Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

KHOA LUAN THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN Ở CHI CỤC THADS HUYỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.43 KB, 35 trang )

Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Thi hành án dân sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm
mục đích đưa BA, QĐ dân sự của Toà án và các quyết định của các cơ quan, tổ
chức khác ra thực hiện trên thực tế theo quy định của pháp luật. Nếu như một
BA, QĐ của Toà án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành
không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem
thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực BA, QĐ của Toà án là một yêu cầu
khách quan trong hoạt động quản lý Nhà nước. BA, QĐ của Toà án được thi
hành là lúc công lý được thực hiện trong cuộc sống, góp phần bảo đảm tính
nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, giữ vững ổn định chính trị - xã
hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước. Bên cạnh đó, trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thì các tranh chấp phát
sinh ngày càng nhiều. Để đáp ứng nhu cầu giải quyết vụ việc giữa các bên một
cách thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu quả, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà chủ
thể của những tranh chấp, mâu thuẫn đó có thể lựa chọn một trong các phương
thức giải quyết khác nhau được pháp luật quy định. Khi Toà án hoặc các cơ quan,
tổ chức khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật ra phán quyết để giải
quyết tranh chấp hoặc một vụ việc cụ thể thì một yêu cầu được đặt ra là các phán
quyết đó cần được thi hành trên thực tế.
Trên thực tế, thời gian qua Chi cục thi hành án dân sự huyện Trà Bồng đã
thi hành nhiều vụ việc đạt kết quả tốt. Theo Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện


Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XVIII ngày 20 tháng 1 năm
2015 của Chi cục, số việc chi cục THADS huyện Trà Bồng thụ lý từ năm 2010 –
2014 là 565 việc. Trong đó, giải quyết xong 525/545 việc có điều kiện giải quyết,
đạt tỷ lệ 96,3% trong tổng số việc có điều kiện giải quyết; Tổng số tiền thụ lý giải

SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

quyết là 3.972.437.900 đồng,… Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn thi
hành án dân sự tại Chi cục THADS huyện Trà Bồng vẫn còn tồn tại những hạn
chế, bất cập như kết quả thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ công tác chuyên môn
chưa cao. Một số vụ việc thi hành án còn tồn đọng, kéo dài chưa được giải quyết
dứt điểm,…
Luật thi hành án dân sự ra đời năm 2008, trải qua thời gian thực hiện trên
thực tế đã bộc lộ những bất cập, hạn chế trong quy định về thủ tục thi hành án
dân sự nói chung và trong thực tiễn tổ chức thi hành án nói riêng. Trong điều
kiện cải cách tư pháp, mở cửa thị trường, chúng ta cần xây dựng một hành lang
pháp lý bằng những thủ tục đơn giản, nhanh gọn, tiện lợi để việc thực hiện trên
thực tế đạt hiệu quả.
Xuất phát từ những lý do trên, em lựa chọn đề tài: “Thực tiễn tổ chức
việc thi hành án tại huyện Trà Bồng” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình
với mong muốn làm rõ hơn một số vấn đề lý luận cơ bản về thi hành án, thực
trạng thực hiện thi hành án dân sự trên thực tế và đưa ra một số kiến nghị nhằm
nâng cao công tác thi hành án trên phạm vi nước ta nói chung và công tác thi
hành án tại Chi cục THADS huyện Trà Bồng nói riêng.
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu của đề tài

2.1.Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về công tác thi hành án dân
sự tại huyện Trà Bồng, các quy định của pháp luật hiện hành về thi hành án dân
sự và thực tiễn áp dụng chúng tại Chi cục THADS huyện Trà Bồng.
2.2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu nội dung đề tài khoá luận, nhằm làm rõ những vấn đề
sau:
Một là, làm rõ những vấn đề lý luận về thi hành án dân sự.
Hai là, quy định pháp luật hiện hành về thủ tục thi hành án dân sự và thực
tiễn công tác thi hành án tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trà Bồng.
Ba là, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trên thực tế.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phạm vi về không gian nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu trên phạm vi
huyện Trà Bồng, Tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi về thời gian nghiên cứu:…..
- Phạm vi về nội dung nghiên cứu:
+ Nghiên cứu lý luận về thi hành án dân sự như khái niệm thi hành án dân
sự, bản chất, ý nghĩa THADS và các giai đoạn tổ chức thực hiện THADS,…
+ Nghiên cứu thực trạng thi hành án dân sự tại Chi cục THADS huyện Trà
Bồng, những quả đạt được cũng như hạn chế còn tồn tại.
SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

+ Tìm ra nguyên nhân và đưa ra các đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện pháp
luật, góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án trên thực tế.

4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta hiện nay về thi hành án.
Để làm sáng tỏ nội dung đề tài nghiên cứu, trong khóa luận này tác giả đã
sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử
cùng các phương pháp khoa học cụ thể như phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp và phương pháp logic. Ngoài ra, khóa luận tham khảo các tư liệu thực
tiễn tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trà Bồng, kết hợp với đánh giá thực
tiễn áp dụng pháp luật về thi hành án để hoàn thành khóa luận có chất lượng
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
5.1. Ý nghĩa khoa học
- Góp phần hoàn thiện pháp luật về thi hành án và tăng cường hiệu quả
thực hiện công tác thi hành án trên thực tế.
- Kết quả nghiên cứu làm cơ sở, tiền đề trong việc đảm bảo công tác thi
hành án dân sự đạt hiệu quả cao, bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể liên
quan.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Chỉ ra những bất cập, hạn chế trong việc áp dụng quy định pháp luật về
thi hành án
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thiện thi
hành án trên thực tế
6. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục từ
viết tắt, nội dung khoá luận gồm 3 chương chính sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về công tác thi hành án dân sự
Chương 2: Thực tiễn thực hiện thi hành án dân sự tại chi cục thi hành án
dân sự huyện Trà Bồng
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
thi hành án tại chi cục thi hành án dân sự huyện Trà Bồng


SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, bản chất, ý nghĩa thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm về thi hành án dân sự
Các BA, QĐ dân sự để được thực thi trên thực tế đều phải thông qua việc
thi hành án. Hoạt động thực thi trên thực tế các BA, QĐ dân sự có hiệu lực thi
hành là một hoạt động đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, THA một mặt bảo đảm việc
thực hiện quyền lực Nhà nước, mặt khác lại là công cụ hữu hiệu để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân khi bị xâm hại. Trong các công
trình nghiên cứu khoa học về THA, có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái
niệm THA, có quan điểm xem THA là một giai đoạn tố tụng, có quan điểm lại
cho rằng THA là hoạt động quản lý hành chính – tư pháp,…
Nhưng quan điểm khác lại cho rằng: “ Thi hành án là thủ tục tố tụng tư
pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành để thi hành BA, QĐ
của Toà án hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước, tổ chức khác do pháp luật
quy định nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các
cơ quan, tổ chức và cá nhân”.1
Có thể hiểu hoạt động thi hành án là hoạt động diễn ra sau giai đoạn xét
xử của Toà án. Phán quyết của Toà án sẽ được hiện thực hoá trên thực tế thông
qua hoạt động thi hành án. Các BA, QĐ dân sự do CQTHADS thi hành không
chỉ là BA, QĐ của Toà án về vụ án dân sự, kinh tế, lao động, bản án hoặc quyết

định dân sự của Toà án nước ngoài mà còn là các quyết định về dân sự, phạt tiền,
tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án
phí trong BA, QĐ của Toà án về vụ án hình sự và quyết định về phần tài sản
trong BA, QĐ của Toà án về vụ án hành chính, quyết định của Trọng tài, Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
Như vậy,“Thi hành án dân sự là thủ tục thi hành các BA, QĐ về dân sự,
hôn nhân và gia đình, lao động, quyết định về tài sản trong BA, QĐ về hình sự,
hành chính và quyết định khác do Cơ quan thi hành án dân sự thực hiện theo quy
định của pháp luật”.2
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động thi hành án
Thứ nhất, thi hành án dân sự là thủ tục tư pháp được pháp luật quy định.
Thủ tục THADS được quy định tại chương 3 Luật THADS 2008 từ Điều 26 đến
1 Trần Anh Tuấn, Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sí luật học, Hà Nội, 2004,
Tr 14.
2 Trần Anh Tuấn, Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sí luật học, Hà Nội, 2004,
tr 15

SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

Điều 65, quy định tại Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS về thủ tục THADS,
Nghị định số 125/2013/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13-7-2009 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành
án dân sự; Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày

26/7/2010 hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục THADS và phối hợp liên ngành
trong THADS, Thông tư 144/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 22/9/2010 hướng dẫn
chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí THADS; Thông tư số 09/TT-BTP ngày
30/5/2011 về việc ban hành và hướng dẫn việc quản lý, sử dụng các loại biểu
mẫu nghiệp vụ THADS,…
Thứ hai, hoạt động thi hành án là hoạt động nhằm thi hành phán quyết của
Toà án, Trọng tài, Hội đồng xét xử vụ việc cạnh tranh và có mối quan hệ mật
thiết với các giai đoạn tố tụng trước đó. Trên cơ sở các BA, QĐ do Toà án, Trọng
tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh chuyển giao hoặc đơn yêu cầu thi hành án
của đương sự, cơ quan thi hành án, ra quyết định thi hành và thụ lý, tổ chức việc
thực hiện thi hành án. THADS là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối
quan hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó. Tuy nhiên, THA lại
có tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu bằng quyết
định của Thủ trưởng CQTHADS đối với thi hành án dân sự. Những quyết định
này mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và
nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án. Các cơ quan, tổ chức, công dân, trong
phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để
thi hành án đạt hiệu quả.
Thứ ba, hoạt động thi hành án dân sự bao gồm nhiều thủ tục khác nhau.
Qúa trình THADS thực hiện thông qua nhiều thủ tục, theo trình tự có tính kế tiếp.
Mỗi khâu trong quá trình thi hành án dân sự được thực hiện bằng nhiều thủ tục
khác nhau, tạo ra “ xâu chuỗi” của toàn bộ quá trình thi hành án dân sự.
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động thi hành án
Thứ nhất, hoạt động thi hành án dân sự là cơ sở pháp lý đảm bảo thi hành
BA, QĐ có hiệu lực thi hành và thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Kết
quả của quá trình xét xử là giải quyết các tranh chấp và đưa ra các BA, QĐ có
hiệu lực thi hành nhưng những BA, QĐ đó nếu không được đưa ra thi hành thì
chỉ là những phán quyết trên giấy tờ, không có giá trị pháp lý ràng buộc các bên
trong quan hệ THADS, không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương
sự. Cho nên, pháp luật quy định về thủ tục THADS là cần thiết và đảm bảo cho

việc thực thi các BA, QĐ trên thực tế, thể hiện sự tôn trọng các phán quyết của
Toà án, sự nghiêm minh của pháp luật. Vì nếu không thực thi các phán quyết trên

SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

thực tế thì quá trình xét xử, giải quyết của Toà án, Trọng tài cũng như Hội đồng
xử lý vụ việc cạnh tranh là vô nghĩa.
Thứ hai, hoạt động thi hành án thể hiện việc thi hành có tuân theo pháp
luật hay không, có giữ vững uy tín, danh sự của chấp hành viên và cán bộ cơ
quan thi hành án dân sự. Hoạt động thi hành án có ý nghĩa quan trọng trong việc
đảm bảo thi hành án theo đúng pháp luật, hạn chế tình trạng lạm quyền để thi
hành những BA, QĐ không thuộc thẩm quyền thi hành của mình. Đồng thời,
ngăn chặn các cơ quan thi hành án dân sự từ chối, đùn đẩy trách nhiệm thi hành
những BA, QĐ mà cơ quan mình có trách nhiệm phải thi hành. Bên cạnh đó, việc
luật hoá các thủ tục thi hành án trong pháp luật THADS còn là cơ sở pháp lý cho
Chấp hành viên, cán bộ cơ quan thi hành án căn cứ vào đó để thực hiện, bảo vệ
quá trình thi hành án, bảo vệ quan điểm cũng như uy tín, danh dự của chính
mình. Nếu làm được như vậy mới tạo được niềm tin của nhân dân vào Đảng,
pháp luật và Nhà nước.
Thứ ba, hoạt động thi hành án dân sự cơ sở đảm bảo lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Qúa trình thi hành án nhằm khôi
phục lại tình trạng ban đầu về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Do đó, các
trình tự, thủ tục thi hành án cũng được quy định chặt chẽ bởi pháp luật giống như
những thủ tục tố tụng trước đó vì đều liên quan đến quyền con người, quyền công
dân. Hơn nữa, yêu cầu đặt ra đối với những người tiến hành các trình tự, thủ tục

thi hành án, kể cả chấp hành viên là phải độc lập và tuân theo pháp luật để đảm
bảo duy trì sự thật trong BA, QĐ của Toà án và tiến tới đạt được sự thật trên thực
tế, nếu không độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thì giá trị sự thật mà BA, QĐ
dân sự có hiệu lực thi hành đã xác định sẽ không còn nguyên nghĩa của nó, trừ
trường hợp các đương sự có sự thoả thuận tự nguyện khác trong quá trình thi
hành án.
Việc thực hiện THA đúng thủ tục do pháp luật quy định, bảo đảm BA, QĐ
có hiệu lực thi hành theo thủ tục THADS kịp thời thì lợi ích của cá nhân và cộng
đồng sẽ được bảo vệ, kỷ cương phép nước được tôn trọng, trật tự xã hội được
củng cố.
1.2. Khái quát chung về công tác thi hành án tại huyện Trà Bồng
Trà Bồng là huyện miền núi, nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Quảng Ngãi.
Trong những năm gần đây, công tác thi hành án tại Chi cục THADS huyện Trà
Bồng đang ngày càng nâng cao với số lượng án thụ lý tăng lên đáng kế, trong đó
án phức tạp, khó thi hành ngày càng nhiều. Với đặc thù địa bàn huyện miền núi,
phần lớn đương sự phải thi hành án là người dân tộc thiểu số, điều kiện kinh tế
còn khó khăn nên không có điều kiện để thi hành án, cộng với trình độ nhận thức
và hiểu biết pháp luật của đối tượng phải thi hành án còn thấp. Do vậy, gây
không ít khó khăn cho công tác tổ chức thi hành án trên địa bàn.
SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

Mặt khác về nguồn lực con người, số lượng Chấp hành viên và công chức
khác tại đơn vị chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ đã làm ảnh hưởng đến
quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác trong năm của thi hành án dân sự huyện
Trà Bồng. Để góp phần khắc phục, tập thể thi hành án dân sự huyện Trà Bồng đã

tranh thủ được sự quan tâm, chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Thi hành án
dân sự tỉnh; sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đảng và chính quyền cấp huyện; sự
phối kết hợp giữa các ngành hữu quan, đặc biệt là chính quyền địa phương cấp xã
- nơi người phải thi hành án cư trú trong việc giáo dục, động viên và thuyết phục
người phải thi hành án tự nguyện thi hành. Bên cạnh đó, tập thể Thi hành án dân
sự huyện Trà Bồng luôn đề cao và phát động cho cán bộ công chức trong đơn vị
thường xuyên học tập, chịu khó tìm tòi nghiên cứu các văn bản pháp luật của nhà
nước nhằm nâng cao nghiệp vụ; trong hoạt động tổ chức thi hành án cán bộ công
chức của cơ quan luôn nỗ lực hết mình, phấn đấu giữ vững phong trào, bám sát
nhiệm vụ công tác trọng tâm nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao… 3
1.3. Các giai đoạn trong tổ chức thi hành án dân sự
1.3.1. Nhận, từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án dân sự
1.3.1.1. Nhận đơn yêu cầu thi hành án dân sự
Theo quy định tại Điều 33 Luật THADS năm 2008, khoản 1 Điều 1 Nghị
định số 125/2013/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
58/2009/NĐ-CP ngày 13-7-2009 thì khi nhận đơn yêu cầu THADS, CQTHADS
phải kiểm tra nội dung đơn và các tài liệu kèm theo, vào sổ nhận đơn yêu cầu
THA và cấp giấy biên nhận cho người nộp đơn. Trường hợp đơn yêu cầu thi
hành án không có đầy đủ các nội dung đúng theo quy định hoặc không nêu rõ
thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án nhưng không yêu
cầu xác minh thì CQTHADS thông báo để đương sự bổ sung nội dung đơn yêu
cầu thi hành án trước khi ra quyết định thi hành án.
Sổ nhận đơn yêu cầu THA phải thể hiện đầy đủ các nội dung theo quy
định tại khoản 2 Điều 33 Luật THADS năm 2008. Đây là thủ tục không thể thiếu
trong quá trình thi hành án, nếu chỉ vì sự sơ ý, thiếu trách nhiệm mà cán bộ
CQTHADS vào sổ nhận đơn nhưng lại không ghi đầy đủ các nội dung quy định
hoặc ghi sai thông tin; đã nhận đơn nhưng lại không vào sổ nhận đơn yêu cầu thi
hành án… thì BA, QĐ đó có thể bị bỏ quên, không được đưa ra thi hành trên
thực tiễn, quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, cơ quan, tổ chức không được
đảm bảo. Ngay sau khi nhận được đơn thì CQTHADS phải cấp hoặc gửi bằng

