Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

Đánh giá hiệu quả sản xuất lúa theo quy mô cánh đồng mẫu lớn tại xã an thủy, huyện lệ thủy, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 105 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ

Khoa Khuyến nông & Phát triển nông thôn

KHÓA LUẬN

TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
Đánh giá hiệu quả sản xuất lúa theo quy mô cánh đồng mẫu
lớn tại xã An Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình

Sinh viên thực hiện: Phạm Hồng Loan
Lớp: Phát triển nông thôn 46B
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Lê Văn Nam
Thời gian thực tập: Từ 28/12/2015 đến 01/05/2016
Địa điểm thực tập: Xã An Thủy, huyện Lệ Thủy,
tỉnh Quảng Bình
Bộ môn: Khuyến nông

NĂM 2016
1


Lời Cảm Ơn
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp Đại học
chuyên ngành Phát Triển Nông Thôn, tôi xin chân thành gởi lời cảm ơn đến:
Các thầy, cô giáo trong Khoa Khuyến Nông & PTNT Trờng Đại
Học Nông Lâm Huế đã tận tình giảng dạy và truyền đạt những kiến thức bổ
ích cho tôi trong suốt 4 năm qua. Với vốn kiến thức đợc tiếp thu trong quá
trình học không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là
hành trang quý báu giúp tôi bớc vào đời một cách vững chắc và tự tin.


Đặc biệt, tôi xin đợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Th.S Lê
Văn Nam, ngời đã tận tình hớng dẫn, giúp đỡ và truyền đạt cho tôi những
kinh nghiệm quý báu giúp tôi trong suốt thời gian thực tập và hoàn thành
khóa luận đúng hạn.
Đồng thời, chân thành cảm ơn đến Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện
Lệ Thủy, UBND xã An Thủy cùng ngời dân địa phơng ở thôn, xã An Thủy,
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt thời gian thực tập.
Cuối cùng tôi xin đợc gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình,bạn bè đã
chia sẽ, động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành khóa luận
này.
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên quá trình hoàn thành khóa
luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự góp ý xây dựng của
quý thầy cô giáo, các bạn sinh viện để khóa luận đợc hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Huờ, thang 05 nm 2016
Sinh viờn thc hiờn

Phm Hng Loan

2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


4

CĐML

: Cánh đồng mẫu lớn.

NN-PTNT

: Nông nghiệp & phát triển nông thôn.

HTX

: Hợp tác xã.

NN và PTNT

: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

BVTV

: Bảo vệ thực vật.

UBND

: Uỷ ban nhân dân.

BVĐ,DT,DB

: Bảo vệ đồng, dự thính, dự báo



DANH MỤC CÁC BẢNG

5


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC HÌNH

6


TÓM TẮT KHÓA LUẬN
An Thủy là xã thuộc vùng thấp trũng huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Người dân chủ yếu sống ở khu vực nông thôn, lúa là nguồn thu nhập chính của
địa phương. Từ vụ lúa Đông xuân 2013-2014, xã An Thủy đã thực hiện CĐML
và mang lại nhiều hiệu quả tích cực trong sản xuất nông nghiệp.
Nhờ vào kết quả thực hiện CĐML, hình thức sản xuất lúa đã có sự thay đổi
và tạo ra thị trường tiêu thụ ổn định hơn. Tuy nhiên, việc sản xuất lúa theo
CĐML vẫn còn hạn chế chưa tương xứng với tiềm năng thực tế. Trong khi đó
vẫn chưa có một đánh giá tổng thể về hiệu quả sản xuất, các khó khăn hạn chế
của việc sản xuất lúa CĐML. Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên, tôi tiến hành
thực hiện đề tài: “Đánh giá hiệu quả sản xuất lúa theo quy mô cánh đồng
mẫu lớn tại xã An Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình”.




Mục tiêu nghiên cứu: (1) Tìm hiểu thực trạng sản xuất lúa theo quy mô cánh

đồng mẫu lớn tại xã An Thủy, huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình.(2) Đánh giá
hiệu quả sản xuất lúa theo quy mô cánh đồng mẫu lớn tại xã An Thủy, huyện Lệ
thủy, tỉnh Quảng Bình. (3)Tìm hiểu các yếu tố thúc đẩy và hạn chế trong việc
mở rộng sản xuất lúa theo quy mô CÐML của nông hộ.
Phương pháp nghiên cứu:
Thông tin thứ cấp được thu thập qua các báo cáo, tài liệu và số liệu liên
quan. Thông tin sơ cấp được thu thập thông qua phỏng vấn 60 hộ tại xã An
Thủy. Phỏng vấn người am hiểu (chủ nhiệm HTX, cán bộ NN huyện Lệ Thủy,
trạm Khuyến nông, cán bộ nông nghiệp xã…).



Các kết quả chính:
Qua ba năm thực hiện, diện tích CĐML đã tăng lên từ 180ha năm 2013 lên
494,3 ha năm 2015. Vụ Đông xuân 2013-2014, CĐML được thưc hiện ở hai HTX
là Mỹ Lộc Thượng và HTX Mỹ Lộc Hạ xã An Thủy. Trong hai vụ lúa Đông xuân
và Tái sinh, năng suất trong CĐML cao hơn năng suất bình quân của xã .
Tham gia CĐML, người dân đã biết thêm các thông tin, kỹ thuật canh tác
tiên tiến, xóa bờ thửa ruộng mở rộng quy mô diện tích, thuận tiện cho việc áp
dụng kỹ thuật mới, dễ dàng đưa cơ giới hóa vào sản xuất, đã giảm công lao
động, giảm chi phí sản xuất, tăng giá trị sản phẩm, sử dụng phân bón và thuốc
BVTV hợp lý nhờ vậy tiết kiệm chi phí đầu tư, đồng thời nâng cao hiệu quả sản
xuất góp phần bảo vệ môi trường. CĐML giúp người dân thay đổi quan hệ sản
xuất theo hướng phát triển, hình thành sự liên kết giữa doanh nghiệp và nông
7


dân làm tiền đề cho sản xuất lúa theo hướng hàng hóa. Tuy nhiên, mối liên kết
giữa 4 nhà còn thiếu bền vững, chưa đồng bộ.
Qua nghiên cứu cho thấy, sản xuất lúa vụ Đông xuân và Tái sinh người nông

dân sản xuất theo hình thức CĐML đều có lợi nhuận cao hơn diện tích không theo
CĐML. Từ đó, CĐML mang lại hiệu quả kinh tế giúp người dân sản xuất lúa có
lợi nhuận, góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Tại địa phương có những yếu tố thúc đẩy quá trình phát triển quy mô diện
tích CĐML là: người dân nhận thức được hiệu quả sản xuất lúa theo hình thức
CĐML; lồng ghép thực hiện CĐML cùng dự án SRI và liên kết sản xuất lúa
Thảo dược (AC5) ở địa phương; sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương. Nhưng
cũng có những yếu tố cản trở sự mở rộng mô hình như: diện tích và quy hoạch
đất; tập quán và ý thức của một số bộ phận người dân; lực lượng lao động;
phương thức bán hàng và xu hướng sản xuất; vốn đầu tư; các mối liên kết hợp
đồng mua bán; hạn chế về công cụ sản xuất; thông tin thị trường, nhu cầu và giá
cả thị trường.
Giáo viên hướng dẫn:

