1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG QUANG THẮNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TSHK LÊ VĂN CẢM
Hà Nội - 2012
2
MỞ ĐẦU 4
Chương I 10
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ Ở VIỆT
NAM 10
1.1. Khái niệm thi hành án phạt tù và ý nghĩa của việc nghiên cứu nó 10
1.1.1. Khái niệm thi hành án phạt tù 10
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu thi hành án phạt tù 12
1.2 Vai trò của thi hành án phạt tù 13
1.2.1 Trong công tác giáo dục những người bị kết án 13
1.2.2 Trong hoạt động tư pháp hình sự 16
1.2.3 Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm 18
1.3. Các đặc điểm cơ bản của thi hành án phạt tù 20
1.3.1. Đặc điểm thứ nhất 20
1.3.2. Đặc điểm thứ hai 20
1.3.3. Đặc điểm thứ ba 20
1.3.4. Đặc điểm thứ tư 21
1.4 . Phân loại thì hành án phạt tù 21
1.4.1. Thi hành án phạt tù có thời hạn 22
1.4.2. Thi hành án phạt tù chung thân 23
1.5. Thi hành án phạt tù trong pháp luật thi hành án hình sự của một số
nước trên thế giới 24
1.5.1. Thi hành án phạt tù tại Nga [51] 24
1.5.2. Thi hành án phạt tù tại Thái Lan[44] 29
1.5.3. Thi hành án phạt tù tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa[44] 32
1.5.4. Thi hành án phạt tù tại các nước khác (kể cả Anh và Wales)[44] 36
1.5.5. Thi hành án phạt tù tại Bungaria 37
Chương II 42
CÁC QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ TRONG PHÁP LUẬT
VIỆT NAM 42
2.1 Các quy định thi hánh án phạt tù từ sau các mạng tháng 8 đến Bộ luật
Tố tụng Hình sự năm 1988 42
2.2. Các quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù từ khi có Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988 đến Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 48
2.3 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 57
Chương III 65
THỰC TRẠNG THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ Ở VIỆT NAM VÀ CÁC
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ Ở
VIỆT NAM 65
3.1. Thực trạng tình hình thi hành án phạt tù 65
3
3.1.4 Những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của thực trạng thi hành án
phạt tù ở Việt Nam hiện nay 75
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù ở nước ta hiện nay
87
3.2.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù 87
3.2.2. Hoàn thiện những quy định của pháp luật về tổ chức thi hành án
phạt tù 94
3.2.3. Hoàn thiện những quy định của pháp luật thi hành án phạt tù cần
nghiên cứu, vận dụng của các nước ngoài 99
3.2.4. Giải pháp về tổ chức, bộ máy của các cơ quan có nhiệm vụ thi
hành án phạt tù 108
3.2.5. Giải pháp về tăng cường sự phối hợp giữa Tòa án, Viện Kiểm sát,
Công an và các cơ quan hữu quan khác 110
3.2.6. Giải pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành
án phạt tù 110
3.2.7. Giải pháp về tăng cường hợp tác quốc tế trong thi hành án phạt tù
113
3.2.8. Giải pháp về cơ sở vật chất - kỹ thuật, trang thiết bị cho các cơ
quan có nhiệm vụ thi hành án phạt tù 114
3.2.9. Giúp người mãn hạn tu
̀
tái hòa nhập để giảm tỷ lệ phạm tội 114
KẾT LUẬN 117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Công cuộc đổi mới của Đảng ta được khởi xướng từ Đại hội toàn quốc
lần thứ VI năm 1986 cho tới nay đã 26 năm, trong tiến trình ấy bộ mặt xã hội
từng bước được thay đổi. Nền kinh tế chuyển từ chế độ quản lý tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay trong xã hội xảy ra rất nhiều hiện
tượng tiêu cực như nạn tham nhũng , buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác đã
trở thành một trong những nguy cơ đe doạ sự ổn định xã hội, sự nghiệp đổi
mới của toàn dân.
Việc đấu tranh chống tội phạm đươc tiến hành bằng tổng thể các biện
pháp kinh tế - xã hội và pháp lý, trong đó Thi hành án phạt tù đã phát huy tác
dụng tích cực và có hiệu quả trong lĩnh vực quản lý, giam giữ, giáo dục, cải
tạo phạm nhân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh phòng, chống
tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của
nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực vào công
cuộc đổi mới. Thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng là
một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết
định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Bản án, quyết định của Tòa án
được thi hành chính là lúc công lý được thực hiện trong cuộc sống. Nhiệm vụ
của giai đoạn này nhằm mục đích cảm hoá tư tưởng, giáo dục nhân cách, văn
hóa, kỹ năng lao động nhằm mục đích làm cho người thụ án trở thành một
công dân tốt cho xã hội, mặt khác góp phần răn đe, ngăn ngừa chung. Đặc
trưng cơ bản của thi hành án (THA) phạt tù là tính cưỡng chế nghiêm khắc.
