VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ LAN LY
CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TRẺ TỰ KỶ TỪ THỰC
TIỄN TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TRẺ
TÀN TẬT THỤY AN, HÀ NỘI
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số:
60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS.LÊ THỊ QUÝ
Hà Nội, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết luận văn của mình được thực hiện dựa vào hiểu biết và
quá trình tìm tòi, cố gắng, thực hiện của bản thân cùng sự hướng dẫn của
GS.TS. Lê Thị Quý. Công trình nghiên cứu của tôi không sao chép của bất kỳ
cá nhân hay tổ chức nào. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung
thực. Và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2016
Học viên thực hiện
Đỗ Lan Ly
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI
VỚI TRẺ TỰ KỶ ................................................................................................ 10
1.1. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ....................................................... 10
1.2. Khung pháp lý cho việc phục hồi chức năng trẻ tự kỷ .............................. 13
1.3. Các khái niệm công cụ ............................................................................... 14
1.4. Vai trò của nhân viên xã hội trong trợ giúp cho trẻ tự kỷ .......................... 22
Chương 2: THỰC TRẠNG TRẺ TỰ KỶ TẠI TRUNG TÂM PHỤC HỒI
CHỨC NĂNG TRẺ TÀN TẬT THỤY AN, HÀ NỘI - ỨNG DỤNG TIẾN
TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TRẺ TỰ KỶ TỪ THỰC
TIỄN TRUNG TÂM ........................................................................................... 26
2.1. Thực trạng chung về trẻ tự kỷ và công tác xã hội đối với trẻ tự kỷ hiện
nay tại Việt Nam ................................................................................................. 26
2.2.Khái quát chung về trẻ tự kỷ ......................................................................... 28
2.3. Một số đặc điểm của Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An,
Hà Nội ................................................................................................................. 36
2.4. Các hoạt động điều trị và phục hồi chức năng cho trẻ tự kỷ tại trung tâm
Thụy An............................................................................................................... 37
2.5. Công tác xã hội cá nhân nghiên cứu với trường hợp cụ thể từ thực tiễn
trung tâm ............................................................................................................. 39
Chương 3: KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI ỨNG DỤNG TIẾN TRÌNH CÔNG
TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM PHỤC HỒI
CHỨC NĂNG TRẺ TÀN TẬT THỤY AN, HÀ NỘI ....................................... 50
3.1. Hoàn thiện chính sách chính sách ................................................................ 50
3.2. Tuyên truyền nâng cao nhận thức ................................................................ 50
3.3. Tăng cường các dịch vụ y tế, giáo dục......................................................... 51
3.4. Công tác xã hội trong lĩnh vực trợ giúp trẻ tự kỷ......................................... 51
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 59
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết tắt
Chữ đầy đủ
1
CTXH
CÔNG TÁC XÃ HỘI
2
CTXHCN
CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
3
CTV
CỘNG TÁC VIÊN
4
NVXH
NHÂN VIÊN XÃ HỘI
5
PHCN
PHỤC HỒI CHỨC NĂNG
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi sinh con ra cha mẹ nào cũng mong con khỏe mạnh, bình an; và sự
trưởng thành của mỗi đứa trẻ được đánh giá thông qua những mốc phát triển
về thể chất và tâm lý. Mỗi trẻ có thể có các biểu hiện “lệch mốc” như bộc lộ
trí thông minh vượt trội, chiều cao, cân nặng vượt chuẩn, hay nói sớm hoặc
chậm nói hơn so với trẻ cùng tuổi nhưng cũng có những biểu hiện khác lại ẩn
chứa các triệu chứng của một dạng khuyết tật mà thông thường gia đình hay
nhà trường cũng như những người xunh quanh không thể nhận ra và không có
đủ chuyên môn để chẩn đoán. Tự kỷ là một trong những khuyết tật thuộc
dạng này, vì khác với các dạng khuyết tật về thể chất, trẻ tự kỷ sinh ra bình
thường như mọi trẻ khác, thậm chí trẻ có các triệu chứng của tự kỷ đôi khi bị
hiểu nhầm là trẻ hư, trẻ nghịch hay trẻ không được cha mẹ quan tâm, hoặc trẻ
tự kỷ đôi khi có các đặc điểm và biểu hiện như một thần đồng…Trong giai
đoạn này, nếu không được can thiệp kịp thời, tự kỷ có thể gây cho trẻ rất
nhiều khó khăn trong cuộc sống và nếu nặng sẽ trở thành một dạng khuyết tật
suốt đời, đối với nhiều trẻ tự kỷ, tuổi thơ dường như bị mất, bị lu mờ và gây
ra những tổn thương sâu sắc khi trưởng thành.
