, sự phát triển của buồng trứng hầu như không có. Sự trao đổi chất chủ yếu
là đồng hóa mãnh liệt. Do đó thời kì này người ta tập trung cung cấp thức ăn tinh cho

cá để cho cá tích lũy vật chất dinh dưỡng một cách cao nhất. Sau đó sang mùa xuân
nhiệt độ nước tăng lên, đây là điều kiện thích hợp cho quá trình phát triển tuyến sinh
dục. Sự trao đổi chất chủ yếu ở thời kì này là quá trình chuyển hóa vật chất dinh
dưỡng đã tích lũy được cho tuyến sinh dục (Lê Văn Dân và CTV, 2005) [1].
2.4.1.3. Về đặc điểm sinh thái
Buồng trứng của cá cái phát triển theo một quy luật mang tính chất chu kì
rõ rệt. Qua nghiên cứu người ta thấy rằng: Khi cá đang thành thục khối lượng
buồng trứng tăng lên rõ rệt. Điều này chứng tỏ có sự trao đổi chuyển hóa vật
chất bên trong cơ thể cá. Nghiên cứu sự chuyển hóa vật chất trong cơ thể cá là
một yêu cầu cần thiết cho sự phát triển của tuyến sinh dục.
Vật chất tích lũy chia làm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn II – III: là giai đoạn sinh trưởng mạnh, tức là quá trình đồng
hóa vật chất dinh dưỡng ở cơ và gan cá (lúc này là mùa thu đông). Vì vậy thời
gian này cá đòi hỏi rất nhiều thức ăn (đặc biệt là thức ăn giàu protein)
- Bước sang xuân đầu hạ, buồng trứng cá bước sang giai đoạn IV, lúc này
có sự đồng hóa mạnh mẽ ở buồng trứng, đồng thời quá trình dị hóa ở cơ và gan.
Đây là quy luật trao đổi chất của cá, đặc biệt đối với cá đã tham gia sinh sản.
Biết được quy luật hoạt động của tuyến sinh dục nên trong sinh sản nhân
tạo người ta nuôi vỗ cá bố mẹ theo 2 giai đoạn.
- Giai đoạn nuôi vỗ tích cực: Tạo mọi điều kiện cho cá tích lũy vật chất
dinh dưỡng bằng cách tăng cường cho cá ăn. Trong thực tế lấy Ball mỡ làm tiêu
chuẩn, thường kết thúc giai đoạn nuôi vỗ tích cực, cá phải đạt Ball 4 - Ball 5,
sau đó chuyển sang giai đoạn tiếp theo.

23


- Giai đoạn nuôi vỗ thành thục: mục đích giai đoạn này là bằng các yếu tố
sinh thái, dinh dưỡng bắt các vật chất dinh dưỡng đã được tích lũy ở giai đoạn
trước đó chuyển hóa cho buồng trứng (Lê Văn Dân và CTV, 2005) [1].

2.4.2. Ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài lên sự phát dục tuyến sinh dục
của cá bố mẹ được nuôi vỗ
2.4.2.1. Thức ăn
Thức ăn không những là nguồn vật chất cho sự sinh trưởng, năng lượng
cho sự trao đổi chất mà còn là nguyên liệu cho noãn hoàng và tinh sào. Những
cá đói (thiếu ăn) thì hệ số thành thục thấp hoặc không thành thục mặc dù mọi
yếu tố khác của môi trường trong thời gian thành thục trước vụ đẻ là thuận
lợi.Những cá đang trong thời kì tạo noãn hoàng nếu bị đói trong thời gian dài thì
buồng trứng có thể bị thoái hóa và tiêu biến.
Chế độ dinh dưỡng tốt có thể làm cho cá phát dục, thành thục và sinh sản
sớm.Dinh dưỡng ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển tuyến sinh dục của các
loài cá nuôi.
Đảm bảo cho sự phát triển tuyến sinh dục cá phải chú ý trên cả hai
phương diện: số lượng và chất lượng thức ăn phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng
của từng loài cá. Nhiều nghiên cứu về thực tế sản xuất đã chứng tỏ rằng, chất
lượng thức ăn có ảnh hưởng rõ rệt đến mùa vụ sinh sản, hệ số thành thục, tỷ lệ
thành thục, chất lượng trứng và cá con.
Trong tự nhiên nhiều loài cá chỉ đẻ 1 lần trong năm với mùa vụ sinh sản
kéo dài vì không đủ chất dinh dưỡng sau khi đẻ. Những cá như thế ngay sau khi
đẻ nếu được nuôi vỗ tốt, đặc biệt là được cung cấp thức ăn đầy đủ cho sự phục
hồi sức khỏe và sự tạo trứng tạo tinh thì có thể tái thành thục và sinh sản nhiều
lần trong năm. Tuy nhiên cũng có những cá chỉ đẻ một lần trong năm với mùa rõ
rệt và tương đối ngắn.
Những cá thành thục trong năm thường có hệ số thành thục lần đầu trong
năm ấy.Vì vậy các yếu tố môi trường và hoạt động nội tiết cá bình thường nhưng
cá có thời gian bắt mồi và tái tích lũy noãn hoàng ngắn trước khi sinh sản lần
sau trong năm [1].
2.4.2.2. Nhiệt độ
Nhiệt độ có ảnh hưởng rõ rệt đối với các phản ứng hóa học. Khi nhiệt độ
tăng 100C thì thời gian của phản ứng hóa học rút ngắn còn một nửa.Đối với các