đường bưu điện biên nhận cho người nộp đơn.
1.3.1.2. Từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án dân sự

3 />
SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

Khi có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Luật THADS năm 2008
thì CQTHA có thẩm quyền sẽ từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án đối với việc
yêu cầu thi hành án không đáp ứng đủ điều kiện thi hành như:
- Người yêu cầu THADS không có quyền yêu cầu thi hành án khi họ
không phải là người được THA hay người phải THA theo BA, QĐ và cũng
không phải là người đại diện theo pháp luật, không phải là người đại diện theo ủy
quyền của họ;
- Nội dung đơn yêu cầu THA không liên quan đến nội dung BA, QĐ như:
Nội dung mà đương sự yêu cầu không có trong BA, QĐ; Nội dung mà đương sự
yêu cầu không xác định được quyền, nghĩa vụ và nội dung thi hành án của người
được thi hành án, người phải thi hành án…
- CQTHADS được yêu cầu không có thẩm quyền thi hành án. Hiện nay,
thẩm quyền thi hành án dân sự được quy định tại Điều 35 Luật THADS năm
2008;
- Thời hiệu yêu cầu thi hành án đã hết theo Điều 30 Luật THADS năm
2008.
Trường hợp từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án dân sự thì CQTHADS
phải thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do của việc từ chối nhận đơn yêu cầu thi
hành án cho người nộp đơn yêu cầu thi hành án trong thời hạn 05 ngày làm việc,

kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu thi hành án. 4
1.3.2. Ra quyết định thi hành án dân sự, thông báo về thi hành án dân
sự
1.3.2.1. Ra quyết định thi hành án dân sự
Quyết định THADS là một trong các căn cứ để tổ chức THADS. Do đó,
để có căn cứ tổ chức THADS thì trước khi tổ chức, thủ trưởng CQTHADS phải
ra quyết định thi hành án. Luật THADS năm 2008 phân biệt những loại việc
thuộc trách nhiệm của CQTHADS phải chủ động ra quyết định thi hành án và
những loại việc CQTHADS chỉ ra quyết định thi hành án khi có yêu cầu thi hành
án của đương sự.
Ngoài những nội dung trong BA, QĐ đã được quy định tại khoản 1 Điều
36 Luật THADS năm 2008 thuộc trường hợp CQTHADS chủ động thi hành án
thì các nội dung còn lại của BA, QĐ như: bồi thường thiệt hại tính mạng, sức
khỏe, tiền cấp dưỡng, buộc thực hiện hành vi nhất định… Người được thi hành
án muốn buộc người phải thi hành án thi hành cho mình hoặc người phải THA
muốn được tự nguyện thi hành nghĩa vụ thông qua CQTHA thì phải yêu cầu thi
4Nghị định số 125/2013/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP
ngày 13-7-2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án
dân sự về thủ tục thi hành án dân sự.

SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

hành án và Thủ trưởng CQTHADS chỉ ra quyết định thi hành án khi có đơn yêu
cầu thi hành án.
Tùy từng trường hợp theo quy định tại khoản 5 Điều 5 Nghị định số

125/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 58/2009/NĐ-CP.
Theo đó, khi ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu, Thủ trưởng CQTHADS
có thể ra một quyết định thi hành án chung cho nhiều đơn yêu cầu.
Đối với từng trường hợp cụ thể, việc ra quyết định thi hành án được thực
hiện theo quy định tại Điều 2 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTPTANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 như sau:
- Trường hợp có nhiều người phải thực hiện nghĩa vụ liên đới thì nếu
người được thi hành án yêu cầu một hoặc một số người trong những người phải
thi hành án thực hiện nghĩa vụ liên đới thi hành toàn bộ nghĩa vụ thì CQTHADS
ra quyết định thi hành đối với người đó;
- Trường hợp đương sự là người chưa thành niên, bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự hoặc đương sự là pháp nhân thì Thủ trưởng CQTHADS ra quyết
định thi hành án theo yêu cầu của người đại diện theo pháp luật của đương sự;
- Trường hợp đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự hoặc là
người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc
cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị
Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc,
giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu thì Thủ trưởng
CQTHADS ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của người giám hộ;
- Trường hợp đương sự có ủy quyền cho người khác yêu cầu thi hành án
thì Thủ trưởng CQTHADS ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của người
được uỷ quyền.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 37 Luật THADS, người có thẩm quyền ra
quyết định về thi hành án, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về thi hành
án có quyền ra quyết định hủy hoặc yêu cầu hủy quyết định thi hành án của Thủ
trưởng CQTHADS cấp dưới, chấp hành viên thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp
trong trường hợp phát hiện có căn cứ thu hồi hoặc sửa đổi, bổ sung quyết định thi
hành án quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 37 Luật THADS năm 2008 mà Thủ
trưởng CQTHADS cấp dưới, chấp hành viên thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp
không tự khắc phục sau khi được yêu cầu hoặc quyết định thi hành án có vi phạm
pháp luật theo kết luận của cơ quan có thẩm quyền.

1.3.2.2. Thông báo về thi hành án dân sự.
Việc thông báo THADS được thực hiện theo các quy định từ Điều 39 đến
Điều 43 Luật THADS năm 2008, Điều 7 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày
13/7/2009 và Điều 3 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTCVKSNDTC ngày 26/7/2010.
SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

Theo quy định tại Điều 39 Luật THADS năm 2008 thì việc thông báo phải
được thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra văn bản, trừ trường
hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.
- Thông báo trực tiếp:
Việc thông báo trực tiếp cho đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên
quan có thể do chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án giao văn bản
cần thông báo cho người được thông báo thi hành án; hay do những chủ thể khác
thực hiện. Việc thông báo trực tiếp còn căn cứ vào đối tượng được thông báo là
cá nhân hay cơ quan tổ chức để thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
- Niêm yết công khai:
Việc niêm yết công hai văn bản thông báo chỉ được thực hiện trong trường
hợp không rõ địa chỉ người được thông báo hoặc không thể thực hiện được việc
thông báo trực tiếp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
CQTHADS có thể trực tiếp niêm yết hoặc ủy quyền cho UBND cấp xã
nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được thông báo hoặc cá nhân, tổ
chức có điều kiện theo quy định của pháp luật thực hiện việc niêm yết văn bản
thông báo tại trụ sở CQTHADS, trụ sở UBND cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú
cuối cùng của người được thông báo.
- Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng:

Việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng chỉ được thực hiện
khi pháp luật có quy định hoặc khi đương sự có yêu cầu.
1.3.3. Chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án dân sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Luật THADS năm 2008, việc chuyển
giao quyền, nghĩa vụ thi hành án được thực hiện như sau:
+ Trường hợp hợp nhất, tổ chức mới tiếp tục thực hiện quyền, nghĩa vụ thi
hành án, trừ trường hợp pháp luật không có quy định khác;
+ Trường hợp sáp nhập, tổ chức sáp nhập tiếp tục thực hiện quyền, nghĩa
vụ thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
+ Trường hợp chia tách thì cơ quan ra quyết định chia, tách phải xác định
rõ chủ thể tiếp tục thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án;
+ Trường hợp giải thể thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định giải thể
phải thông báo cho CQTHADS biết trước khi ra quyết định;
+ Trường hợp phá sản thì quyền, nghĩa vụ thi hành án được thực hiện theo
quyết định về phá sản;
+ Trường hợp doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi thành công ty cổ phần
mà trước đó chưa thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án thì sau khi chuyển đổi,
doanh nghiệp đó tiếp tục thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
Đối với đương sự là cá nhân thì việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ
THADS được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 54 Luật THADS năm
SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