Tại Việt Nam, chính phủ đã ban hành nhiều chính sách cũng như luật
dành cho trẻ em và trẻ khuyết tật, có rất nhiều hoạt động cũng được triển khai
và triển khai thành công. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã được ghi
nhận, có một bộ phận không nhỏ trẻ khuyết tật, đặc biệt là trẻ tự kỷ chưa được
quan tâm một cách đầy đủ và chưa nhận được sự hỗ trợ hiệu quả từ nhà nước
và xã hội.
Về mặt lý luận, tự kỷ là một dạng khuyết tật, trẻ tự kỷ là một trong
những đối tượng gặp nhiều khó khăn nhất, và ngày càng có xu hướng gia
1
tăng. Trên thế giới, ở các nước như Anh, Mỹ, Canada …có các Luật riêng
dành cho trẻ tự kỷ, điều này cho thấy, tự kỷ thực sự là một dạng khuyết tật
với các đặc tính riêng và cần nhận được quan tâm đúng mức từ nhà nước,
pháp luật và xã hội. Nhờ có hành lang pháp lý mà công tác phục hồi chức
năng, trợ giúp xã hội cũng như các nghiên cứu liên quan đến tự kỷ cũng được
tiến hành chuyên nghiệp và thuận lợi hơn tại các quốc gia này. Ở Việt Nam
hiện nay, mặc dù có xu hướng gia tăng nhưng tự kỷ vẫn chưa được pháp luật
công nhận là một dạng khuyết tật và thường được đưa chung vào các dạng
khuyết tật như chậm phát triển trí tuệ và không được đánh giá đúng dạng
khuyết tật để có thể đưa ra các biện pháp phục hồi đúng và kịp thời, đồng thời
trẻ mắc hội chứng tự kỷ cũng không được giám định và hưởng các phúc lợi xã
hội dành cho trẻ khuyết tật, điều này là một thiệt thòi lớn cho các em. Trẻ
khuyết tật nói chung và trẻ tự kỷ nói riêng rất cần được can thiệp một cách
chuyên nghiệp và có kế hoạch cụ thể, đòi hỏi sự tham gia của nhân viên xã
hội, của bác sỹ chuyên khoa, của giáo dục đặc biệt, của gia đình, nhà trường
và cộng đồng. Phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật là một lĩnh vực không
mới, công tác phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật nói chung đã được tiến
hành từ rất lâu và có nhiều nghiên cứu hỗ trợ cho việc phục hồi chức năng đối
với các dạng khuyết tật khác nhau; các hoạt động phục hồi chức năng cho trẻ
tự kỷ nói riêng cũng đã được tiến hành bởi các trung tâm phục hồi chức năng,
các bệnh viện chuyên khoa…. tuy nhiên đối với trẻ tự kỷ việc phục hồi chức
năng gặp nhiều khó khăn do các nguyên nhân dẫn đến tự kỷ hiện nay vẫn
chưa được xác định rõ ràng, các biểu hiện của tự kỷ rất đa dạng đòi hỏi các
biện pháp can thiệp cần linh hoạt và chuyên sâu. Hơn nữa, kinh phí dành cho
việc phục hồi chức năng lớn, với một số trường hợp việc PHCN có thể kéo
dài suốt cả cuộc đời. Trong CTXH, các can thiệp đối với trẻ tự kỷ thường theo
phương pháp CTXH cá nhân, tập trung khắc phục các khó khăn các em gặp