Người phải THA phạt tù bị cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống bình
5
thường và phải chịu sự quản lý, giáo dục trong môi trường tách biệt với
những quy định chặt chẽ và nghiêm ngặt.
THA phạt tù là một vấn đề quan trọng thể hiện quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng và nhà nước ta đối với công tác cải tạo, giáo dục những
người lầm lỗi. Hoạt động THA phạt tù của chúng ta một mặt nhằm đề cao
tính nghiêm minh của pháp luật, đề cao pháp chế XHCN, mặt khác, đó là quá
trình giáo dục, cải tạo phạm nhân để giúp họ nhận thức một cách sâu sắc sai
lầm của mình và từ đó, họ tự giác cải tạo, sửa chữa lỗi lầm, xây dựng ý thức
tuân thủ pháp luật và các quy tắc của đời sống xã hội, ngăn ngừa hành vi tái
phạm tội và hơn nữa là giúp họ sớm hoàn lương để trở về với cộng đồng xã
hội. Việc áp dụng THA phạt tù ở nước ta phải luôn quán triệt phương châm
“kết hợp giữa trừng phạt và cải tạo”, trong đó đặt công tác giáo dục, cải tạo
con người lên hàng đầu nhằm giúp người THA phạt tù chuyển hóa về mặt tư
tưởng, tích cực sửa chữa thói xấu trong ứng xử trái với chuẩn mực của xã hội
để tìm lại chân giá trị của mình trong đời sống xã hội.
THA phạt tù không chỉ là một hoạt động trực tiếp tác động đến người
phải THA mà còn tác động đến gia đình của người phạm tội, đến các thành
viên khác trong xã hội. Do đó, nghiên cứu việc tổ chức THA phạt tù có ý
nghĩa xã hội sâu sắc.
THA nói chung và THA phạt tù nói riêng là một hoạt động trong lĩnh
vực công tác tư pháp. Do đó, quá trình tổ chức THA phạt tù không tách khỏi
quá trình cải cách tư pháp của nước ta hiện nay.
Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án,
thi hành án có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử. Nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của
6
cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu như một
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành
hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực
Nhà nước bị xem thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản
án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý
Nhà nước.
Chúng ta không thể phủ nhận những kết quả đã đạt được của thi hành
án hình sự trong những năm vừa qua, hàng vạn người bị kết án đã chấp hành
xong hình phạt, trở về với cuộc sống lương thiện. Thi hành án hình sự có
những đóng góp quan trọng nhằm bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết
định của Tòa án, góp phần giữ vững trật tự kỷ cương và ổn định xã hội. Tuy
nhiên bên cạnh những mặt tích cực, hệ thống tổ chức và hoạt động thi hành
án cũng bộc lộ những mặt hạn chế nhất định.
Vì vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động Thi hành án hình sự nói chung và
thi hành án phạt tù nói riêng là yêu cầu khách quan nhằm tạo lập một cơ chế
hữu hiệu đảm bảo thực thi có hiệu quả các bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật trong toàn xã hội, thể hiện tính nghiêm minh của pháp
luật, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và
môi trường pháp lý tin cậy trong mọi mặt sinh hoạt của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
của cải cách tư pháp theo đường lối của Đảng. Thực tiễn thi hành án phạt tù
đã bộc lộ một số mặt hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. do vậy việc nghiên cứu
đề tài : “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành án phạt tù ở Việt Nam”
7
để trên cơ sở đó giải quyết các vướng mắc trong lý luận và thực tiễn và góp
phần hoàn thiện hơn về mặt lập pháp các quy định thi hành án phạt tù.
2. Tình hình nghiên cứu
Thi hành án phạt tù là một vấn đề đã được nhiều nhà luật học trên thế
giới và trong nước quan tâm nghiên cứu. Tác giả Hoàng Ngọc Nhất có công
trình "Một số vấn đề cấp bách về thi hành án hình sự", trong đó có đề cập đến
thi hành án tù (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1 năm 2001); tác giả Đỗ
Văn Chỉnh có công trình " người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng
được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù- những tồn tại và vấn đề cần hướng
dẫn” (Tạp chí tòa án nhân dân số 04/2006); tác giả Đỗ Văn Chỉnh với bài viết
“ Bàn về thi hành án hình sự” ( Tạp chí Tòa án nhân dân số 08/2010); tác giả
Nguyễn Phong Hòa công trình nghiên cứu “Thực trạng công tác thi hành án
hình sự và những kiến nghị” (Tạp chí tòa án nhân dân tháng 11/2006) ; tác
giả Mai Bộ với công trình “ Về việc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù”
(Tạp chí tòa án nhân dân số 08/2005). Các công trình nói trên đã đề cập đến
các khía cạnh khác nhau của việc thi hành án phạt tù, nhưng chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và tương đối có hệ thống
về thi hành án phạt tù và các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù
dưới cấp độ một luận văn Thạc sỹ luật học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu của luận văn
a) Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ thống một số
vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành án phạt tù để đề ra các giải pháp nâng cao
hiệu quả thi hành án phạt tù ở nước ta.
b) Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả của luận văn đã đặt ra và giải quyết
các nhiệm vụ sau:
8
1- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận - thực tiễn về thi hành án phạt tù.