Trang:


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

2008: “Trường hợp người được thi hành án, người phải thi hành án là cá nhân

chết thì quyền, nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao cho người khác theo quy
định của pháp luật về thừa kế”.
1.3.4. Ủy thác thi hành án và xác minh điều kiện thi hành án dân sự
1.3.4.1. Ủy thác thi hành án dân sự
Ủy thác THADS là một trong những biện pháp hiệu quả để giải quyết
những khó khăn cho công tác thi hành án, giảm lượng án tồn đọng, bảo đảm
quyền lợi của người được thi hành án.
Hiện nay, theo quy định tại Điều 55 Luật THADS năm 2008 thì ủy thác
THADS được thực hiện theo những nguyên tắc sau:
+ Thủ trưởng CQTHADS phải ủy thác thi hành án cho CQTHADS nơi
người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú họăc có trụ sở;
+ Trường hợp người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có
trụ sở ở nhiều địa phương thì Thủ trưởng CQTHADS ủy thác thi hành án từng
phần cho CQTHADS nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án để thi
hành phần nghĩa vụ của họ;
+ Trường hợp ủy thác thi hành nghĩa vụ liên quan đến tài sản thì Thủ
trưởng CQTHADS ủy thác đến CQTHADS nơi người phải thi hành án có tài sản,
nếu không xác định được nơi tài sản hoặc nơi có tài sản trùng với nơi làm việc,
cư trú, có trụ sở của người phải thi hành án thì uỷ thác đến nơi làm việc, cư trú
hoặc nơi có trụ sở của người đó;
+ Trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới mà người phải thi hành án cư trú
hoặc có tài sản ở các địa phương khác nhau thì Thủ trưởng CQTHADS ủy thác
tòan bộ nghĩa vụ thi hành án đến CQTHADS thuộc một trong các địa phương nơi
người phải thi hành án có điều kiện thi hành.
Về thẩm quyền ủy thác THADS, được quy định tại Điều 56 Luật THADS
năm 2008:
“1. Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh uỷ thác thi hành các BA, QĐ sau
đây:
a) Uỷ thác cho cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi khác thi hành các
BA, QĐ về nhận người lao động trở lại làm việc hoặc bồi thường thiệt hại mà

người phải thi hành án là cơ quan nhà nước cấp tỉnh trở lên; BA, QĐ có yếu tố
nước ngoài hoặc liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ; quyết định của Trọng tài
thương mại; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh;
b) Ủy thác cho cơ quan thi hành án cấp quân khu thi hành vụ việc mà
đương sự hoặc tài sản có liên quan đến quân đội trên địa bàn;
c) Ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện vụ việc khác, trừ
những trường hợp quy định tại điểm a và điểm b của khoản này.
SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

Trang:


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

2. Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện ủy thác vụ việc thuộc thẩm
quyền thi hành án của mình cho cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi khác,
cơ quan thi hành án cấp quân khu, cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện khác
có điều kiện thi hành.
3. Cơ quan thi hành án cấp quân khu ủy thác vụ việc thuộc thẩm quyền thi
hành án của mình cho cơ quan thi hành án cấp quân khu khác, cơ quan thi hành
án dân sự cấp tỉnh hoặc cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có điều kiện thi
hành”
Trước khi ủy thác, CQTHADS phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài
sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến uỷ thác. Trường hợp Thủ trưởng
CQTHADS đã ra quyết định thi hành án nhưng xét thấy cần ủy thác thì phải ra
quyết định thu hồi một phần hoặc tòan bộ quyết định thi hành án và ra quyết định
ủy thác cho nơi có điều kiện thi hành.

CQTHADS nhận ủy thác phải thực hiện việc THADS đúng theo sự ủy
thác và quy định của pháp luật, không được trả lại quyết định ủy thác cho
CQTHADS đã ủy thác, trừ trường hợp quyết định ủy thác có sự nhầm lẫn, sai sót
rõ ràng về thẩm quyền của cơ quan nhận ủy thác, nội dung thi hành án.
1.3.4.2. Xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Việc xác minh điều kiện thi hành án được quy định tại Điều 44 Luật
THADS năm 2008 và Điều 6 Nghị định 123/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/07/2009 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành
án dân sự. Theo đó, người được thi hành án có quyền tự mình hoặc uỷ quyền cho
người khác xác minh điều kiện thi hành án. Trường hợp thi hành án theo đơn yêu
cầu, nếu người được thi hành án đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể
tự xác minh được điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì có thể yêu
cầu Chấp hành viên tiến hành xác minh. Việc yêu cầu này phải được lập thành
văn bản và phải ghi rõ các biện pháp đã được áp dụng nhưng không có kết quả,
kèm theo tài liệu chứng minh.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày chủ động ra quyết định thi hành án
hoặc kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh của người được thi hành án, Chấp
hành viên phải tiến hành việc xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải xác minh ngay.
Việc xác minh phải được lập thành biên bản, có xác nhận của tổ trưởng tổ
dân phố, Uỷ ban nhân dân, công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến hành
xác minh. Biên bản xác minh phải thể hiện đầy đủ kết quả xác minh.
1.3.5. Hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án và trả lại đơn yêu cầu
thi hành án dân sự
1.3.5.1. Hoãn thi hành án dân sự
SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

Trang:



Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

Hoãn THADS là việc CQTHADS quyết định chưa tổ chức thi hành BA,
QĐ khi có căn cứ pháp luật quy định.Việc hoãn THADS được thực hiện theo quy
định tại Điều 48 Luật THADS 2008. Căn cứ để hoãn THADS bao gồm các
trường hợp sau:
Một là, người phải THA ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện
trở lên; chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do
chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện được
nghĩa vụ theo BA, QĐ;
Hai là, người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi
hành;
Ba là, người phải thi hành các khỏan nộp ngân sách nhà nước không có tài
sản hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản đó không đủ chi phí cưỡng chế thi hành
án hoặc có tài sản nhưng tài sản thuộc loại không thể kê biên;
Bốn là, tài sản kê biên có tranh chấp đã được Tòa án thụ lý để giải quyết;
Năm là, việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải
thích BA, QĐ hoặc trả lời kiến nghị của CQTHADS về việc xem xét lại BA, QĐ
của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Ngoài ra, việc hoãn thi hành án còn được thực hiện trong những trường
hợp người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
đối với BA, QĐ của Tòa án yêu cầu hoãn thi hành án để xem xét kháng nghị
nhằm tránh hậu quả không thể khắc phục được.
Thủ trưởng CQTHADS ra quyết định hoãn thi hành án ngay khi nhận
được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị nhưng ít
nhất 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế thi hành án đã được ấn định trong quyết
định cưỡng chế. Trường hợp CQTHADS nhận được yêu cầu hoãn thi hành án

của người có thẩm quyền kháng nghị ít hơn 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế đã
được ấn định trong quyết định cưỡng chế thi hành án thì Thủ trưởng CQTHADS
có quyền quyết định hoãn thi hành án khi xét thấy cần thiết.
Trường hợp vụ việc đã được thi hành một phần họăc đã thi hành xong thì
CQTHADS phải có văn bản thông báo ngay cho người yêu cầu hoãn thi hành án.
Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ khi có căn cứ hoãn thi hành án
không còn, hết thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền
kháng nghị hoặc nhận được văn bản trả lời của người có thẩm quyền kháng nghị
về việc không có căn cứ kháng nghị thì Thủ trưởng CQTHADS phải ra quyết
định tiếp tục thi hành án.
1.3.5.2. Tạm đình chỉ thi hành án dân sự
Tạm đình chỉ THADS là việc CQTHADS quyết định tạm ngừng thi hành
BA, QĐ của Tòa án khi có căn cứ do pháp luật quy định. Việc tạm đình chỉ
THADS được thực hiện theo quy định tại Điều 49 Luật THADS năm 2008.
SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