8

Sinh viên thực hiện:


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết đề tài
Việt Nam là nước đất nước có truyền thống sản xuất lúa gạo từ lâu đời.
Hiện nay chúng ta vẫn giữ vững thế mạnh trong tiềm năng sản xuất và xuất khẩu
gạo. Tính đến năm 2014, cả nước đã xuất khẩu khoảng 6.331,5 nghìn tấn gạo
(Tổng cục thống kê, 2015), đứng thứ hai trên thế giới về sản lượng xuất khẩu
gạo. Tuy nhiên, chất lượng gạo của Việt Nam thường bị đánh giá thấp và giá gạo
xuất khẩu chịu sự cạnh tranh rất lớn của các nước như Thái lan, Ấn Độ. Những
nguyên nhân chính của hạn chế này là do sản xuất nông nghiệp với quy mô
ruộng đất còn rất manh mún, chi phí sản xuất còn quá cao, năng suất cây trồng,
vật nuôi chưa cao, năng lực cạnh tranh trên thị trường còn yếu kể cả thị trường

trong nước và thế giới, rủi ro trong sản xuất nông nghiệp còn nhiều. Vì vậy, để
giữ vững và tăng vị thế trên thị trường, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng và sản
lượng nông sản để hài lòng và đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.
Để giải quyết những tồn tại đó trong sản xuất nông nghiệp chính phủ và các
bộ ban ngành đã có nhiều chủ trường và chính sách nhắm thúc đẩy và khuyến
khích phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa. Cụ thể, quyết định số
80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 24/06/2002 về chính sách
khuyến khích tiêu nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng. Quyết định này cùng
chỉ thị số 24/2003/CT-TTg cho ra đời CĐML tiến tới xây dựng vùng nguyên
liệu. Đến năm 2012, mô hình đã thực hiện nhân rộng ở 12 tỉnh khu vực Đồng
Bằng Sông Cửu Long và tỉnh Tây Ninh từ vụ hè thu năm 2011. Tháng 01/2012,
Bộ NN và PTNT đã triển khai xây dựng CĐML trong sản xuất lúa cho một số
tỉnh phía Bắc. Và sau đó, mô hình CĐML nhanh chóng lan rộng ra các địa
phương trong nước.
Huyện Lệ Thủy có tiềm năng về sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất
lúa. Nơi đây là một địa danh được nhắc đến trong câu nói: “Nhất Đồng Nai, nhì
hai huyện”, được biết đến với loại gạo ngon, diện tích trồng lúa lớn. Với những
cánh đồng màu mỡ được hệ thống sông Kiến Giang bồi đắp nên cho năng suất
và chất lượng lúa khá cao. Cây lúa trở thành cây trồng chính, có vị trí quan trọng
trong cơ cấu kinh tế và đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân. Hiện
nay, mô hình CĐML đã và đang được triển khai thực hiện ở trên địa bàn huyện.
Mô hình CĐML trên lúa được bắt đầu vào sản xuất thử nghiệm năm 2013 tại xã
Phong Thủy và sau đó lan rộng ra các xã lân cận như xã An Thủy, Liên thủy,
Lộc Thủy…mang lại nhiều kết quả tích cực góp phần từng bước chuyển đổi
9


hình thức sản xuất từ quy mô nhỏ sang quy mô lớn. Tuy nhiên, việc sản xuất lúa
theo hình thức CĐML vẫn còn hạn chế chưa tương xứng với tiềm năng thực tế.
Trong khi đó vẫn chưa có một đánh giá tổng thể về hiệu quả sản xuất, các khó

khăn hạn chế của việc sản xuất lúa theo CĐML từ đó làm cơ sở cho việc mở
rộng quy mô, phát triển một cách bền vững, nâng cao hơn hiệu quả sản xuất lúa
của địa phương.
Xuất phát từ vấn đề trên, tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Đánh giá hiệu
quả sản xuất lúa theo quy mô cánh đồng mẫu lớn tại xã An Thủy, huyện Lệ
Thủy, tỉnh Quảng Bình” để đánh giá về hiệu quả mà hình thức CĐML đã mang
lại cho người dân nơi đây từ đó đưa ra cái nhìn rõ hơn về tầm quan trọng để xúc
tiến quá trình nhân rộng và phát triển hơn.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu


Tìm hiểu thực trạng sản xuất lúa theo quy mô cánh đồng mẫu lớn tại xã An
Thủy, huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình.

• Đánh giá hiệu quả sản xuất lúa theo quy mô cánh đồng mẫu lớn tại xã An Thủy,
huyện Lệ thủy, tỉnh Quảng Bình.
• Tìm hiểu các yếu tố thúc đẩy và hạn chế trong mở rộng sản xuất lúa theo quy
mô CÐML của nông hộ.