2- Đánh giá thực tiễn thi hành án phạt tù, nêu ra mặt được, mặt chưa
được của việc thi hành án phạt tù trong giai đoạn từ khi ban hành Pháp lệnh
Thi hành án phạt tù 1993 cho đến nay.
3- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù ở
Việt Nam.
c) Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu thi hành án phạt tù ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, về chính sách hình sự nói chung,
chính sách thi hành án phạt tù nói riêng. Đề tài được thực hiện trên cơ sở quán
triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về
thi hành án phạt tù. Cơ sở thực tiễn của khóa luận các báo cáo chuyên đề về
thi hành án phạt tù của Tổng Cục Cảnh sát Quản lý trại giam và hỗ trợ tư pháp,
Bộ Công an, Vụ Kiểm sát cải tạo và giam giữ, Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các
phương pháp sau: phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgíc,
so sánh, thống kê.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan
trọng đối với hoạt động thi hành án phạt tù ở Việt Nam. Việc đề xuất hệ
9
thống các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù có ý nghĩa góp
phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù, hướng dẫn
áp dụng thống nhất các quy định về thi hành án phạt tù, giúp các cơ quan thi
hành án phạt tù có các biện pháp hữu hiệu nhằm giáo dục, cải tạo phạm nhân,
tái hòa nhập họ với cộng đồng.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
- Chương I: Một số vấn đề lý luận thi hành án phạt tù ở Việt Nam.
- Chương II: Các quy định về thi hành án phạt tù trong pháp luật Việt
Nam.
- Chương III: Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành
án phạt tù ở Việt Nam.
10
Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ Ở VIỆT
NAM
1.1. Khái niệm thi hành án phạt tù và ý nghĩa của việc nghiên cứu nó
1.1.1. Khái niệm thi hành án phạt tù
Theo Hán - Việt từ điển của tác giả Đào Duy Anh, thi hành là: "Đem
cái việc đã trù định sẵn mà làm ra cho có hiệu quả" [46, tr. 398]. Như vậy, thi
hành án có thể được hiểu là đem bản án của Tòa án ra thi hành trên thực tế
cho có hiệu quả; còn thi hành án hình sự là việc đưa các bản án, quyết định
hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Điều này
có nghĩa, chỉ các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và
đang có hiệu lực pháp luật mới được đem thi hành. Đó là các bản án, quyết
định hình sự được quy định tại khoản 1, Điều 255 Bộ luật tố tụng hình sự
nhưng chưa quá thời hiệu thi hành theo quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự
năm 1999:
1. Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;
2.Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
3. Những quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án
Theo quy định những bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật không được thi hành ngay mà còn phải qua một trình tự, thủ
tục, tổ chức thi hành. Đó là việc Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án
hoặc được ủy quyền căn cứ vào Khoản 1, Điều 256 Bộ luật tố tụng hình sự
trong thời hạn bảy ngày ra quyết định thi hành án.
Thi hành các bản án và quyết định có hiệu lực của Tòa án là một hoạt
động phức tạp, đa dạng liên quan đến nhiều lĩnh vực từ việc thi hành các hình
11
phạt chính như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có
thời hạn, tù chung thân, tử hình đến các hình phạt bổ sung như cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú,
quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản, phạt tiền (khi không
áp dụng là hình phạt chính), trục xuất (khi không áp dụng là hình phạt chính);
các biện pháp tư pháp như tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm,
trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi, bắt
buộc chữa bệnh; các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội như giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo
dưỡng. Như vậy, thi hành án hình sự và hình phạt, biện pháp tư pháp có quan
hệ hữu cơ, tác động qua lại, chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ này, hình
phạt và biện pháp tư pháp giữ vai trò quyết định, quy định nội dung, phương
pháp, hình thức, thời gian thi hành án hình sự. Có thể dễ dàng chứng minh
điều này, vì thi hành hình phạt tử hình khác với thi hành hình phạt tù, khác
với thi hành các hình phạt không phải là tù và tử hình và càng khác với thi
hành các biện pháp tư pháp. Ngược lại, thi hành án hình sự có tác động trở lại
đối với hình phạt, biện pháp tư pháp, làm cho mục đích của hình phạt, biện
pháp tư pháp được thực hiện trên thực tế, đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật.
Thực chất của thi hành án hình sự là việc tổ chức thi hành các hình
phạt, biện pháp tư pháp được quy định trong bản án hoặc quyết định hình sự
có hiệu lực pháp luật trên thực tế. Đó chính là việc thực thi công lý trên cơ sở
chân lý đã được hoạt động tố tụng hình sự chứng minh.