phản ứng sinh hóa điều này cũng đúng trong khoảng nhiệt độ thích hợp.
24


Cá là động vật biến nhiệt, nhiệt độ môi trường quyết định sự hoạt động
chung và nhất là sự dinh dưỡng của cá. Ở nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao, cá
không bắt mồi được, dự trữ mỡ cạn kiệt thì tuyến sinh dục là nguồn chất dự trữ duy
trì sự sống của cá.Trong trường hợp này, tuyến sinh dục ngưng phát triển và tiêu
biến, sự sinh sản bị ảnh hưởng xấu.
Đối với mỗi loài cá có một khoảng nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển
tuyến sinh sục và sinh sản.Ngoài khoảng nhiệt độ ấy, cá có thể sống nhưng
không thành thục và sinh sản được.Điều này có liên quan đến sự phân bố địa lý
của loài.
Đối với những loài cá có sự di cư sinh sản thì có thể có sự khác biệt nhiệt độ
thích hợp với sự pháttriển của tuyến sinh dục, nhiệt độ thích hợp cho sự đẻ trứng.
Trong phạm vinhiệt độ thích hợp thì nhiệt độ càng cao càng rút ngắn thời
gian nuôi vỗ cá bố mẹ. Nikonski (1967) cho biết “Mỗi giai đoạn phát triển của
cá thể nói chung và buồng trứng nói riêng đòi hỏi mức nhiệt độ khác nhau. Khi
nhiệt độ thấp thích hợp cho sự sinh trưởng và tích lũy vật chất dinh dưỡng, còn
khi nhiệt độ cao lại thích hợp cho quá trình thành thục của tuyến sinh dục” [1].
2.4.2.3. Quang kỳ
Quang kỳ hay chu kỳ quang là thời gian có ánh sáng trong 24 giờ liên tục.
Nói đơn giản, quang kỳ trong tự nhiên là thời gian ban ngày trong một ngày
đêm, tổng thời gian của quang kỳ và thời gian ban đêm tương ứng là 24 giờ.
Bằng thực nghiệm người ta chứng minh được rằng sự phát triển tuyến
sinh dục của những loài cá Hồi (Salmonidae) và nhiều loài cá biển chịu ảnh
hưởng của sự biến động về quang kỳ. Đối với những loài cá như thế trong tự
nhiên sự thành thục diễn ra sớm khi quang kỳ giảm thì việc giảm thời gian chiếu
sáng ban ngày làm cho cá thành thục và rụng trứng sớm hơn [1].
2.4.2.4. Dòng nước

Trong tự nhiên nhiều loài cá có sự di cư sinh sản ngược dòng và có bãi đẻ ở
thượng nguồn các con sông thì rất cần dòng nước cho sự thành thục và sinh sản.
Đối với cá bố mẹ khi nuôi vỗ tuyệt đối không để cá nổi đầu, dẫn đến cá
chậm thành thục, khi tuyến sinh dục cá phát triển từ giai đoạn III – IV – V, cá có
cường độ trao đổi chất lớn, đòi hỏi hàm lượng ôxy hòa tan trong nước rất cao.
Như vậy, vai trò của dòng nước đối với sự thành thục của cá là rất quan
trọng, chính vì vậy mà các loài cá ở tự nhiên sinh sản khi có sự thay đổi về dòng
nước, chất nước và thường tập trung vào mùa mưa. Trong quá trình di cư ngược
25


×