10


PHẦN II. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1 . Lí luận về cánh đồng mẫu lớn
• Khái niệm
Có nhiều khái niệm để định nghĩa về CĐML. Theo Công Văn số:
409/SNN-KT ngày 01/4/2013 của Sở NN và PTNT: “CĐML là những cánh
đồng có cùng quy trình sản xuất, cùng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, cung ứng
đồng đều và ổn định về số lượng, chất lượng theo yêu cầu của thị trường dưới

thương hiệu nhất định.”
Theo khái niệm này, trong mô hình CĐML, nông dân cùng nhau thực hành
sản xuất theo một quy trình chung tất cả các khâu từ sản xuất, quy trình kỹ thuật,
quản lý sản xuất, thu hoạch, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm... CĐML là công
việc cụ thể hóa chủ trương xây dựng vùng sản xuất hàng hoá tập trung gắn với
chế biến, tiêu thụ sản phẩm không chỉ trên cây lúa mà trên các cây trồng khác.
Lợi ích từ CĐML là nông dân được các doanh nghiệp cung ứng giống, phân
bón, thuốc BVTV đảm bảo chất lượng, giá cả hợp lý và tiêu thụ sản phẩm theo
đặt hàng về chủng loại, số lượng, chất lượng. Hiệu quả việc liên kết giữa các
nông dân và doanh nghiệp, lúa gạo được sản xuất ra được các doanh nghiệp thu
mua, bao tiêu sản phẩm, ổn định đầu ra cho sản phẩm. Các doanh nghiệp sẽ
giảm được khá nhiều chi phí cho những khâu trung gian trong thu mua hoặc
phân phối.
Theo cách hiểu của người nông dân : “CĐML là tên gọi của nông dân Nam
Bộ, thể hiện rằng đó là một cánh đồng trồng một hay vài giống cây trồng với
diện tích lớn, có cùng thời vụ và quy trình sản xuất, gắn sản xuất với đảm bảo
cung ứng về số lượng và chất lượng sản phẩm theo yêu cầu của thị trường. Về
bản chất, CĐML thể hiện sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, tập trung
quy mô lớn”. (Đỗ Kim Chung và Kim Thị Dung, 2012)
Như vậy, CĐML được người nông dân hiểu đơn giản là một cánh đồng có
diện tích lớn. Thông qua thực hiện các dịch vụ làm đất, tưới nước, gieo cấy, thu
hoạch, quản lý dịch hại và áp dụng cơ giới hoá, quy trình sản xuất tiên tiến nên
giảm được chi phí nhân công, số lần phun thuốc, tăng hiệu quả sử dụng phân
bón, giảm giá thành, tăng lợi nhuận cho nông dân. Các hộ trồng lúa có điều kiện
tiếp cận với tiến bộ kỹ thuật. Với các tác nhân cung cấp đầu vào, tiêu thụ đầu ra
có thể chủ động được kế hoạch sản xuất nhờ có thị trường tiêu thụ và nguồn
cung cấp đầu vào ổn định. Cánh đồng sản xuất cùng một (hoặc hai) loại giống
11



cây trồng để phù hợp với nhu cầu thị trường thường là giống xác nhận. Đặc
điểm này đòi hỏi để có CĐML thì cánh đồng đó phải là sản xuất ra sản phẩm
hàng hóa có chất lượng tốt. Để làm được điều đó người nông dân phải tổ chức
sản xuất tập trung và có kế hoạch các công việc xuống giống, phòng chống dịch
bệnh…với nhau theo từng cánh đồng lớn có sự đồng bộ cao. Muốn phát triển
nông nghiệp, nước ta phải đẩy mạnh sản xuất sản phẩm hàng hóa có chất lượng
tốt, không chỉ với cây lúa mà các loại nông sản khác. Hàng hóa đồng nhất về
giống và chất lượng giống, tạo ra sự sinh trưởng đồng đều về thời vụ, tiện cho
áp dụng một quy trình kỹ thuật tiên tiến trong các khâu làm đất, tưới nước, gieo
xạ, bảo vệ thực vật, thu hoạch, phơi, sấy, chế biến và tiêu thụ. Thị trường tiêu
thụ nông sản luôn biến động, người nông dân là đối tượng chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ nó. Vì vậy, phải có sự liên kết chặt chẽ giữa nông dân và doanh nghiệp.
CĐML phải có đảm bảo năng suất cao và chất lượng sản phẩm tốt. Do đó, thu
nhập trên một đơn vị diện tích, đồng vốn đầu tư phải cao. Lợi ích của nông dân
và nhà doanh nghiệp được đảm bảo.
Tóm lại, khái niệm CĐML thể hiện việc làm mẫu về hiệu quả sản xuất, áp
dụng tiến bộ kĩ thuật, đồng bộ trong sản xuất nhằm mở rộng quy mô mô hình.
Từ đó giúp nâng cao năng suất, sản lượng sản xuất, cải thiện đời sống người
nông dân hơn.
• Tính tất yếu
Việc xây dựng CĐML là đòi hỏi tất yếu của phát triển nông nghiệp theo
hướng hàng hóa. Hiện nay, ruộng đất trong nông nghiệp Việt Nam phân tán và
manh mún. Cả nước hiện có 12,6 triệu hộ nông dân. Bình quân mỗi hộ có 2,2
lao động, canh tác trên 0,4-1,2 ha. Số hộ có diện tích dưới 0,5 ha chiếm tới
61,2%. Nhiều nơi ở đồng bằng sông Hồng và miền Trung chỉ dưới 0,3 ha/hộ, cá
biệt có xã quy mô đất sản xuất dưới 0,1 ha/hộ. (Đỗ Kim Chung, 2010).
Sự phân tán và manh mún như vậy sẽ cản trở sự phát triển nông nghiệp
hiện đại và hiệu quả. Để phát triển được nông nghiệp hàng hóa cần thiết phải có
sản xuất tập trung, quy mô lớn. Vì vậy, việc xây dựng CĐML là tất yếu và là cụ
thể hóa của chủ trương xây dựng vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung

gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm thông qua hình thức hợp đồng với quy mô
sản xuất lớn. Hơn nữa, xây dựng CĐML thực hiện nội dung cơ bản của xây
dựng nông thôn mới là đổi mới tổ chức sản xuất, phát triển kinh tế và góp phần
thực hiện nghị quyết 26 của Trung ương về phát triển nông nghiệp, nông dân và
nông thôn.
12