Nội dung thi hành án hình sự rất rộng, bao gồm: thủ tục, chế độ, tổ
chức thi hành án, áp dụng các biện pháp hành chính, giáo dục, y tế, văn hóa,
xã hội và thực hiện chế độ, chính sách đối với người bị kết án. Các quan hệ
12
xã hội cụ thể phát sinh trong quá trình thi hành và chấp hành hình phạt như:
việc đưa bản án ra thi hành, chỉ định cơ quan tổ chức thi hành án, tổ chức lực
lượng, cơ sở vật chất đảm bảo cho thi hành án; quản lý nhà nước về công tác
thi hành án; quy định về quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án; nghĩa vụ
của cơ quan nhà nước hữu quan do pháp luật thi hành án hình sự quy định.
Qua nghiên cứu pháp luật thi hành án hình sự, lý luận và thực tiễn thi
hành án hình sự ở một số nước trên thế giới có thể thấy, lý luận thi hành án
hình sự kém phát triển hơn so với lý luận về các ngành luật khác trong hệ
thống tư pháp hình sự. Điều này được lý giải bởi tình trạng pháp luật điều
chỉnh lĩnh vực này còn chưa đầy đủ, lại thường bị bổ sung, sửa đổi; còn rất ít
các công trình nghiên cứu khoa học, các sách chuyên khảo về lĩnh vực này.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đi đến kết luận: thi hành án phạt tù là
việc cơ quan Thi hành án hình sự buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý giam
giữ, giáo dục và cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội.
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu thi hành án phạt tù
Việc thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng,
lần đầu tiên được quy định trong Luật thi hành án hình sự của nước ta,
có ý nghĩa về mặt lập pháp hết sức to lớn, đánh dấu sự trưởng thành về
mặt kỹ thuật lập pháp thi hành án hình sự của nước ta.
Trong thi hành án hình sự, thi hành án phạt tù đóng một vai trò quan
trọng. Nó đảm bảo cho bản án phạt tù có thời hạn, phạt tù chung thân của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật được thực hiện trên thực tế, thể hiện sự chuyên
chế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc kiên quyết xử lý những phần tử
phạm tội mà Nhà nước xét thấy cần phải cách ly khỏi xã hội có thể giáo dục,
cải tạo được và trả lại cho cộng đồng. Việc quy định thi hành án phạt tù trong
Luật thi hành án hình sự như vậy là nhằm góp phần tích cực vào việc bảo vệ
13
sự an toàn, vững mạnh của chế độ, bảo vệ tính mạng, tài sản, danh dự, nhân
phẩm, danh dự của công dân. Những vi phạm về trình tự, thủ tục trong thi
hành án phạt tù đều bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật; chúng không
những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan có nhiệm vụ thi hành án
phạt tù, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người chấp hành án, mà
còn làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước. Như vậy, việc quy định thi hành án phạt tù còn đảm bảo sự dân chủ,
tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người chấp hành án, thể hiện tính ưu
việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu thi hành án phạt tù, ngoài ý nghĩa về mặt lý luận, còn
có ý nghĩa phục vụ nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các
cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung về sự cần thiết phải thực hiện đúng, đầy
đủ, chặt chẽ các quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù, góp phần nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm; giúp công dân có cơ sở pháp
lý tham gia vào hoạt động thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù
nói riêng, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho người phải chấp hành án phạt tù
được tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, nó có ý
nghĩa cung cấp cứ liệu khoa học cho việc hoàn thiện các quy định của pháp
luật về thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng và phục
vụ các cơ quan chức năng trong việc hướng dẫn áp dụng thống nhất các quy
định về thi hành án phạt tù. Như vậy, việc nghiên cứu thi hành án phạt tù có ý
nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
1.2 Vai trò của thi hành án phạt tù
1.2.1 Trong công tác giáo dục những người bị kết án
Công tác thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng là
giai đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp
14
hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội
chủ nghĩa:góp phần quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ
vững ổn định chính trị- xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà
nước. Chính vì lẽ đó, vị trí vai trò đặc biệt quan trọng của thi hành án đã
được quy định ngay tại điều 136 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992: “ Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có
hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người
và đơn vị hữu quan phải nghiêm minh chấp hành”. Đặc trưng cơ bản của thi
hành án (THA) phạt tù là tính cưỡng chế nghiêm khắc. Người phải THA phạt
tù bị cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống bình thường và phải chịu sự
quản lý, giáo dục trong môi trường tách biệt với những quy định chặt chẽ và
nghiêm ngặt.
THA phạt tù là một vấn đề quan trọng thể hiện quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng và nhà nước ta đối với công tác cải tạo, giáo dục những
người lầm lỗi. Hoạt động THA phạt tù của chúng ta một mặt nhằm đề cao
tính nghiêm minh của pháp luật, đề cao pháp chế XHCN, mặt khác, đó là quá
trình giáo dục, cải tạo phạm nhân để giúp họ nhận thức một cách sâu sắc sai
lầm của mình và từ đó, họ tự giác cải tạo, sửa chữa lỗi lầm, xây dựng ý thức
tuân thủ pháp luật và các quy tắc của đời sống xã hội, ngăn ngừa hành vi tái
phạm tội và hơn nữa là giúp họ sớm hoàn lương để trở về với cộng đồng xã
hội. Việc áp dụng THA phạt tù ở nước ta phải luôn quán triệt phương châm
kết hợp giữa “ trừng phạt và giáo dục”, “ cưỡng chế và thuyết phục”, trong đó
đặt công tác giáo dục, cải tạo con người lên hàng đầu nhằm giúp người THA
phạt tù chuyển hóa về mặt tư tưởng, tích cực sửa chữa thói xấu trong ứng xử
trái với chuẩn mực của xã hội để tìm lại chân giá trị của mình trong đời sống
xã hội.