Trang:


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

Căn cứ để tạm đình chỉ THADS bao gồm:
- CQTHADS nhận được thông báo của Tòa án về việc đã thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án;
- BA ,QĐ đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm.
Thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ THADS thuộc về Thủ trưởng
CQTHADS và người có thẩm quyền kháng nghị BA, QĐtheo thủ tục giám đốc

thẩm, tái thẩm.
1.3.5.3. Đình chỉ thi hành án dân sự
Đình chỉ THADS là việc CQTHADS quyết định ngưng hẳn việc thi hành
BA, QĐ dân sự khi có căn cứ theo quy định của pháp luật. Vấn đề đình chỉ
THADS đã được quy định rõ tại Điều 50 Luật THADS năm 2008.
1.3.5.4. Trả lại đơn yêu cầu thi hành án dân sự
Việc trả lại đơn yêu cầu THADS được thực hiện theo quy định tại Đìều 51
Luật THADS năm 2008:
“1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả lại đơn yêu
cầu thi hành án trong các trường hợp sau đây:
a) Người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản
nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài
sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án;
b) Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc mức thu nhập thấp, chỉ
bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án và gia đình;
c) Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không
nhận để thi hành án;
d) Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định
nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được mà
đương sự không có thoả thuận khác.
2. Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì người được thi
hành án có quyền yêu cầu thi hành BA, QĐ trong thời hạn quy định tại khoản 1
Điều 30 của Luật này, kể từ ngày phát hiện người phải thi hành án có điều kiện
thi hành.”

SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

Trang:



Đề tài thực tập tốt nghiệp

SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

Trang:


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI CHI
CỤC THADS HUYỆN TRÀ BỒNG
2.1. Những kết quả đạt được
Theo Báo cáo kết quả công tác thi hành án dân sự năm 2014 của chi cục
THADS huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi, công tác thi hành án dân sự đạt được
một số kết quả như:
Thứ nhất, số vụ việc và tiền được giải quyết tăng. Về việc: số vụ việc
chuyển sang năm 2014 là 31 việc; từ 01/10/2013 đến 30/9/2014, số thụ lý mới là
126 việc, tăng 20 việc (15%) so với cùng kỳ 2013. Như vậy, tổng số việc phải
giải quyết là 157 việc, tăng 20 việc (15%) so với cùng kỳ năm 2013. Kết quả xác
minh, phân loại có 137 việc có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ 87%), tăng 17
việc (14%) so với cùng kỳ năm 2013; 20 việc chưa có điều kiện giải quyết
(chiếm tỷ lệ 13%). Trong số việc có điều kiện giải quyết, đã giải quyết xong 117
việc, đạt tỷ lệ 85,4%, tăng 11 việc, cao hơn 10,4% so với cùng kỳ năm 2013 (so
với chỉ tiêu được giao năm 2014, còn thiếu 6,6%). Tổng số việc phải giải quyết
chuyển kỳ sau là 40 việc, tăng 9 việc (30%) so với số việc năm 2013 chuyển
sang.

Về tiền: đến hết tháng 9/2013, số cũ chuyển sang 585.065.603 đồng; từ
01/10/2013 đến 30/9/2014, số thụ lý mới là 1.509.503.621 đồng, tăng
960.272.800 đồng (175%) so với cùng kỳ 2013. Như vậy, tổng số tiền phải giải
quyết là 2.094.569.224 đồng, tăng 915.768.203 đồng (178%) so với cùng kỳ năm
2013. Kết quả xác minh, phân loại có 747.352.210 đồng có điều kiện giải quyết
(chiếm tỷ lệ 36%), tăng 43.833.989 đồng (106%) so với cùng kỳ năm 2013;
1.347.217.014 đồng chưa có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ 64%), tăng
871.934.214 đồng. Trong số việc có điều kiện giải quyết, đã giải quyết xong
552.826.125 đồng, đạt tỷ lệ 74%, giảm 40.909.293 đồng, (107%) so với cùng kỳ
năm 2013 (so với chỉ tiêu được giao năm 2014, còn thiếu 09%). Tổng số tiền
phải giải quyết chuyển kỳ sau là 1.541.743.099 đồng, tăng 956.677.496 đồng
(263,5%) so với số tiền năm 2013 chuyển sang.
* Về thi hành án đối với khoản thu cho Ngân sách Nhà nước
Số việc phải giải quyết loại này là 107 việc, tương ứng với số tiền
566.558.345 đồng (chiếm 68% về việc và 27% về tiền so với tổng số việc và tiền
phải giải quyết. Kết quả, trong số loại việc này đã giải quyết được 100 việc, thu
được 65.031.125 đồng, đạt tỷ lệ 96% về việc và 94,6% về tiền.
- Về số vụ việc đã kê biên, bán đấu giá nhưng chưa xử lý được: không có
- Vụ việc liên quan đến tín dụng, ngân hàng: không có.
- Về kết quả miễn, giảm thi hành án: không có.
- Về cưỡng chế thi hành án: không có.
SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

Trang:


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng


Thứ hai, công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ và kiểm tra thi hành án
tương đối tốt. Trong hoạt động hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, khi Chấp hành
viên trực tiếp tổ chức thi hành án đề xuất ý kiến xin hướng dẫn nghiệp vụ để có
biện pháp tổ chức thi hành đối với những trường hợp phức tạp đều được Thủ
trưởng Chi cục xem xét cho ý kiến hoặc tổ chức họp tổ nghiệp vụ để trao đổi
thống nhất kế hoạch, biện pháp tạo điều kiện cho Chấp hành viên giải quyết vụ
việc theo đúng quy định của pháp luật, mang lại hiệu quả. Những vụ việc phức
tạp, vượt quá khả năng của Chi cục trưởng thì Chi cục có văn bản xin ý kiến của
Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh để chỉ đạo kịp thời. Trong năm 2014, Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Trà Bồng có văn bản xin ý kiến chỉ đạo nghiệp vụ
của Cục Thi hành án dân sự tỉnh để giải quyết vụ việc giữa vợ chồng ông Trầm
Quốc Viễn với bà Hồ Thị Đêm có địa chỉ tại tổ 2, thôn 3, xã Trà Thủy, huyện Trà
Bồng.
Quá trình hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ tại Chi cục đều tuân thủ đúng quy
trình hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự được ban hành theo Quyết định số
1675/QĐ-TCTHA ngày 17/6/2010 của Tổng cục Thi hành án dân sự.
Công tác kiểm tra được thực hiện theo đúng quy định pháp luật. Lãnh đạo
Chi cục tổ chức triển khai việc kiểm tra đối với Chấp hành viên về việc ra quyết
định thi hành án, phân loại việc, tiền thi hành án. Qua kiểm tra, có 2 vụ việc ra
quyết định chưa đảm bảo đúng quy định (đơn yêu cầu thi hành án của DNTN
XNXD Hoàng Nhân đối với Công ty TNHH Một Thành viên Cường Thịnh chưa
đúng quy định nhưng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trà Bồng ra Quyết định
là sai quy định. Hiện đang khắc phục những vi phạm trong việc ra Quyết định thi
hành án đối với 02 vụ việc trên); đối với việc phân loại án, đã phát hiện một số
vụ việc được phân loại chưa chính xác 100%, Lãnh đạo Chi cục đã chỉ đạo khắc
phục việc phân loại theo quy định để đảm bảo chính xác.
Thứ ba, công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành
án dân sự được chú trọng. Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trà Bồng thực hiện
thường xuyên việc bố trí nơi tiếp công dân và phân công cán bộ phụ trách công
tác tiếp công dân theo đúng quy định, đảm bảo cho công dân được thực hiện

quyền yêu cầu của mình, Quá trình tiếp công dân không gây phiều hà, sách nhiễu
hoặc có biểu hiện tiêu cực. Đối với yêu cầu, nguyện vọng của công dân nếu
thuộc thẩm quyền giải quyết của đơn vị được xem xét giải quyết, nếu thuộc thẩm
quyền của các cơ quan liên quan khác đều được cán bộ phụ trách hướng dẫn
công dân đến nơi có thẩm quyền xem xét giải quyết.
Qua thực hiện nhiệm vụ năm 2014, Lãnh đạo Chi cục đã quán triệt trong
nội bộ đơn vị tổ chức tốt việc thi hành án từ khâu ban hành quyết định thi hành
án đến quy trình, thủ tục giải quyết thi hành án, nhờ đó đã hạn chế đến mức thấp
nhất việc khiếu nại, tố cáo của công dân.
SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