• Quy mô diện tích của Cánh đồng mẫu lớn
Tiêu chí để được đánh giá là CĐML là cánh đồng từ 30ha trở lên, liền
vùng, liền thửa (theo CV số: 409/SNN-KT ngày 01/4/2013 của Sở NN và
PTNT). Quy mô diện tích của cánh đồng khác nhau theo đặc điểm kinh tế-xã
hội của mỗi địa phương, nhưng phải đủ lớn để sử dụng hợp lý và hiệu quả
công trình thủy lợi, máy làm đất, máy sạ, hệ thống sấy phơi và cung cấp hàng
hóa cho thị trường.
Trong nhiều năm qua nhiều tỉnh đã xây dựng và thực hiện nhiều mô hình
cánh đồng ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật với nhiều tên gọi khác nhau:
cánh đồng 03 giảm 03 tăng, 01 phải 05 giảm, cánh đồng hiện đại, cánh đồng
01 giống… với quy mô từ 50-100ha là phổ biến, việc lựa chọn cánh đồng liền
canh với diện tích từ 300-500ha xuất phát từ thực tiển sản xuất lúa ở Đồng
Bằng Sông Cửu Long với những cánh đồng tương đối lớn, phổ biến trung
bình khoảng 500-1000 ha.
• Quy trình thực hiện mô hình Cánh đồng mẫu lớn
Việc tổ chức thực hiện mô hình CĐML được thực hiện theo 6 bước như sau:
Bước 1: Lựa chọn địa điểm theo các tiêu chí và yêu cầu CĐML. Tổ chức
điều tra điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, kỹ thuật, tập quán canh tác của vùng
dự kiến xây dựng mô hình. Kết quả điều tra làm cơ sở cho việc xây dựng quy
trình kỹ thuật đầu tiên.
Bước 2: Cơ quan quản lý Nhà nước (Có thể là: Sở NN và PTNT, Sở Công
thương, Sở Khoa học-Công nghệ, UBND huyện, thành phố) chủ trì họp các bên

tham gia gồm: chính quyền các cấp, doanh nghiệp cung ứng đầu vào, doanh
nghiệp bao tiêu sản phẩm (Trước mắt chú ý đến hệ thống thương lái hiện tại của
địa phương), HTX, tổ hợp tác… để cùng thống nhất cơ chế, quyền lợi hợp tác.
Kết quả của bước này là cơ sở cam kết pháp lý để các bên cùng tham gia thực
hiện. Đồng thời các bên tham gia cử cán bộ đầu mối để cùng chỉ đạo mô hình
(Nên lập tổ chỉ đạo).
Bước 3: Chính quyền các cấp, doanh nghiệp tổ chức họp thống nhất cơ chế
hợp tác với người dân và xác định bộ giống lúa sẽ sản xuất.Trên cơ sở mức hỗ
trợ của Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức họp những hộ nông dân sẽ tham gia
trong CĐML để thống nhất cơ chế hợp tác giữa doanh nghiệp và nông dân, hiểu
rõ mình sẽ có lợi ích, trách nhiệm khi tham gia CĐML. Đây là cơ sở quan trọng
để hình thành biên bản ký kết hợp tác. Nội dung này cần tiến hành sớm, ít nhất
13


là trước khi vào gieo cấy 1-2 tháng. Đồng thời trong buổi họp dân xác định bộ
giống lúa và năng lực cung ứng giống: Bộ giống lúa do sở NN và PTNT phối
hợp với doanh nghiệp thu mua xác định những giống chủ lực của tỉnh (3-5
giống), của vùng nguyên liệu (1-2 giống), những giống được lựa chọn có cùng
đặc tính nông học và sự tương đồng về chất lượng. Từ đó lập kế hoạch sản xuất,
quy trình sản xuất để phổ biến cho người dân trước khi triển khai sản xuất.
Bước 4: Tổ chức hội nghị triển khai, ký kết hợp đồng: hội nghị triển khai là
cơ hội để thể hiện các cam kết giữa các bên và ký hợp đồng ràng buộc về tính
pháp lý của mô hình hay vùng nguyên liệu.
Bước 5: Tập huấn kỹ thuật, hướng dẫn cách ghi chép sổ tay sản xuất lúa
cho nông dân chậm nhất trước khi vào vụ 15-20 ngày. Để giúp người dân tiếp
cận tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, đồng bộ, thì việc tổ chức tập huấn là việc làm hết
sức cần thiết, để giúp người dân vận dụng những kiến thức được học từ các buổi
tập huấn vào thực tiễn. Nông dân phải được tập huấn kỹ thuật canh tác trước và
sau thu hoạch, phải áp dụng triệt để theo chương trình 03 giảm 03 tăng, 1 phải 5

giảm xuống giống đồng loạt, tập trung, sử dụng giống xác nhận, giống nguyên
chủng. Điều kiện phơi sấy, tồn trữ, bảo quản lúa sau thu hoạch tốt
Bước 6: Tổ chức cung ứng vật tư: giống, phân bón, thuốc BVTV… Bố trí
thời gian, địa điểm, phương thức cung ứng, thu hồi bán sản phẩm…
Bước 7: Sản xuất lúa: chăm sóc, thu hoạch, bảo quản thực hiện cam kết
hợp đồng: tổ chức sản xuất lúa theo quy trình canh tác, lịch thăm đồng, tập huấn
kỹ thuật…có sự tham gia của cán bộ kỹ thuật, hướng dẫn nông dân và ghi chép
sổ tay.
Bước 8: Thu mua, thanh lý hợp đồng, tiếp tục ký kết cho vụ tiếp theo. Đây
là bước để xem xét khả năng thu mua và cung ứng sản phẩm. Các lưu ý của bên
liên kết và thực hiện các hợp đồng tiếp tục thỏa thuân liên kết sản xuất.
Bước 9: Hội nghị tổng kết, mở rộng mô hình. Căn cứ trên những kết quả
đạt được, các bên có liên quan xem xét xây dựng phương án kế hoạch triển khai
mô hình cụ thể: Sử dụng giống gì, quy mô tăng lên bao nhiêu, tăng số hộ tham
gia lên không, kinh phí bao nhiêu, phương án tiêu thụ lúa như thế nào, thời gian
triển khai mô hình, địa điểm triển khai.
● Vai trò của cánh đồng mẫu lớn
Về lý luận, CĐML tuân theo nguyên lý ”kinh tế của quy mô” (Economize
of scale) của sản xuất nông nghiệp. CĐML có vai trò quan trọng cho phát triển
14


nông nghiệp theo hướng hàng hóa: “Gắn sản xuất nông nghiệp với chế biến và
tiêu thụ, gắn sản xuất với thị trường. Sản xuất trên quy mô thể hiện sự liên kết
giữa người chế biến và tiêu thụ sản phẩm”. (Đỗ Kim Chung PGS.TS và Kim
Thị Dung, 2012). Việc sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo quy mô lớn để đáp
ứng tốt hơn đòi hỏi của thị trường về nông phẩm.
Sản xuất nông nghiệp theo quy mô CĐML tạo nên tạo điều kiện ứng dụng
được quy trình sản xuất tiên tiến để tăng năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm. Chỉ trên cơ sở quy mô lớn mới phát huy hiệu quả các công trình thủy lợi,