15
THA phạt tù không chỉ là một hoạt động trực tiếp tác động đến người
phải THA mà còn tác động đến gia đình của người phạm tội, đến các thành
viên khác trong xã hội. Do đó, nghiên cứu việc tổ chức THA phạt tù có ý
nghĩa xã hội sâu sắc.
Quá trình giam giữ đối với người bị kết án cũng là quá trình giáo dục,
cải tạo họ nhằm giúp họ sửa chữa lỗi lầm để trở về với xã hội. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp quản lý giáo dục đối với người
phạm tội trong các trại giam cũng như việc thực hiện các chế độ, chính sách
đối với họ có ý nghĩa hết sức to lớn. Nó không chỉ nhằm bảo đảm sự chặt chẽ
trong quản lý, giáo dục người phạm tội mà còn động viên, khơi dậy và phát
huy ý thức tự giác, lòng tự trọng của người phạm tội trong quá trình tự rèn
luyện, cải tạo mình, giúp họ sớm tìm lại chân giá trị của mình trong đời sống
xã hội. Đồng thời, việc sử dụng các biện pháp quản lý, giáo dục và thực hiện
tốt các chế độ chính sách đối với người phạm tội trong các trại giam chính là
sự phản ánh về trình độ, năng lực quản lý của nhà nước; sự quan tâm của nhà
nước, xã hội đối với những người bị lầm lỗi; sự thể hiện thái độ của nhà nước
về các quyền của con người. Có thể nói, về vấn đề này nhiều nước đã có
nhiều sáng tạo và kinh nghiệm tốt trong quản lý, giáo dục cũng như thực hiện
các chính sách mang tính nhân đạo đối với người bị áp dụng hình phạt tù.
Các nhà tâm lý học, tội phạm học Việt Nam từ trước đến nay đều thống nhất
quan điểm cho rằng, việc giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người
lương thiện là điều hoàn toàn có thể làm được. Quan điểm này hoàn toàn phù
hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong
lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở mỗi con người nảy nở như hoa mùa
xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng" [50, tr.
558].
16
Giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội trong giáo
dục học được gọi là giáo dục lại người phạm tội. Đây là quá trình nhằm làm
thay đổi những quan điểm, nhận thức không đúng đắn của người phạm tội,
cải tạo các thói quen, hành động sai trái đã hình thành ở người phạm tội.
Những nhận thức, hành động sai trái của người phạm tội không phải là
bản tính vốn có của họ, mà là do ảnh hưởng của những yếu tố không lành
mạnh trong môi trường gia đình, nhà trường, xã hội, của những điều kiện
thuận lợi cho tội phạm phát sinh, phát triển, những thiếu sót trong quản lý xã
hội của các cơ quan chức năng Những nhận thức, thói quen xấu ở người
phạm tội hoàn toàn có thể cải tạo được, nếu tổ chức đúng đắn việc giáo dục
lại người bị kết án trong thi hành án hình sự.
1.2.2 Trong hoạt động tư pháp hình sự
Thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng có vai trò
quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự nói chung và quá trình giải quyết
vụ án nói riêng. Hoạt động thi hành hình sự là công đoạn cuối cùng, bảo đảm
cho các bản án, quyết định hình sự của Tòa án được chấp hành. Hoạt động thi
hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng có thể được hiểu là
hình thức các thẩm quyền tương ứng do luật định của hệ thống các cơ quan
chuyên trách thuộc nhánh quyền hành pháp mà thông qua đó các bản án kết
tội có hiệu lực pháp luật của tòa án được bảo đảm thi hành trong thực tiễn, cụ
thể: Là việc cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền theo quy định của Luật
thi hành án hình sự buộc phạm nhân phải chịu quản lý giam giữ, giáo dục, cải
tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội
THA phạt tù là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm
thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Bản
án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý được thực hiện
17
trong cuộc sống. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm mục đích cảm hoá tư
tưởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động nhằm mục đích làm
cho người thụ án trở thành một công dân tốt cho xã hội, mặt khác góp phần
răn đe, ngăn ngừa chung. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình
giải quyết một vụ án, thi hành án có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì
toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên
vô nghĩa. Nếu như một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật
không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội
bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm
hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan
trong hoạt động quản lý Nhà nước. Với tư cách là bộ phận cấu thành của hệ
thống tư pháp hình sự, chúng ta có thể thấy được cơ quan thi hành án hình sự
nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng với việc thực hiện tốt những nhiệm
vụ được triển khai cụ thể trên cơ sở các chức năng của mình, Thi hành án
phạt tù sẽ góp phần cùng với các cơ quan tiến hành tố tụng củng cố niềm tin
của nhân dân vào hiệu lực của bộ máy Nhà nước, vào hiệu quả và sức mạnh
của pháp luật và pháp chế, vào một loạt các tư tưởng pháp lý cao cả và tiến
bộ được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại (như: công bằng, nhân
đạo, dân chủ và pháp chế), cũng như vào thắng lợi huy hoàng của chính nghĩa
đối với tàn bạo, của công lý đối với bất công, của cái thiện đối với cái ác, vào
các giá trị quí báu của xã hội dân sự và các nguyên tắc được thừa nhận chung
của nhà nước pháp quyền với bảy nguyên tắc cơ bản:
1. Nhà nước pháp quyền là tổ chức công quyền (quyền lực công khai)
trong hệ thống chính trị của xã hội dân sự.