2
phải và phục hồi các chức năng xã hội cho các em. Hơn nữa, để đạt đến đích
cuối cùng là trẻ có thể tự vươn lên và sống độc lập sau này, công tác PHCN
không chỉ đơn thuần là các hoạt động hỗ trợ trực tiếp đối với trẻ như chẩn
đoán , trị liệu y tế, tâm lý hay hành vi,… mà cần hỗ trợ các tiểu hệ thống
xung quanh trẻ, ở khía cạnh này các tiến trình của CTXH trong hỗ trợ trẻ là
rất cần thiết. Tuy nhiên, tại Việt Nam, CTXH mới được công nhận là một
nghề, các hoạt động trợ giúp cho trẻ tự kỷ còn chưa thực sự chuyên nghiệp,
công tác hỗ trợ còn gặp nhiều khó khăn. Nhằm tìm hiểu sâu hơn về hoạt động
trợ giúp trẻ tự kỷ, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Công tác xã hội cá nhân đối
với trẻ tự kỷ từ thực tiễn Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy
An, Hà Nội” cho luận văn cao học chuyên ngành công tác xã hội của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến trẻ tự kỷ, các nghiên
cứu thường tập trung chủ yếu đến nguyên nhân, biểu hiện, nhận thức, phương
pháp can thiệp đối với trẻ tự kỷ. Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về
các nguyên nhân dẫn đến hội chứng tự kỷ song trên thực tế, khoa học vẫn
chưa tìm ra nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hội chứng trên. Tại Việt Nam, trong
khoảng hơn một thập niên trở lại đây, tự kỷ đã trở thành một thuật ngữ không
còn xa lạ, và giới chuyên môn cũng đã dần công nhận rằng tự kỷ là một dạng
khuyết tật và cần có sự can thiệp, đồng thời cũng có một số nghiên cứu về trẻ
tự kỷ và hội chứng tự kỷ. Cụ thể:
Đề tài “Nghiên cứu biện pháp can thiệp sớm và giáo dục hoà nhập cho
trẻ tự kỷ ở nước ta hiện nay và trong giai đoạn 2011 – 2020” do GS.TS.
Nguyễn Thị Hoàng Yến làm chủ nhiệm được coi là đề tài có qui mô lớn đầu
tiên được triển khai tại Việt Nam, trong đó có sự phối hợp liên ngành giữa
Giáo dục – Y tế - Bảo trợ xã hội, địa bàn nghiên cứu mang tính đại diện.
Nhóm đã thực hiện nghiên cứu trên một số địa bàn như Hà Nội, thành phố Hồ
3
Chí Minh, Đà Nẵng, Thái Nguyên, Thái Bình và Đồng Nai với các nhiệm vụ
nghiên cứu chính là xây dựng hệ thống lý luận, khảo sát thực trạng, đề xuất
biện pháp, thực nghiệm và dự báo. Từ việc phân tích toàn diện thực trạng vấn
đề trẻ tự kỷ, can thiệp sớm, giáo dục hoà nhập và bảo trợ xã hội cho trẻ tự kỷ
ở Việt Nam, đề tài xây dựng mô hình giải quyết vấn đề trẻ tự kỷ trên cơ sở sự
phối hợp liên ngành Y tế - Giáo dục - Bảo trợ xã hội. Đồng thời, đề tài đã đưa
ra những dự báo có tính định hướng cho việc giải quyết vấn đề trẻ tự kỷ ở
Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 cũng như những nghiên cứu tiếp theo.
Đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng của trẻ tự kỷ từ 18 đến 36
tháng tuổi” của tác giả Nguyễn Thị Hương Giang – Bệnh viện Nhi Trung
ương được thực hiện dựa trên theo dõi 251 trẻ tự kỷ trong độ tuổi từ 18 đến
36 tháng. Kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ tự kỷ ở mức độ nặng chiếm tỷ lệ
cao, với một số đặc điểm chung như: Khiếm khuyết về chất lượng quan hệ
xã hội như: Không giao tiếp bằng mắt (86,9%), không biết gật đầu hay
lắc đầu khi đồng ý hoặc phản đối (97,6%), Thích chơi một mình
(94,8%), không biết khoe khi được đồ vật (976%), không đáp ứng khi
được gọi tên (96,8 %). Khiếm khuyết về chất lượng giao tiếp: Phát ra
một chuỗi âm thanh khác thường (82,1%), không biết chơi giả vờ
(98,4%)…. Nhiều trẻ tự kỷ không được phát hiện sớm. Tác giả nghiên
cứu dựa trên luận điểm rằng trẻ tự kỷ nếu được can thiệp sớm sẽ có nhiều cơ
hội phục hồi và tái hòa nhập xã hội, do đó việc trẻ được chẩn đoán sớm để
phát hiện triệu chứng tự kỷ là một trong các điều kiện tiên quyết cho việc
phục hồi chức năng cho trẻ hiệu quả. Tại Việt Nam hiện nay, chưa có nhiều
đề tài nghiên cứu đặc điểm lâm sàng của trẻ tự kỷ, do vậy đề tài đã thể hiện
được tính cấp thiết và thực tiễn, đóng góp cho việc phát hiện sớm các dấu
hiệu trẻ tự kỷ để có thể đưa ra các biện pháp can thiệp sớm, giúp trẻ có thêm
cơ hội phục hồi.
4
Về phục hồi chức năng cho trẻ tự kỷ, tại Việt Nam hiện đã ban hành tài
liệu kỹ thuật “Cuốn 11: PHCN cho trẻ tự kỷ”, chủ biên Thứ trưởng Bộ Y tế,
TS. Nguyễn Thị Xuyên. Đây là tài liệu hướng dẫn phục hồi chức năng cho trẻ
tự kỷ dựa vào cộng đồng, mang tính thực tế cao, hướng tới trợ giúp trẻ khuyết
tật nói chung và trẻ tự kỷ nói riêng sớm hòa nhập cộng đồng. Đối tượng của
tài liệu là cán bộ và cộng tác viên PHCN tại cộng đồng, gia đình có trẻ tự kỷ,
đồng thời tài liệu cũng cung cấp một số thông tin cần thiết về các dịch vụ để
cha mẹ của trẻ có thể tham khảo.
Ngoài ra, một trong các nghiên cứu nổi bật về nhận thức của trẻ tự kỷ là
bài viết “Nhận thức của trẻ tự kỷ”, Ngô Xuân Điệp, Tạp chí Tâm lý học, số
10 (115).10 – 2008, trong đó tác giả đã tiến hành đánh giá mức độ nhận thức
của trẻ tự kỷ thông qua các công cụ đánh giá, để từ đó đưa ra các biện pháp
chăm sóc giáo dục phù hợp. Thông qua các đánh giá, tài liệu đã chỉ ra rằng có
tỷ lệ khá cao trẻ tự kỷ chậm phát triển theo độ tuổi, và đây cũng là nguyên
nhân chính dẫn đến sự hạn chế trong khả năng nhận thức của trẻ, và phần lớn
trẻ tự kỷ có mức độ nhận thức kém và rất kém. Do khả năng nhận thức của trẻ
tự kỷ khác với trẻ bình thường, phương thức giáo dục trẻ tự kỷ vì vậy cũng
khác các phương pháp giáo dục thông thường, đối với những trẻ có nhận thức
kém hoặc rất kém, việc phục hồi chức năng cho trẻ cần gắn liền với các
chương trình can thiệp đặc biệt.
Và “Những khoảnh khắc lóe sáng trong tương tác mẹ con của trẻ có nét
tự kỷ ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Đức góp phần rất lớn về mặt lý
luận cũng như đề xuất các phương pháp trị liệu đối với các trẻ tự kỷ tại nước
ta. Luận án đã được ứng dụng vào một số trường chuyên biệt dành cho trẻ tự
kỷ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, cuốn “Thấu hiểu và hỗ trợ trẻ tự kỷ”của các tác giả Phạm
Toàn, Lâm Hiểu Minh cũng mang tính thực tế cao, đây là một cuốn sách đưa
5
ra cái nhìn tổng quan nhất cũng như các biểu hiện lâm sàng dễ nhận biết nhất
về hội chứng tự kỷ, giúp cha mẹ có cái nhìn tổng thể và sâu sắc hơn về hội
chứng này, từ đó có thể giúp trẻ được can thiệp sớm và kịp thời, giúp trẻ sớm
phục hồi các chức năng và hòa nhập xã hội.