cơ giới hóa khâu làm đất, gieo cấy, áp dụng công nghệ sau thu hoạch và chế biến
tạo điều kiện cho nông dân tiết kiệm được chi phí sản xuất và nâng cao hiệu quả
sản xuất.
Do ưu thế kinh tế của quy mô, sản xuất trên quy mô lớn, ứng dụng của
công nghệ tiên tiến, nông dân có cơ hội tiết kiệm được chi phí (giống, nhiên
liệu, chi phí làm đất, thủy lợi, bảo vệ thực vật, gặt đập và phơi sấy), trên cơ sở
đó, nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất giúp nông dân sản xuất nhỏ liên kết
nhau lại, hình thành kinh tế hợp tác để nâng cao năng lực cạnh tranh của nông
dân sản xuất nhỏ. Việc xây dựng CĐML góp phần thúc đẩy liên kết của nông
dân với nông dân, liên kết doanh nghiệp và nông dân, tạo ra vùng sản xuất
chuyên canh tập trung. Góp phần làm cho nông nghiệp phát triển theo hướng
bền vững.
2.1.2 . Vai trò của liên kết và hợp tác “4 nhà “ trong sản xuất
• Liên kết và liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế là hình thức hợp tác và phối hợp thường xuyên các hoạt
động do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng đề ra và thực hiện các
chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất, kinh doanh của các
bên tham gia nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo hướng có lợi
nhất. Được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi
thông qua hợp đồng kinh tế kí kết giữa các bên tham gia và trong khuôn khổ
pháp luật của các nhà nước.
Mục tiêu là tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định thông qua các hợp đồng
kinh tế hoặc các quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản xuất chuyên
môn hoá và hợp tác hoá, nhằm khai thác tốt tiềm năng của từng đơn vị tham
gia liên kết hoặc để cùng nhau tạo thị trường chung, phân định hạn mức sản
lượng cho từng đơn vị thành viên, giá cả cho từng loại sản phẩm nhằm bảo vệ
15


lợi ích của nhau.

Liên kết kinh tế có nhiều hình thức và quy mô tổ chức khác nhau, tương
ứng với nhu cầu sản xuất, kinh doanh của các đơn vị thành viên tham gia liên
kết. Những hình thức phổ biến là hiệp hội sản xuất và tiêu thụ, nhóm sản xuất,
nhóm vệ tinh, hội đồng sản xuất và tiêu thụ theo ngành hoặc theo vùng, liên
đoàn xuất nhập khẩu... Các đơn vị thành viên có tư cách pháp nhân đầy đủ,
không phân biệt hình thức sở hữu, quan hệ trực thuộc về mặt quản lí nhà nước,
ngành Kinh tế - kỹ thuật hay lãnh thổ. Trong khi tham gia liên kết kinh tế, không
một đơn vị nào bị mất quyền tự chủ của mình, cũng như không được miễn giảm
bất cứ nghĩa vụ nào đối với nhà nước theo pháp luật hay nghĩa vụ hợp đồng đã
kí với các đơn vị khác.
Như vậy, liên kết kinh tế là sự phối hợp của hai hay nhiều bên, không kể
quy mô hay loại hình sở hữu. Mục tiêu của liên kết kinh tế là các bên tìm cách
bù đắp sự thiếu hụt của mình, tạo sự phối hợp hoạt động với các đối tác nhằm
đem lại lợi ích cho các bên.
• Liên kết “4 nhà”
Liên kết “4 nhà” là một khái niệm được sử dụng khá rộng rãi trong thời
gian qua thể hiện sự liên kết của các tác nhân có liên quan trong một quá trình
nào đó (Nguyễn Duy Cần, Võ Hồng Tú và Nguyễn Văn Sánh, 2014).
Mối liên kết trong sản xuất nông nghiệp giúp giải quyết những vấn đề về
cung ứng và tiêu thụ hiệu quả hơn. Trong trường hợp này, liên kết trong CĐML
là “liên kết 4 nhà” bao gồm nhà nước, nhà khoa học, nhà nông và nhà thương.
Nhà nước: bao gồm chính quyền địa phương và các sở ngành. Nhà khoa học:
gồm các nhà khoa học từ Viện/trường và các trạm trại nghiên cứu địa phương.
Nhà thương bao gồm đại lý vật tư đầu vào, thương lái, công ty lương thực, công
ty bảo vệ thực vật, nhà máy xây chà. Nhà nông bao gồm các nông dân cá thể và
các tổ nhóm hợp tác sản xuất.
● Vai trò liên kết “4 nhà” trong sản xuất lúa theo CĐML
Trong CĐML, 4 nhà là nhà nước, nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa
học cùng bắt tay với nhau để tạo ra giá trị hạt gạo cao và thu nhập cho hộ nông
dân. CĐML nâng cao toàn bộ chuỗi giá trị của người sản xuất lúa và người sản

xuất lúa gạo, đóng góp vào việc nâng cao sức cạnh tranh của ngành lúa gạo
nước ta trên thị trường quốc tế.
Theo Quyết định 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 của Thủ tướng chính
16


phủ về Chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với
tiêu thụ nông sản phẩm, xây dựng CĐML là cách thức tổ chức sản xuất, trên cơ
sở hợp tác liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp, tổ chức đại diện của nông
dân trong sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ nông sản trên cùng địa bàn, có
quy mô ruộng đất lớn, với mục đích tạo ra sản lượng nông sản hàng hóa tập
trung, chất lượng cao, tăng sức cạnh tranh của nông sản trên thị trường nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân và các đối tác tham gia.
CĐML thường có mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp cụ thể bằng
hợp đồng. Khi đó, công ty đầu tư ứng giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật
không tính lãi và cử cán bộ kỹ thuật xuống trực tiếp cùng bám đồng ruộng,
hướng dẫn nông dân. Doanh nghiệp trong liên kết cũng có thuận lợi là chủ động
nguồn hàng, định hướng đầu ra, chủ động chất lượng, số lượng ngay từ đầu để
hạch toán và lên kế hoạch kinh doanh hạn chế rủi ro so với kinh doanh không
liên kết. Thường những doanh nghiệp làm ăn lớn thường liên kết với nông dân
và liên kết “4 nhà”. Và sự liên kết rất đảm bảo, nâng cao uy tín và kinh doanh có
hiệu quả hơn những nhà doanh nghiệp không liên kết và thường là những nhà
kinh doanh nhỏ. Đối với các doanh nghiệp, sản xuất theo hợp đồng có thể: đảm
bảo nguồn cung nguyên liệu thô ổn định nhằm giảm chi phí trong sản xuất quy
mô lớn, giảm rủi ro liên quan đến các khoản đầu tư trả trước lớn; tăng cường
chất lượng nguồn cung thông qua thiết lập hệ tiêu chuẩn và hỗ trợ kỹ thuật, hỗ
trợ giới thiệu dòng sản phẩm.
2.1.3 . Lí luận chung về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa kết quả đạt
được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả đạt