18
2. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước được xây dựng trên các tư tưởng
pháp lý tiến bộ của nhân loại như công bằng, nhân đạo, dân chủ, pháp chế.
3. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đảm bảo thực sự việc tôn trọng
và bảo vệ các quyền và tự do của con người.
4. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đảm bảo thực sự điạ vị ngự trị
của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của đời sống xã hội.
5. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đảm bảo thực sự tính tối thượng
của luật trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước.
6. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đảm bảo thực sự nguyên tắc phân
công quyền lực thành ba nhánh – lập pháp, hành pháp và tư pháp.
7. Nhà nước pháp quyền đảm bảo thực sự chủ quyền của nhân dân .
1.2.3 Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
Hệ thống pháp luật đấu tranh phòng chống tội phạm là tổng thể những
văn bản pháp luật thống nhất có chứa các chế định và các quy phạm pháp luật
do nhà nước ban hành trong lĩnh vực tư pháp hình sự bao gồm các văn bản
pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự cũng như một số văn
bản pháp luật khác có liên quan đến tổ chức hoạt động tư pháp hình sự với tư
cách là những căn cứ pháp lý điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội phát sinh
trong toàn quá trình xử lý tội phạm và giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự
của người phạm tội nhằm bảo đảm cho việc triển khai hoạt động đấu tranh
phòng chống tội phạm của hệ thống tư pháp hình sự được tuân thủ đúng pháp
luật, đạt hiệu quả và các mục đích của nó.
19
Với tư cách là “đầu ra cuối cùng” trong toàn bộ toàn bộ hoạt động thực
tiễn của hệ thống tư pháp hình sự của đất nước, Thi hành án hình sự là một
ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật về đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng của một vụ án hình sự.
Công tác điều tra, truy tố và xét xử là rất quan trọng. Quyết định hình phạt
của Toà án chính là sự đánh giá, sự lên án của Nhà nước đối với hành vi
phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Nếu chỉ dừng ở mức đánh giá, lên án mà
không thực hiện bằng các biện pháp mang tính cưỡng chế đặc trưng của
quyền lực nhà nước thì tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa và tính chịu
hình phạt hạn chế, thậm chí là không có tác dụng. Chính vì vậy, Luật thi hành
àn hình sự đã có những quy định cụ thể về thi hành án hình sự nói chung , thi
hành án phạt tù nói riêng, các quy định về thi hành án phạt tù nhằm đảm bảo
việc thi hành nghiêm túc các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay.
20
1.3. Các đặc điểm cơ bản của thi hành án phạt tù
1.3.1. Đặc điểm thứ nhất – Thi hành án phạt tù là một hoạt động mang tính
quyền lực Nhà nước, là hình thức thực hiện các thẩm quyền tương ứng của hệ
thống các cơ quan chuyên trách thuộc nhánh quyền hành pháp nhằm thực
hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Bản án,
quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý được thực hiện trong
cuộc sống. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm mục đích cảm hoá tư tưởng, giáo
dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động và làm cho người thụ án trở thành
một công dân tốt cho xã hội, mặt khác góp phần răn đe, ngăn ngừa chung. Với
ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi hành án
có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục
đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều
tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu như một bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành
không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị
xem thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định
của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý Nhà nước.
1.3.2. Đặc điểm thứ hai – là tính cưỡng chế nghiêm khắc của thi hành án phạt
tù. Người phải THA phạt tù bị cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống bình
thường và phải chịu sự quản lý, giáo dục trong môi trường tách biệt với những
quy định chặt chẽ và nghiêm ngặt. Bằng hoạt động thi hành án phạt tù, các
bản án kết tội có hiệu lực pháp luật (tù có thời hạn, tù chung thân) được đảm
bảo thi hành trong thực tiễn bằng sức mạnh cưỡng chế nghiêm khắc nhất.
1.3.3. Đặc điểm thứ ba- THA phạt tù là một vấn đề quan trọng thể
hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta đối với công
tác cải tạo, giáo dục những người lầm lỗi. Giáo dục người phạm tội là một
trong những mục đích của hình phạt được quy định tại Điều 27 Bộ luật Hình
sự năm 1999: "Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn
giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật
và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới".