Qua quá trình tổng quan tài liệu, tôi nhận thấy, đề tài về thực hành Công
tác xã hội cá nhân trong can thiệp cho trẻ tự kỷ chưa có tác giả nào tiến hành
nghiên cứu. Đối với người khuyết tật nói chung và trẻ tự kỷ nói riêng, CTXH
là cách thức trợ giúp chuyên nghiệp và hiệu quả cần được nghiên cứu và áp
dụng, đặc biệt đối với trẻ tự kỷ, CTXHCN là phương pháp phù hợp nhằm
đem lại kết quả trợ giúp tốt nhất cho trẻ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
- Phân tích thực trạng trẻ tự kỷ tại Việt Nam nói chung và tại trung tâm
PHCN trẻ tàn tật Thụy An, nguyên nhân, hệ quả và những vấn đề được đặt ra
hiện nay;
- Trình bày tiến trình trợ giúp trẻ tự kỷ tại trung tâm thông qua thực
hành CTXH cá nhân;
- Đề xuất các giải pháp trong phát triển CTXH cá nhân cho trẻ tự kỷ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích các tài liệu thứ cấp;
- Phỏng vấn sâu cha mẹ của trẻ và cán bộ tại Trung tâm;
- Trình bày việc thực hành CTXH cá nhân đối với trẻ tự kỷ tại trung tâm
Thụy An;
- Dựa trên cơ sở các phân tích và quan sát đề xuất các giải pháp cho
CTXH trong trợ giúp trẻ tự kỷ.
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
- CTXH cá nhân đối với trẻ tự kỷ từ thực tiễn Trung tâm PHCN trẻ tàn
tật Thụy An, Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nghiên cứu: Do điều kiện thời gian, đề tài chỉ tập trung nghiên
cứu các tiến trình của CTXH cá nhân đối với một trường hợp cụ thể tại trung
tâm Thụy An, phân tích mối quan hệ giữa nhân viên xã hội can thiệp trực tiếp
và trẻ tự kỷ.
- Phạm vi thời gian: từ tháng 1/2016 đến tháng 6/ 2016
- Phạm vi không gian: Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật thụy An,
Hà Nội
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
5.1.1. Phương pháp duy vật lịch sử
Chủ nghĩa duy vật lịch sử nhấn mạnh việc xem xét đánh giá một vấn đề
trong một hoàn cảnh cụ thể, xác định. Theo đó, một luận điểm có thể dược coi
là luận điểm khoa học trong hoàn cảnh này nhưng lại không được coi là luận
điểm khoa học trong một hoàn cảnh khác. Xuất phát từ quan điểm này, một sự
vật hiện tượng cần được đánh giá, xem xét và phân tích một cách khách quan
dựa theo thời điểm và hoàn cảnh cụ thể. Trong khuôn khổ của luận văn, tôi
mong muốn nghiên cứu các hoạt động trợ giúp trẻ tự kỷ tại thời điểm hiện tại,
với bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể như hiện nay để từ đó đưa ra các
nhận xét cũng như khuyến nghị đúng đắn và hợp lý liên quan đến các hoạt
động CTXH đối với trẻ tự kỷ tại trung tâm Thụy An.
7
5.1.2. Phương pháp duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét và đánh giá một hiện tượng hay
một sự vật đặt trong mối quan hệ tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau.
Phương pháp luận này giúp cho chúng ta có cái nhìn bao quát, toàn diện và
chính xác về một sự vật, hiện tượng trong mối tương quan với các sự vật hiện
tượng khác. Áp dụng phương pháp luận này vào đề tài nghiên cứu, tôi xem
xét, đánh giá và phân tích các hoạt động CTXH đối với trẻ tự kỷ trong mối
tương quan với gia đình, nhân viên can thiệp trực tiếp và trung tâm Thụy An.
Rộng hơn nữa là mối quan hệ biện chứng giữa trẻ và môi trường xunh quanh
như lớp học, địa bàn nơi trẻ sống và xã hội nói chung.