Trang:


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

Thứ tư, Chi cục thi hành án dân sự huyện Trà Bồng đã phối hợp tốt với
các ban, ngành, địa phương trong việc giải quyết thi hành án, nhất là phối hợp
với các cơ quan nội chính, cơ quan chuyên môn liên quan, chính quyền cơ sở để
vận động, thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án. Đề xuất Ban chỉ đạo thi
hành án dân sự huyện chỉ đạo phối hợp các cơ qun liên quan trong hoạt động thi
hành án dân sự trên địa bàn.
2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong công tác thi hành án tại huyện
Trà Bồng
Thực tiễn thi hành án dân sự năm 2014 tại huyện Trà Bồng vẫn còn nhiều
khó khăn, hạn chế như kết quả, hiệu quả thi hành án, tỷ lệ thi hành vẫn còn ở
mức thấp:
Thứ nhất, lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo phải giải quyết vẫn còn nhiều,

số việc thi hành án chưa có điều kiện thi hành, nhất là về tiền vẫn chiếm tỷ lệ cao
so với tổng số phải thi hành, số việc thi hành án tồn đọng chuyển sang năm sau
vẫn còn nhiều. Có nhiều BA, QĐ đã có hiệu lực thi hành nhưng vì những lí do
nào đó mà chưa thi hành dứt điểm hoặc không thi hành được. Nguyên nhân một
phần là do còn một số chấp hành viên chưa làm đúng chức năng, nhiệm vụ,
không tổ chức thi hành án và áp dụng các biện pháp mà pháp luật quy định để
đưa BA, QĐ ra thi hành trên thực tế. Điều này khiến cho quyền lợi của người dân
bị ảnh hưởng, gây bức xúc trong xã hội, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với
pháp luật, tạo tâm lý coi thường pháp luật của người phải thi hành án.
Thứ hai, thủ tục chuyển giao BA, QĐ đã có hiệu lực pháp luật và tang vật
cho CQTHADS thiếu kịp thời. Một số vụ có tang vật nhưng khi chuyển giao BA,
QĐ Toà án chưa chuyển giao tang vật hoặc có chuyển giao nhưng không đầy đủ,
không đúng số lượng. Do đó, nhiều trường hợp đương sự đến CQTHADS yêu
cầu tự nguyện thi hành án nhưng vật chứng, tài sản chưa được Toà án chuyển
giao nên gặp nhiều khó khăn cho việc tổ chức thi hành.
Thứ ba, việc giải thích BA, QĐ không kịp thời, đầy đủ, nên nhiều BA, QĐ
tuyên không rõ ràng, có sai xót về số liệu, không xác định cụ thể quyền, nghĩa vụ
của các bên trong quan hệ thi hành án khiến CQTHADS lúng túng khi tổ chức thi
hành.
Thứ tư, vướng mắc khi người có quyền nuôi con theoBA, QĐ có hiệu lực
của Toà án yêu cầu Chi cục THADS huyện Trà Bồng buộc người đang trực tiếp
nuôi con phải giao con. Những vụ việc này tuy không nhiều nhưng cũng gây
không ít khó khăn cho cơ quan THADS, ảnh hưởng đến tâm lý, tình cảm của trẻ
em cũng như cha mẹ, người thân trẻ em đó.
Thứ năm, trong quá trình hoạt động tố tụng ở các giai đoạn điều tra, truy
tố, xét xử chưa tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành án như chưa áp dụng

SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

Trang:



Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

kịp thời, đầy đủ các biện pháp kê biên tài sản, chuyển giao, quản lí tài sản để đảm
bảo cho việc THA.
Thứ sáu, trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án, các cán bộ thi
hành án còn thiếu chính xác. Việc xác minh qua loa, không thực sự tìm hiểu rõ
hoàn cảnh của đương sự. Nhiều khi đưa án vào phân loại không đúng với thực tế.
Thứ bảy, nội bộ chi cục THADS có một số cán bộ không trong sạch, có tư
tưởng tiêu cực, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong hoạt động xác
minh điều kiện thi hành án để kiểm kê tài sản không đúng, nhận hối lộ của đương
sự hoặc cố tình gây sách nhiễu, phiền hà cho đương sự, khiến cho quá trình thi
hành BA, QĐ bị kéo dài.
Thứ năm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của chấp hành viên hiện nay còn
thấp nên nhiều trường hợp chưa hiểu đúng, đầy đủ quy định pháp luật về thủ tục
thi hành án nên vận dụng một cách cứng nhắc, máy móc, dập khuôn mà không
thể hiện được tính linh hoạt. Bên cạnh đó, Chi cục THADS huyện Trà Bồng còn
thiếu thốn về cơ sở vật chất và số lượng cán bộ, chấp hành viên còn ít, đặc biệt là
ở các tỉnh miền núi nên công tác thi hành án không thể không tránh khỏi khó
khăn.
2.3. Thực trạng án tồn đọng tại cơ quan thi hành án dân sự huyện Trà
Bồng từ năm 2010 – 2014
Án tồn đọng là những vụ việc chưa có điều kiện để thi hành được chuyển
từ năm này qua năm khác. Án tồn đọng được chia thành án tồn đọng theo việc và
án tồn đọng về giá trị :
2.3.1. Án tồn đọng theo việc
Kinh tế ngày càng phát triển, tình hình tội phạm và các vụ tranh chấp ngày

càng nhiều. Trong những năm gần đây, Chi cục THADS huyện Trà Bồng đã thụ
lý hàng trăm việc mỗi năm, số việc từ những năm trước chuyển sang tương đối
nhiều.
Theo Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng
bộ huyện lần thứ XVIII của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trà Bồng, giai
đoạn từ năm 2010 đến năm 2014 Chi cục THADS huyện Trà Bồng đã thụ lý giải
quyết 565 việc nhưng chi cục mới giải quyết được 500 việc, đạt 88,5 % và còn 65
việc tồn đọng lại. Như vậy, lượng việc tồn đọng trong giai đoạn 2010 – 2014
chiếm tỷ lệ 11, 5%. Trong đó, năm 2010 tồn đọng lại 65 việc sang năm 2011; Số
lượng án năm 2011 chưa giải quyết xong được chuyển sang năm 2012 là: 86
việc, tăng 21 việc so với năm 2010 chuyển sang năm 2011; Số lượng án tồn đọng
năm 2012 chuyển sang năm 2013 là 40 việc; Số lượng án tồn đọng năm 2013
chuyển sang năm 2014 là 31 việc.

SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

Trang:


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

Như vậy, số lượng án tồn đọng hàng năm tại chi cục THADS huyện Trà
Bồng vẫn chiếm tỷ lệ cao, đòi hỏi cán bộ thi hành án cần nỗ lực làm việc hơn nữa
để nâng cao hiệu quả thi hành, giảm bớt tỷ lệ án tồn đọng xuống mức thấp nhất.
2.3.2. Án tồn đọng về giá trị ( tiền bạc)
Kết quả thi hành về tiền và giá trị tài sản tại Chi cục THADS huyện Trà
Bồng giai đoạn 2010 đến 2014 là 3.488.525.550 đồng/ tổng số 3.972.437.900
đồng. Như vậy, còn 483.912.350 đồng còn tồn đọng lại, chiếm 12, 18%. Nhận

thấy, số án tồn đọng về giá trị tiền bạc tại Chi cục còn nhiều, và có sự biến động
theo thời gian. Cụ thể, năm 2009, Chi cục THADS huyện Trà Bồng còn
483.912.350 đồng chưa có điều kiện thu chuyển sang năm 2010. Số lượng tiền
năm 2010 chưa giải quyết được chuyển sang năm 2011 là: 708.818.700 đồng,
tăng 224.906.350 đồng so với năm 2009 chuyển sang năm 2010. Năm 2011 còn
547.121.100 đồng chưa giải quyết xong chuyển sang năm 2012; Năm 2012 còn
629.570.200 đồng chưa giải quyết xong chuyển sang năm 2013; Năm 2013 còn
585.065.603 đồng chuyển sang năm 2014.5
Nhận thấy, án tồn đọng về giá trị tiền bạc tại Chi cục THADS huyện Trà
Bồng tuy có giảm theo chiều hướng tích cực nhưng số lượng án tồn đọng vẫn còn
nhiều, với tổng số lượng tiền tồn đọng mỗi năm lên đến hàng trăm triệu. Chính
điều này, đã gây khó khăn cho cán bộ thi hành án khi vừa phải giải quyết các án
mới, đồng thời vẫn phải thi hành các án cũ còn tồn đọng lại.
2.4. Nguyên nhân lượng án thụ lý mỗi năm ngày càng gia tăng
2.4.1. Tình hình kinh tế
Trà Bồng là một huyện miền núi thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Kinh tế Trà
Bồng nhìn chung còn chậm phát triển so với mặt bằng chung của các địa phương
khác trong tỉnh. Hoạt động kinh tế chủ yếu của nhân dân Trà Bồng là Nông –
Lâm nghiệp, Công – Thương nghiệp và Dịch vụ, hiện đang trong quá trình trên
đà phát triển. Trong những năm qua mặc dù đời sống kinh tế của nhân dân tuy
gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Đảng
và Nhà nước, nhiều chương trình được triển khai trên địa bàn: Chương trình 134,
135, 30a, Nông thôn mới từng bước cơ sở hạ tầng được xây dựng khang trang,
nhiều hợp phần hỗ trợ sản xuất, cũng như hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo và
các chương trình khác được đầu tư trên địa bàn huyện, cho nên nền kinh tế có
bước phát triển theo hướng tích cực, từng bước thực hiện công tác giảm nghèo
nhanh và bền vững.

5 Theo báo cáo kết quả công tác thi hành án dân sự các năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014


SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

Trang:


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

Nông nghiệp của huyện chủ yếu là dựa vào trồng lúa, mía, khoai, mì, bắp
và trồng quế….chăn nuôi gia súc, gia cầm ở huyện Trà Bồng phổ biến là bò, trâu,
gà, vịt.
Tiểu thủ công nghiệp ở Trà Bồng chủ yếu vẫn là các nghề mang tính thủ
công tự túc, tự cấp của người Kor, trong đó chủ yếu là đan lát các vật dụng dùng
cho sinh hoạt và sản xuất như gùi các loại, chiếu nằm, chiếu phơi lúa… với
những nét đan lát tinh xảo, vật liệu chủ yếu dùng mây, cây lùng, nứa sẵn có tại
địa phương. Nghề thủ công của người Kinh thì chủ yếu là các nghề thông dụng
như hồ, mộc, làm gạch ngói, rèn, khai thác đá và nghề sản xuất đồ thủ công mĩ
nghệ từ vỏ quế như bình ly, ống đựng tăm, tinh dầu quế, quả bánh bằng vỏ quế
già, sản xuất nhang quế.
Nhiều nhà máy, công ty, xí nghiệp ra đời và phát triển, điển hình là nhà
máy sản xuất chế biến quế của công ty TNHH Hương Quế Trà Bồng, có nguồn
nước khoáng Thạch Bích tại xã Trà Bình hiện được công ty Đường Quảng Ngãi
đang đầu tư khai thác……
Thương mại và dịch vụ Trà Bồng đã và đang được quan tâm đầu tư phát
triển. Huyện đã chủ động đầu tư, nâng cấp, mở rộng chợ Trà Bồng, và các chợ
khác ở các xã và trung tâm cụm xã. Các loại hình dịch vụ như: internet, karaoke,
nhà nghỉ… cũng đang trên đã xây dựng, hình thành và phát triển. 6 Chính những
thay đổi trên đã làm tình hình tội phạm trên địa bàn Trà Bồng càng nhiều, những
tranh chấp tăng lên. Đây có thể coi là nguyên nhân khiến vụ việc phải giải quyết

hàng năm tăng tại Chi cục THADS huyện Trà Bồng.
2.4.2. Tình hình xã hội
Bên cạnh nguyên nhân do biến động kinh tế, một nguyên nhân nữa phải
kể đến đó là sự thay đổi trong xã hội. Một vấn đề đáng quan tâm không phải của
riêng ngành cấp nào đó là thực trạng đi xuống về lối sống đạo đức của tầng lớp
thanh niên trên địa bàn huyện Trà Bồng. Điều này, phần nào giải thích tại sao
những năm trở lại đây, tội phạm tăng nhanh khó kiểm soát hết, nhiều vụ li hôn
xảy ra hơn,…
2.5. Nguyên nhân lượng án tồn đọng nhiều
2.5.1. Nguyên nhân khách quan
Trong số lượng án tồn đọng tại Chi cục THADS huyện Trà Bồng, số
lượng án không có điều kiện thi hành chiếm tỷ lệ lớn. Có rất nhiều nguyên nhân
khách quan làm bản án không thể thực thi được trên thực tế như:
6 />
SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

Trang:


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

Thứ nhất, một số lượng lớn án tồn đọng rơi vào trường hợp người phải thi
hành án đang chấp hành hình phạt tù không có điều kiện để thi hành.
Thứ hai, trong hoạt động thi hành án, nhiều đối tượng phải thi hành bỏ địa
phương đi nơi khác sinh sống, chính quyền chưa quản lý được, gây khó khăn cho
công tác xác minh của cơ quan thi hành án. Hiện nay, do đời sống kinh tế chưa
ổn định, nhận thức về pháp luật chưa cao, nhiều người dân tại huyện Trà Bồng đã
bỏ đi làm ăn nơi xa cũng như sinh sống buôn bán nhỏ lẻ ở huyện Tây Trà mà

không thường xuyên ở Trà Bồng cho nên một phần ảnh hưởng rất lớn đến công
tác thi hành án dân sự.
Thứ ba, do điều kiện khó khăn của đương sự. Các chấp hành viên đã xác
minh nhiều lần xét thấy họ thực sự không có tài sản thu thập để thi hành án, do
đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn về kinh tế, phần đông còn phụ thuộc
nhiều vào chính sách hỗ trợ của nhà nước, hộ nghèo chiếm tỷ lệ cao. Trường hợp
bên phải thi hành án là cơ quan, tổ chức bị giải thể cũng không có điều kiện để
thi hành án.
Bên cạnh đó, còn có những vụ việc đang tiến hành nhưng vẫn lưu từ năm
này qua năm khác mà chưa xong là do người phải thi hành án cố tình chây ì,
không chịu thực hiện nghĩa vụ của mình; Người phải thi hành án chỉ có tài sản kê
biên, phát mại không bán được trong khi đó người được thi hành án lại không
chịu nhận tài sản thay cho tiền thi hành án hay trường hợp, tài sản của người phải
thi hành án nhỏ hơn nhiều số tiền phải thi hành hoặc trường hợp người đó chỉ có
tài sản lớn như nhà, giá trị quyền sử dụng đất mà số tiền phải thi hành án lại rất
nhỏ.
Mặt khác, có một số ít vụ việc, hại bên không tự thoả thuận được với nhau
về phương thức bồi thường. Chi cục THADS huyện Trà Bồng đã hướng dẫn các
đương sự khởi kiện yêu cầu của Toà án giải quyết nhưng chưa có quyết định giải
quyết cụ thể của Toà án.
Một nguyên nhân nữa là do hệ thống pháp luật của nước ta chưa đồng bộ,
thống nhất, gây khó khăn khi thực thi, sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan,
nhất là cơ quan tư pháp trong công tác THADS còn nhiều hạn chế.
2.5.2. Nguyên nhân chủ quan
Một là, nguyên nhân chủ quan xuất phát từ chính các cán bộ thi hành án
tại Chi cục THADS huyện Trà Bồng như: cán bộ chuyên môn tham mưu còn thụ
động, thiếu kinh nghiệm, chưa đề xuất kịp thời các giải pháp tổ chức thi hành,
trong giải quyết thi hành án có lúc chưa kiên quyết đã phần nào ảnh hưởng đến
hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Một số chấp hành viên, CQTHADS chưa
thực sự tích cực thực hiện nhiệm vụ, chưa có kế hoạch cụ thể trong việc tổ chức

thực hiện THA, thậm chí có trường hợp ngại va chạm, không kiên quyết áp dụng
biện pháp cưỡng chế khi người phải THA có điều kiện thi hành. Cũng có trường
SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