Mục đích của hình phạt là thành tố có tính chất quyết định, quy định
nội dung, phương pháp, hình thức, tiêu chí, biện pháp kiểm tra, đánh giá kết
quả của thi hành án hình sự. Mục đích của hình phạt có đạt được hay không
phụ thuộc vào Cơ quan thi hành án hình sự và người bị kết án, đặc biệt là phụ
21
thuộc vào việc cán bộ, nhân viên Cơ quan thi hành án hình sự có ý thức được
đầy đủ ý nghĩa của mục đích của hình phạt hay không? Do đó, quán triệt mục
đích của hình phạt trong hoạt động thi hành án hình sự nói chung, mục đích
giáo dục người phạm tội nói riêng là nhiệm vụ thường xuyên của các Cơ
quan thi hành án hình sự.
Giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội trong giáo
dục học được gọi là giáo dục lại người phạm tội. Đây là quá trình nhằm làm
thay đổi những quan điểm, nhận thức không đúng đắn của người phạm tội,
cải tạo các thói quen, hành động sai trái đã hình thành ở người phạm tội.
Những nhận thức, hành động sai trái của người phạm tội không phải là
bản tính vốn có của họ, mà là do ảnh hưởng của những yếu tố không lành
mạnh trong môi trường gia đình, nhà trường, xã hội, của những điều kiện
thuận lợi cho tội phạm phát sinh, phát triển, những thiếu sót trong quản lý xã
hội của các cơ quan chức năng Những nhận thức, thói quen xấu ở người
phạm tội hoàn toàn có thể cải tạo được, nếu tổ chức đúng đắn việc giáo dục
lại người bị kết án trong thi hành án hình sự.
1.3.4. Đặc điểm thứ tư – Để đảm bảo tính truyền thống và sự nghiêm
minh, tính khả thi và hiệu quả cao nên hoạt động thi hành án phạt tù của nước
ta luôn và cần phải do hệ thống các cơ quan chuyên trách của Bộ Công an
thuộc nhánh quyền hành pháp với tư cách là một trong nhưng dạng lực lượng
cũ trang nhân dân của Nhà nước đảm nhiệm.
1.4 . Phân loại thì hành án phạt tù
Thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng là là giai
đoạn cuối cùng của một vụ án hình sự. Thi hành án phạt tù là thi hành quyết
22
định phạt tù gồm có tù chung thân và tù có thời hạn của các bản án hình sự
theo quyết định của Tòa án nhân dân
1.4.1. Thi hành án phạt tù có thời hạn
Hình phạt tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình
phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định. áp dụng hình phạt tù không
chỉ nhằm trực tiếp trừng trị, giáo dục người phạm tội mà còn nhằm giáo dục
người khác về ý thức tôn trọng pháp luật và tham gia vào quá trình phòng
ngừa, đấu tranh chống mọi hành vi vi phạm pháp luật.
Đặc trưng cơ bản của thi hành án phạt tù là tính cưỡng chế nghiêm
khắc. Người phải thi hành án phạt tù bị cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường
sống bình thường và phải chịu sự quản lý, giáo dục trong môi trường tách
biệt với những quy định chặt chẽ và nghiêm ngặt.
Tù có thời hạn là hình phạt buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã
hội trong một thời gian nhất định.
Tù có thời hạn là hình thức phạt phổ biến được quy định trong hầu hết
các điều luật thuộc Phần các tội phạm riêng. So với hình phạt cải tạo không
giam giữ thì tù có thời hạn có nội dung cưỡng chế nghiêm khắc nhiều hơn.
Nếu như cải tạo không giam giữ tác động đến người bị kết án mà không cần
phải cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống và hoạt động bình thường của
họ trước khi phạm tội thì đối với tù có thời hạn người bị kết án bị tước tự do
bị giam giữ trong một môi trường chịu sự chi phối ngặt nghèo. Hạn chế sự tự
do của người bị kết án tù có thời hạn là nội dung pháp lý chủ yếu của hình
phạt này. Nói cách khác tù có thời hạn tác động đến quyền lợi thiết thân trong
những quyền cơ bản của con người đó là quyền tự do. Theo điều 33 Bộ luật
Hình sự quy định: “tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành
23
hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với
người phạm một tội có mức tối thiểu là 3 tháng, mức tối đa là hai mười năm.
Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ
mỗi ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù”. Hình phạt tù có thời hạn nó
bao hàm kết hợp giữa trừng trị và cải tạo giáo dục, giữa cưỡng chế và thuyết
phục cũng như phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm, tuy nhiên khi nghiên
cứu tìm hiểu giữa hình phạt tù và các hình phạt khác còn có một khoảng cách
quá xa về nội dung cưỡng chế cũng như chế độ chấp hành nên hạn chế sự lựa
chọn của tòa án khi xét xử.
1.4.2. Thi hành án phạt tù chung thân
Theo điều 34 Bộ luật hình sự quy định: “Tù chung thân hành hình phạt
tù không có thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội trường hợp đặc
biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức phạt tử hình. Không áp dụng tù
chung thân đối với người chưa thành niên phạm tội”.