5.2.Phương pháp nghiên cứu
- Với đặc thù của CTXH cá nhân, tôi nghiên cứu sâu một trường hợp cụ
thể để đưa ra nhận định tổng quát về CTXH cá nhân được thực hiện tại trung
tâm Thụy An, để phục vụ cho mục đích này, tôi lựa chọn phương pháp nghiên
cứu định tính thông qua phỏng vấn sâu: sử dụng bảng hỏi phỏng vấn sâu với
một lãnh đạo của trung tâm, nhân viên làm việc trực tiếp với trẻ tự kỷ và cha
mẹ của trẻ);
- Thu thập thông tin, tư liệu: tôi đã thu thập thông tin, tư liệu từ các
nguồn có sẵn như sách, báo, tạp chí, mạng internet, các báo cáo liên quan đến
trẻ tự kỷ và các dịch vụ xã hội dành cho trẻ tự kỷ. Các thông tin được xử lý
theo mục đích nghiên cứu một cách khách quan và có hệ thống;
- Phương pháp quan sát: tôi quan sát trong 1 tuần các hoạt động của
trung tâm xoay quanh công tác trợ giúp trẻ tự kỷ, đặc biệt là các giáo viên trực
tiếp trợ giúp trẻ tự kỷ trong trường hợp được nghiên cứu và các trẻ tự kỷ trong
thời gian được trợ giúp tại trung tâm, cụ thể: quan sát đời sống của trẻ tự kỷ
tại trung tâm, hành vi của trẻ trong thời gian trị liệu, cách thức mà NVXH áp
dụng để trợ giúp trẻ tự kỷ;
8
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của nghiên cứu
6.1.
Ý nghĩa lý luận: Áp dụng lý thuyết vào trường hợp nghiên cứu cụ thể
từ đó rút ra các kinh nghiệm cho bản thân và đồng nghiệp trong hoạt động trợ
giúp trẻ tự kỷ.
6.2.
Ý nghĩa thực tiễn: Nghiên cứu sẽ góp phần đưa ra cái nhìn sâu hơn về
trẻ tự kỷ cho trung tâm Thụy An để từ đó Trung tâm hiểu hơn về các nhu cầu
và mong muốn của trẻ cũng như của gia đình trẻ nhằm đưa ra các khuyến
nghị đối với các chính sách hiện hành dành cho trẻ tự kỷ hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác xã hội cá nhân đối với
trẻ tự kỷ.
Chương 2: Thực trạng của trẻ tự kỷ tại Trung tâm Thụy An - Ứng dụng
tiến trình Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ tự kỷ từ thực tiễn Trung tâm.
Chương 3: Kết luận và khuyến nghị trong thực hành công tác xã hội cá
nhân đối với trẻ tự kỷ.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI TRẺ TỰ KỶ
1.1. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.1.1. Lý thuyết hệ thống sinh thái
Lý thuyết hệ thống sinh thái là một trong những lý thuyết quan trọng
trong nền tảng triết lý của công tác xã hội. Lý thuyết này bắt nguồn từ thuyết
hệ thống tổng quát của Bertanlaffy (nhà sinh học người Áo, 1901 – 1972), lý
thuyết của ông là một lý thuyết sinh học trong đó ông cho rằng “mọi tổ chức
hữu cơ đều là một hệ thống và được tạo nên từ các tiểu hệ thống và ngược lại
cũng là một phần của hệ thống lớn hơn”, theo đó con người cũng là một bộ
phận của hệ thống xã hội. Sau này, lý thuyết hệ thống được các nhà khoa học
khác
nghiên
cứu
và
phát
triển
(Hanson(1995),
Mancoske(1981),
Siporin(1980)…. Người có công đưa lý thuyết hệ thống áp dụng vào thực
tiễn công tác xã hội phải kể đến công lao của Pincus và Minahan cùng các
đồng sự khác, tiếp đến là Germain và Giterman. Những nhà khoa học trên đã
góp phần phát triển và hoàn thiện thuyết Hệ thống trong thực hành công tác
xã hội trên toàn thế giới.