được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần
giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần được xem xét cả về
phần so sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ
giữa hai đại lượng đó, hiệu quả kinh tế là mục tiêu chính của các nông hộ sản
xuất nông nghiệp.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế. Theo Tiến
sĩ Nguyễn Tiến Mạnh:“Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình
độ sử dụng các nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục
tiêu xác định”. Quan điểm này đánh giá được tốt nhất trình độ sử dụng các
nguồn lực ở mọi điều kiện “động” của hoạt động kinh tế. Theo quan niệm như
thế hoàn toàn có thể tính toán được trong hiệu quả kinh tế sự vận động và biến
17


đổi không ngừng của các hoạt động kinh tế, không phụ thuộc vào quy mô và tốc
độ biến động khác nhau của chúng.
Theo tác giả Hồ Vinh Đào thì:“Hiệu quả kinh tế còn gọi là: “Hiệu ích kinh
tế”. So sánh giữa chiếm dụng và tiêu hao trong hoạt động kinh tế (bao gồm lao
động vật hóa và lao động sống) với thành quả có ích đạt được” (Phạm Ngọc
Kiểm, Thống kê nông nghiệp, 2002).
Còn theo Farell (1957), Fchultz (1964), Rizzo(1979) và Ellis (1993) cho
rằng: “ Hiệu quả kinh tế được xác định bởi việc so sánh giữa kết quả đạt được và
chi phí bỏ ra (các nguồn nhân tài, vật lực, tiền vốn…) để đạt được kết quả đó các
học giả trên đều cho rằng cần phân biệt rõ ba khái niệm về hiệu quả: hiệu quả kỹ
thuật (Technical eftciency), hiệu quả phân bổ nguồn lực (Allocative eftciency),
và hiệu quả kinh tế (Economic eftciency).
Tóm lại, trong phạm vi tìm hiểu, khái niệm hiệu quả kinh tế được hiểu là
mối tương quan so sánh giữa kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, thể hiện bằng các chi tiêu như sau: giá trị tổng sản
phẩm, thu nhập hỗn hợp, lợi nhuận thuần,…tính trên lượng chi phí bỏ ra.



Ý nghĩa của việc đánh giá hiệu quả kinh tế
Biết được mức hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp,
các nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế để có các biện pháp thích hợp
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
Làm căn cứ để xác định phương hướng đạt tăng trưởng cao trong sản xuất
nông nghiệp. Nếu hiệu quả kinh tế còn thấp thì có thể tăng sản lượng nông
nghiệp bằng các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế, ngược lại nếu đã đạt được
hiệu quả kinh tế cao thì để tăng sản lượng cần phải đổi mới công nghệ.
● Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế
Các chỉ tiêu phản ánh chi phí sản xuất lúa bao gồm chi phí trung gian như
chi phí về giống, phân bón, thuốc BVTV, chi phí vận chuyển lúa sau thu hoạch,
chi phí tuốt lúa, các chi phí khác theo quy định của HTX và chi phí công lao
động. Tổng chi phí (TC) bao gồm chi phí trung gian (IC) và chi phí lao động gia
đình.
- Giá trị sản xuất/sào (GO/sào): là chỉ tiêu cho biết bình quân một sào lúa
thu được bao nhiêu đơn vị giá trị sản xuất.
Lợi nhuận = GO – TC
18


Trong đó, TC là tổng chi phí sản xuất = IC + Chi phí lao động gia đình.
Lợi nhuận ròng là lợi nhuận tính cả chi phí lao động.
-

Giá trị sản xuất (GO): là toàn bộ giá trị của cải vật chất và dịch vụ được hộ nông
dân sáng tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Đây là chỉ tiêu
tổng hợp nói lên quy mô, cơ cấu hoạt động sản xuất kinh doanh của nông hộ.
GO=∑Q*P

Trong đó:
Q : Khối lượng sản phẩm được sản xuất ra
P : Giá bình quân một đơn vị sản phẩm

-

Giá trị gia tăng (VA): Phản ánh giá trị tăng thêm so với chi phí mua ngoài bỏ ra
(chưa tính khấu hao và công lao động gia đình).
VA = GO - IC
Trong đó: IC là chi phí trung gian, bao gồm những chi phí vật chất và dịch
vụ mua ngoài dùng cho sản xuất, không bao gồm chi phí khấu hao tài sản.
- Hiệu suất VA/IC: là chỉ tiêu phản ánh về lượng, cho biết cứ một đồng chi
phí trung gian được đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị gia tăng. Đây là
chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả kinh tế đạt được.
- Tỷ suất lợi nhuận (P/TC): cho biết một đồng chi phí sản xuất bỏ ra thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận tương ứng.
2.2 . Cơ sở thực tiễn
2.2.1 . Kinh nghiệm sản xuất trên thế giới
Trên thế giới, nhiều nước cũng sản xuất nông nghiệp với phương thức hiện
đại mang lại hiệu quả cao. Để mong muốn phát triển nền nông nghiệp nước nhà,
chúng ta cần nhìn nhận để tìm hiểu, học hỏi các thành tựu sản xuất trên thế giới.
Nhìn từ góc độ các quốc gia có quy trình phát triển nông nghiệp hiện đại
trong khu vực, điển hình như Thái Lan, tất cả các khâu từ chính sách ưu đãi
trong sản xuất nông nghiệp, nghiên cứu, phát triển giống chất lượng cao, xây
dựng thương hiệu, quản lý thương hiệu, dự báo kinh tế, xuất khẩu mặt hàng gạo
thế giới đến việc thu mua, ổn định nguồn gạo, giá cả… cho nông dân luôn được
chính quyền từ trung ương đến địa phương triển khai đồng loạt, hiệu quả. Từ đó,
Thái Lan luôn đứng đầu thế giới về xuất khẩu lúa gạo trên cả hai phương diện
chất lượng, giá cả.
19