Tù chung thân là loại hình phạt có tính chất nghiêm khắc hơn hình phạt
tù có thời hạn và nhẹ hơn hình phạt tử hình. Tù chung thân giống tù có thời
hạn ở chỗ các hình phạt này đều tước tự do của người bị kết án cách ly khỏi
xã hội để giáo dục cải tạo và phòng ngừ tội phạm. Nhưng điểm khác của nó
là ở chỗ nó có khả năng tước tự do của một người bị kết án hết đời.
Trong hệ thống hình phạt luật hình sự nước ta thì tù chung thân là loại
hình phạt được áp dụng hình phạt tù có thời hạn mặc dù ở mức cao nhất của
khung là 20 năm tù vẫn còn chưa tương xứng với tính chất và hình vi phạm
tội nghĩa là việc áp dụng nó vẫn còn nhẹ, nhưng nếu áp dụng hình phạt tử
hình thì chưa thật cần thiết.
24
Nhìn từ từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn hình phạt tù chung thân
đóng một vai trò quan trọng trong việc áp dụng hình phạt cũng như trong đấu
tranh phòng và chống tội phạm.
Tuy nhiên, về mặt luật định giữa hình phạt tù chung thân và tử hình
không có danh giới rõ ràng về điều kiện áp dụng. Trong điều 34 Bộ luật hình
sự quy định điều kiện áp dụng tù chung thân dưới dạng là: “được áp dụng đối
với người phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến
mức tử hình”. Như vậy với người phạt tù chung thân có nghĩa là họ vẫn còn
có khả năng cải tạo giáo dục. Theo pháp luật hình sự Việt Nam thì một người
bị tù chung thân có khả năng được giảm xuống tù có thời hạn là 20 năm trong
trường hợp họ cải tạo tốt và qua nhiều lần giảm chấp hành hình phạt.
1.5. Thi hành án phạt tù trong pháp luật thi hành án hình sự của một số nước
trên thế giới
1.5.1. Thi hành án phạt tù tại Nga [51]
Tình hình hiện nay
Vào tháng 6-2009, số tù nhân ở Liên bang Nga là 894.855 người, tức là
635 tù nhân trên 100.000 người dân. Tù nhân được giam giữ tại 1.051 cơ sở,
bao gồm 766 khu cải tạo, 216 trại cách ly hay trại giam chờ xét xử (SIZO), 7
nhà tù và 62 khu giam giữ phạm nhân lứa tuổi vị thành niên.
Trách nhiệm quản lý hệ thống nhà tù thuộc về cơ quan thi hành án Liên
bang (FSES) được thiết lập ngày 9-3-2004 theo Nghị định số 314 của Tổng
thống. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm soạn thảo các văn bản pháp lý liên quan
25
tới các vấn đề về nhà tù, song FSES là cơ quan phụ trách riêng về việc thực
hiện. cơ quan này chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Văn phòng Tổng thống.
Cơ quan thanh tra thi hành án hình sự, trực thuộc FSES, chịu trách
nhiệm về những đối tượng bị kết án với những chế tài thay thế và được phóng
thích. Các chế tài thay thế bao gồm lao động công ích và quản thúc tại gia.
FSES chịu trách nhiệm tiến hành giáo dục và điều trị tâm lý chẩn đoán
trong nhà tù. Về việc giúp cho phạm nhân xây dựng lại cuộc sống, cơ quan
thanh tra phối hợp chặt chẽ với các trung tâm môi giới việc làm và các địa
phương để tìm ra giải pháp cho các vấn đề xã hội mà những đối tượng bị kết
án với những chế tài thay thế hay được phóng thích phải đối mặt.
Chuyển giao trách nhiệm
Một trong những điều kiện để kết nạp Nga vào Hội đồng Châu Âu là
chuyển giao tất cả các cơ sở giam giữ và cơ quan quản lý, điều hành việc xử
phạt những đối tượng bị kết án từ Bộ Nội vụ của Nga sang Bộ Tư pháp Liên
bang Nga. Điều kiện này đã được đáp ứng vào ngày 31-8-1998 khi hệ thống
quản lý phạm nhân hình sự được sát nhập vào Bộ Tư pháp (trừ các hình thức
kỷ luật quân sự).
Kết quả của việc chuyển giao
Năm 1998, tổng số tù nhân là hơn một triệu người, tức là 688 tù nhân /
100.000 người dân. Theo Yuri Kelinin: “hệ thống quản lý phạm nhân hình sự
hà khắc đã dẫn đến việc sử dụng tùy tiện các biện pháp quản thúc, khiến cho
tù nhân lẽ ra không thuộc diện phải cách ly với xã hội cũng bị giam giữ và
sau đó bị tước đoạt quyền tự do”.
Điều đó khiến cho các cơ sở giam giữ này bị quá tải và tù nhân không
được cung cấp đủ lương thực / thực phẩm, quần áo, giày dép, thuốc thang và