Trang:


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

hợp, chấp hành viên, cán bộ thi hành án chưa nghiên cứu kỹ các văn bản pháp
luật về THA, trong tác nghiệp thi hành án còn cẩu thả, tuỳ tiện dẫn đến sai phạm;
chưa thực sự tích cực, chủ động trong công việc, còn trông chờ vào sự chỉ đạo
của cấp trên. Thậm chí, có trường hợp thoái hoá, biến chất, tham nhũng, tiêu cực,
sách nhiễu,…
Về phía Chi cục THADS huyện Trà Bồng vẫn còn tình trạng chậm trả lời,
hướng dẫn giải quyết những khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ, chưa kiểm tra,
đôn đốc các CQTHADS xử lý nghiêm các trường hợp các bộ thi hành án có hành
vi sai phạm, kéo dài quá trình THA. Công tác phối hợp giữa chính quyền cơ sở
với cơ quan thi hành án trong hoạt động thi hành án có lúc thiếu kịp thời, nhất là
trong chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể ở cơ sở phối hợp vận động, giáo dục
thuyết phục để đối tượng thi hành án tự nguyện thi hành.
Hai là, ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật của một số tổ chức, cá nhân
có liên quan đến việc thi hành án chưa tốt, việc động viên, thuyết phục đương sự
tự nguyện thi hành án rất khó khăn. Nhiều trường hợp, người phải thi hành án cố
tình cản trở việc thi hành án vì không đồng ý với phán quyết của bản án, tẩu tán
tài sản,…
2.6. Những nhận xét về công tác thi hành án tại huyện Trà Bồng
Sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu về công tác thi hành án, nhận thấy

thi hành án là một hoạt động phức tạp, đòi hỏi các chấp hành viên không những
phải có kiến thức pháp lí mà còn cần phẩm chất chính trị, kinh nghiệm thực tế để
giải quyết từng vụ việc mang tính chất phức tạp khác nhau.
Trong quá trình thực tập tại Chi cục THADS huyện Trà Bồng đã giúp em
tích luỹ được nhiều kinh nghiệm thực tế quý báu. Các chấp hành viên trong Chi
cục THADS huyện rất tận tình với công việc, luôn giải quyết công việc một cách
hợp lý và khoa học, mọi người luôn trau đồi kiến thức để phục vụ cho công tác
thi hành án.
Về khối lượng công việc, hàng năm Chi cục THADS huyện Trà Bồng giải
quyết mỗi năm đều tăng. Các cán bộ trong chi cục THADS luôn cố gắng khắc
phục những khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Nhìn chung, các
chấp hành viên đã giải quyết tốt công việc của mình.
Cơ sở vật chất tại Chi cục THADS huyện Trà Bồng còn yếu kém. Do tính
chất nghề nghiệp, phải thường xuyên đi đôn đốc thi hành án, nhưng các chấp
hành viên cũng không được trang bị đầy đủ để bảo hộ, phương tiện đi lại thiếu
thốn.
2.7. Ý kiến và kiến nghị
2.7.1. Những ý kiến trong việc giải quyết thực trạng bản án tồn đọng
Đối với án tồn đọng do đương sự có hoàn cảnh khó khăn, không thể thi
hành án thì chấp hành viên phải tiến hành xác minh, lập biên bản về tình trạng
SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

Trang:


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

hiện tại của đương sự một cách chính xác. Sau đó, cơ quan THA sẽ ra quyết định

trả đơn yêu cầu trong trường hợp thi hành án theo đơn. Còn với trường hợp chủ
động ra quyết định THA thì cơ quan THA phải lập hồ sơ thường xuyên theo dõi,
xác minh điều kiện kinh tế của người phải thi hành đó để kịp thời giải quyết khi
người đó có điều kiện thi hành.
Trường hợp khi thi hành án bị đương sự chống trả quyết liệt thì Chi cục
THADS huyện Trà Bồng phải phối hợp cùng cơ quan thi hành án cấp trên để đưa
ra hướng xử lý kịp thời.
Trường hợp hai bên không thể tự thoả thuận với nhau về phương thức
thanh toán khi phải giao vật đặc định mà vật đó đã bị mất hoặc hư tổn, cơ quan
THA phải có biện pháp để tổ chức cho hai bên đương sự thương lượng, hoà giải
để hai bên có thể giao và nhận vật theo quyết định của toà án.
Về phía cán bộ thi hành án, cần tích cực hơn nữa để chủ động đôn đốc, thi
hành án dứt điểm các vụ án có điều kiện thi hành để giảm nhanh lượng án tồn
đọng. Thường xuyên báo cáo, xin ý kiến của cấp trên để kịp thời tháo gỡ khó
khăn. Hàng năm, cơ quan THA phải thống kê, rà soát số án có điều kiện và số án
không có điều kiện. Từ đó, đưa ra những phương hướng hoạt động có hiệu quả
hơn trong thời gian tới. Chủ động phối hợp với các cơ quan Tư pháp rà soát các
trường hợp đủ điều kiện miễn giảm tiền phạt, án phí để đề nghị Toà án ra quyết
định miễn giảm theo quy định pháp luật.
2.7.2. Kiến nghị chung
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự, theo yêu
cầu cải cách Tư pháp trong thời gian tới. Đối với Bộ Tư pháp và Tổng Cục Thi
hành án dân sự cần tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án
dân sự cho đội ngũ chấp hành viên, thư ký thi hành án để nâng cao chất lượng tác
nghiệp trong hoạt động thi hành án dân sự.
Đề xuất với cấp uỷ, chính quyền địa phương cần đẩy mạnh hơn nữa công
tác lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác thi hành án dân sự, nhất là chỉ đạo sự phối
hợp của chính quyền cơ sở với cơ quan Thi hành án dân sự; quan tâm hỗ trợ
nguồn kinh phí bổ sung cho hoạt động thi hành án dân sự tại địa phương theo
tinh thần Công văn số 17558/CVLB-BTC-BTP ngày 19/12/2012 của Bộ Tài

chính - Bộ Tư pháp về việc hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cơ quan Thi hành án từ
ngân sách địa phương và Công văn số 183/UBND-KTTH ngày 11/01/2013 của
UBND tỉnh Quảng Ngãi về việc triển khai thực hiện kiến nghị của liên bộ Tài
chính - Bộ Tư pháp.
Ngành cấp trên và địa phương cần quan tâm thực hiện các thủ tục giao đất
và cấp kinh phí để đầu tư xây dựng trụ sở làm việc mới và kho vật chứng Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Trà Bồng (trụ sở Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Trà Bồng nằm trong quy hoạch di dời giải tỏa và đã được phê duyệt theo Quyết
SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

Trang:


Đề tài thực tập tốt nghiệp

GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hằng

định số 324/QĐ-UBND ngày 08/3/2013 của UBND tỉnh về việc phê duyệt danh
mục các cơ sở phải di dời theo quy hoạch xây dựng đô thị trên địa bàn tỉnh).
Đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân: Để đảm bảo cho BA, QĐ
sau khi giải quyết, xét xử của Tòa án được thi hành hiệu quả trên thực tế, nhất là
các vụ việc liên quan đến tranh chấp quyền sử dụng đất, trong quá trình thụ lý
giải quyết của Tòa án cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn quản lý
đất đai để xác định cụ thể diện tích, vị trí, giới cận thửa đất tranh chấp đúng theo
thực tế, hiện trạng để kết quả giải quyết phải tạo thuận lợi cho quá trình tổ chức
thi hành án của cơ quan Thi hành án dân sự.

SVTH: Trần Minh Hồng, Lớp 33K13QN

Trang:



×