20


Tại các vùng trồng nho ở Pháp, như vùng Bordeaux và nhiều vùng khác,
các nhà sản xuất, tổ chức sản xuất của người dân như HTX, hiệp hội, đều thống
nhất thực hiện hành động tập thể chung về qui hoạch vùng sản xuất, qui trình
sản xuất (giống, kỹ thuật sản xuất...), quy trình thu hoạch, quy trình chế biến,
đóng gói và thương hiệu trên thị trường. Những quy trình đó, sau khi được các
tổ chức của nông dân thống nhất, đề xuất lên các cơ quan nhà nước, được công
nhận, sẽ trở thành công cụ có tính pháp lí để kiểm soát các hành động tập thể
của nông dân, doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Các cơ quan nhà nước
cũng thực hiện kiểm tra, giám sát theo các cam kết của nông dân. Trong các yếu
tố liên kết hành động tập thể, đôi khi nhà nước cũng khuyến khích các tổ chức
nông dân áp dụng các tiêu chuẩn môi trường, sinh thái..., đây cũng là cách thức
để áp dụng chính sách mới trong sản xuất nông nghiệp. (Vũ Trọng Bình, Ðỗ
Ðức Chiến, 2012)
Sản xuất lúa ở Malaysia trước đây cũng gặp tình trạng đất nhỏ lẻ và manh
mún, bình quân 0,1-0,5ha/hộ. Công cuộc thay đổi để cải thiện năng suất lúa
gạo ở Malaysia được thực hiện từng bước qua nhiều năm bằng cách tác động
vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Chính phủ xây dựng cơ sở hạ tầng bao gồm hệ
thống kênh mương thủy lợi, đường cho máy móc vào ruộng, đường giao thông
cho đi lại và vận chuyển sản phẩm phục vụ cho quá trình cơ giới hóa sản xuất
và dồn điền đổi thửa. Cơ sở hạ tầng được cải thiện dần, nhằm thích nghi với sự
cải tiến về công nghệ, như máy móc lớn hơn, công nghệ gieo sạ thẳng thay vì
công nghệ truyền thống. Chính phủ khuyến khích sử dụng máy móc vào làm
đất và vận chuyển nhằm giảm thiểu sử dụng lao động và cắt giảm chi phí. Các
nhà máy chế biến được xây dựng gần các khu sản xuất nhằm dễ dàng vận
chuyển và giảm chi phí.

Có ba hình thức Malaysia sử dụng để tăng quy mô diện tích của các đơn vị
sản xuất lúa đó là: Một là doanh nghiệp thuê những mảnh đất nhỏ của nông dân
và làm tất cả các khâu; Hai là các HTX và tổ chức của nông dân đứng ra tổ
chức canh tác trên mảnh ruộng lớn; Ba là doanh nghiệp thương mại phát triển và
quản lý các cánh đồng rộng có nhiều mảnh lớn hoặc mảnh liền thửa. Xu hướng
dồn ruộng đất thành mảnh lớn ở Malaysia, ngoài những lý do về giảm chi phí và
tăng năng suất lúa, còn lý do khác là áp lực về lao động nông nghiệp ngày càng
ít đi, trong khi đất lúa bị chuyển đổi mục đích sử dụng sang cây trồng có lợi
nhuận lớn hơn.
Mô hình tiêu biểu sản xuất lúa trên quy mô lớn của Maylaysia là ở
21


Seberang Perak được quản lý bởi Federal Land Consolidation and Rehabilitation
Authority (FELCRA) trong khuôn khổ một dự án của chính phủ với ngân hàng
thế giới. Trong vùng sản xuất này, mỗi hộ được nhận một diện tích như nhau là
1,2 ha trồng lúa và 1,2 ha trồng cọ. Các hoạt động đều được làm bằng máy và
được thuê từ bên ngoài. Các hoạt động được điều phối bởi FELCRA nhằm đảm
bảo tính thống nhất và kịp thời vụ. Nông dân tham gia với tư cách là người lao
động nhận lương và được chia lợi tức. Mô hình ở Seberang Perak được nhân
rộng ra nhiều vùng khác nhau do các công ty tư nhân thực hiện.
Từ kinh nghiệm của Malaysia có thể rút ra một số bài học: Thứ nhất, chính
phủ đứng ra quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng cho “cánh đồng lớn”. Cơ sở
hạ tầng luôn luôn được cải thiện và nâng cấp để đáp ứng những thay đổi trong
sản xuất. Hai là áp dụng công nghệ và máy móc hiện đại để nâng cao năng suất
lao động, năng suất sản phẩm và giảm chi phí. Ba là, hoạt động sản xuất do một
cơ quan quản lý nhằm đảm bảo tính thống nhất và kịp thời vụ. Bốn là, dồn ruộng
đất để tăng quy mô sản xuất và tổ chức lại thành ô thửa thuận tiện cho sử dụng
máy móc.
Tóm lại, những kinh nghiệm thành công của các nước dựa trên các nguyên

tắc cơ bản sau:
Quy hoạch vùng ổn định cho sản phẩm: Nhà nước phải quy hoạch, minh
bạch rõ ràng vùng sản xuất cho sản phẩm nào đó mang tính lâu dài. Nhiều nước,
nông dân chỉ được cấp giấy phép sản xuất sản phẩm nào đó theo quy hoạch, nếu
sản xuất sai quy hoạch có thể bị phạt hoặc thu hồi giấy phép sản xuất. Tại các
vùng quy hoạch đó, chỉ những doanh nghiệp chế biến sản phẩm đó mới được
cấp phép xây dựng và vận hành. Toàn bộ hạ tầng, khoa học công nghệ cũng sẽ
đầu tư theo quy hoạch. Sự kết hợp tổng lực đó, sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh,
không những về điều kiện tự nhiên, mà còn về chi phí sản xuất, chi phí giao dịch
thương mại, áp dụng khoa học công nghệ, giảm rủi ro, không có sự cạnh tranh
lộn xộn giữa các doanh nghiệp, doanh nghiệp và nông dân phải tôn trọng hợp
đồng đã kí, nếu không sẽ bị phạt hoặc thu hồi giấy phép sản xuất kinh doanh.
Xác định và xây dựng được các yếu tố liên kết nông dân, liên kết nông dân
và doanh nghiệp: như quy trình sản xuất, quy trình chế biến đóng gói, kế hoạch
phân phối theo yêu cầu thị trường, các nguyên tắc quản trị sự liên kết nông dân.
Trên cơ sở thông tin thị trường, tiếp cận dựa trên thị trường, xây dựng quy trình
quản lí chất lượng dựa trên thị trường mà sản phẩm đó được bán, vừa mang tính
kĩ thuật và chú ý đến quản trị các quy trình kĩ thuật trong sản xuất, thương mại
toàn chuỗi sản phẩm. Những quy trình này, khi được nhà nước công nhận, sẽ là
công cụ để quan trị trong chuỗi sản phẩm và kiểm soát của nhà nước.
22


23


Vai trò của các tổ chức nông dân trong cánh đồng lớn: Cánh đồng lớn chỉ
thành công khi nông dân thực sự tổ chức được các tổ chức sản xuất hợp tác của
họ như HTX, hiệp hội, nghiệp đoàn của các chủ trang trại trên phạm vi nhưng
cánh đồng lớn, tiểu vùng, vùng và cả cấp quốc gia. Chính các tổ chức nông dân

này, phải là một đối tác bình đẳng đủ lớn, đủ mạnh, độc lập bảo vệ quyền lợi
kinh tế của nông dân trong đàm phán với doanh nghiệp, chính quyền địa phương
trong quy hoạch vùng sản xuất, xây dựng liên kết dọc theo chuỗi ngành hàng với
doanh nghiệp.
Xây dựng chuỗi ngành hàng bền vững: Chuỗi ngành hàng chỉ bền vững
khi được xây dựng dựa trên vùng sản xuất ổn định, có những cánh đồng lớn
trên cơ sở liên kết chặt chẽ giữa nông dân và liên kết chặt chẽ giữa nông dân
và doanh nghiệp trên cơ sở cùng chia sẻ rủi ro, hệ thống quản trị chất lượng
chung, chia sẻ hợp lí giá trị gia tăng trong chuỗi, có thể cùng quản trị chung
thương hiệu sản phẩm.
Tóm lại, CĐML sự hình thành trước tiên dựa trên các chính sách của nhà
nước, đảm bảo cho điều kiện hình thành và phát triển những cánh đồng lớn gắn
với chuỗi ngành hàng như quy hoạch, khuyến khích sản xuất thực hành tốt, quản
lí chất lượng, hỗ trợ xây dựng thương hiệu....trên cùng một khu vực quy hoạch
và chuỗi sản phẩm. Nhà nước có chính sách khuyến khích những cánh đồng lớn
phải đảm bảo quản trị sản xuất tốt hơn về chất lượng sản phẩm, canh tác thân
thiện môi trường, giá thành thấp, áp dụng KHCN, kế hoạch cung ứng để làm cơ
sở tiếp cận thị trường với sản phẩm cạnh tranh cả về giá và chất lượng.
2.2.2 . Chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về khuyến khích phát
triển mô hình Cánh Đồng Mẫu Lớn
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương, chính sách
để thúc đẩy sự liên kết giữa cơ sở chế biến với người sản xuất nguyên liệu nông
nghiệp như: Ngày 24 tháng 6 năm 2002, thủ tướng chính phủ đã ký quyết định
số 80/2002/QĐ-TTg khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp
đồng giữa doanh nghiệp với nông dân. Theo quyết định này, nhà nước khuyến
khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ký kết hợp đồng tiêu thụ
nông sản hàng hoá với người sản xuất để phát triển sản xuất ổn định và bền
vững. Các doanh nghiệp ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản với người sản xuất
sẽ được Nhà nước hỗ trợ về đất đai, đầu tư, tín dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật và công nghệ, thị trường và xúc tiến thương mại.

24


Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg của Chính phủ là kết quả của quá trình
tổng kết thực tiễn sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hoá của các doanh nghiệp
địa phương diễn ra ở các năm trước.
Chỉ thị về việc tăng cường chỉ đạo tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng
quyết định Số 25/2008/CT-TTg 25 tháng 08 năm 2008 ra quyết định nhằm khắc
phục quá trình triển khai thực hiện còn có những hạn chế, tồn tại: nhiều địa
phương chưa tập trung chỉ đạo quyết liệt việc triển khai thực hiện quyết định của
Thủ tướng Chính phủ; doanh nghiệp, hộ nông dân chưa thực sự gắn bó và thực
hiện đúng cam kết đã ký; tỷ lệ nông sản hàng hóa được tiêu thụ thông qua hợp
đồng còn rất thấp (lúa hàng hóa 6-9% sản lượng, thủy sản dưới 10% sản lượng,
cà phê 2-5% diện tích); doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư vùng nguyên liệu,
chưa điều chỉnh kịp thời hợp đồng bảo đảm hài hòa lợi ích của nông dân khi có
biến động về giá cả; trong một số trường hợp, nông dân không bán hoặc giao
nông sản cho doanh nghiệp theo hợp đồng đã ký; xử lý vi phạm hợp đồng không
kịp thời và chưa triệt để; tình trạng tranh mua, tranh bán vẫn xảy ra khi đã có
hợp đồng.
Chỉ thị số 1965/CT-BNN-TT ngày 13-06-2013 của Bộ NN-PTNT về đẩy
mạnh liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo CĐML nhằm nâng cao hiệu quả,
giá trị gia tăng trong sản xuất trồng trọt và khắc phục những hạn chế.
Để áp dụng rộng rãi mô hình CĐML trong sản xuất, khắc phục những hạn
chế nêu trên, Bộ trưởng Bộ NN và PTNT đề nghị UBND các tỉnh, thành phố
trực thuộc Bộ Trung ương và các đơn vị có liên quan thuộc Bộ tập trung chỉ đạo
đẩy mạnh liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo mô hình CĐML. Đối với suất
lúa gạo: Vùng Đồng bằng sông Cửu Long, định hướng xây dựng CĐML là tiến
tới hình thành vùng nguyên liệu lúa hàng hóa xuất khẩu chất lượng cao lộ trình 3
bước: xây dựng mô hình CĐML xây dựng vùng nguyên liệu liệu hàng hóa, xây
dựng thương hiệu lúa gạo từ vùng nguyên liệu sản xuất theo VietGAP. Các vùng

khác mở rộng áp dụng đối với lúa gạo chất lượng cao để phục vụ thị trường
trong nước và một số thị trường nước ngoài yêu cầu gạo đặc sản.
Ngày 25 tháng 10 năm 2013, thủ tướng chính phủ quyết định số
62/2013/QĐ-TTg về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản
xuất gắn với tiêu thụ nông sản xây dựng CĐML. Quy định này thay thế quyết
định số 80/2002/QÐ-Tt ngày 24 tháng 6 năm 2002 của thủ tướng chính phủ
khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng.
25


×