Trong CTXH, thuyết hệ thống sinh thái được tiếp cận theo hướng: con
người sống trong môi trường, chịu sự tác động của môi trường và con người
có thể ảnh hưởng ngược trở lại môi trường. Trong hoạt động trợ giúp cho trẻ
tự kỷ, việc nghiên cứu và áp dụng thuyết hệ thống sinh thái mang ý nghĩa nhất
định, đặc điểm nổi bật của trẻ tự kỷ là ít tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thích
sống thu mình và gặp khó khăn trong giao tiếp, do đó việc phục hồi lại khả
năng giao tiếp để các em tái hòa nhập với môi trường xunh quanh đòi hỏi sự
tham gia của gia đình, làng xóm, bạn bè, nhà trường…Sự tác động của các
tiểu hệ thống xung quanh trẻ có vai trò rất lớn, góp phần giúp các em phục hồi
10
nhanh chóng hoặc ngược lại, khiến các em gặp khó khăn hơn trong hòa nhập.
Do đó, để trẻ có thể tự vươn lên và hòa nhập cộng đồng sau này, NVXH
không chỉ làm việc với bản thân trẻ, NVXH cần đóng vai trò là người gắn kết
các tiểu hệ thống xung quanh trẻ, NVXH cần tham vấn , tư vấn tâm lý và các
kỹ năng cho cha mẹ của trẻ, NVXH cần hỗ trợ trẻ ngay cả trong môi trường
học tập của trẻ, để trẻ có thể phần nào hòa nhập được với bạn học và thầy cô
giáo, là những người còn thiếu kinh nghiệm và chuyên môn trong giáo dục trẻ
tự kỷ, và NVXH còn cần là người biện hộ cho các quyền lợi của trẻ, thay cho
cha mẹ của các em để các em có thể tham gia các hoạt động xã hội, được
quan tâm hơn trong các sinh hoạt cộng đồng và xa hơn là các em có thể được
pháp luật công nhận là trẻ khuyết tật theo đúng bản chất vốn có. Ngoài ra, bản
thân mỗi trẻ là một hệ thống với các đặc điểm tâm sinh lý khác nhau, NVXH
cần tìm hiểu và nắm bắt được những điểm mạnh và điểm yếu của trẻ để từ đó
giúp trẻ phát huy những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu trong mối
tương quan với môi trường xung quanh. Hơn nữa, vận dụng lý thuyết sinh
thái, NVXH và các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu các nguyên nhân khách
quan khiến cho các triệu chứng của tự kỷ trở nên trầm trọng hơn, đặc biệt từ
môi trường gia đình để từ đó tìm ra các biện pháp can thiệp cũng như tham
vấn hiệu quả cho cha mẹ hay người chăm sóc, giám hộ của trẻ.
1.1.2. Lý thuyết học tập xã hội
Lý thuyết học tập xã hội là một trong các lý thuyết được ứng dụng phổ
biến nhất trong PHCN cho trẻ tự kỷ. Thuyết học tập xã hội bắt nguồn từ quan
điểm học tập của Tarde (1843 – 1904), trong đó Tarde nhấn mạnh ý tưởng về
học tập xã hội thông qua ba quy luật bắt chước: sự tiếp xúc gần gũi, sự bắt
chước người khác và sự kết hợp của cả hai. Cũng bàn về phát triển nhận thức
thông qua học tập, Albert Bandura (1925), đã đề xuất “Lý thuyết học tập xã
hội”.Cách tiếp cận của Bandura đầu tiên có tên hành vi xã hội, rồi đến lý
11
thuyết nhận thức xã hội, và cuối cùng là lý thuyết học tập xã hội. Theo lý
thuyết của Bandura, hành vi của con người là kết quả của một chuỗi học tập
cá nhân thông qua bắt chước, Bandura cho rằng, trẻ bắt chước hành động của
người khác dựa trên lĩnh hội sự quan sát. Đối với trẻ, cha mẹ là những người
đầu tiên cung cấp các mô hình hoạt động đơn giản và cơ bản nhất thông qua
đó trẻ bắt chước và lặp lại, tuy nhiên ở trẻ tự kỷ thì việc bắt chước các hành vi
của cha mẹ không được ghi nhận hoặc rất hiếm hoi. Đây là một trong những
dấu hiệu đầu tiên cảnh báo về việc trẻ có nguy cơ bị tự kỷ hay không.
Khác với các nhà tâm lý học trước, Bandura đã cho thấy sự hiện diện thô
sơ của môi trường xã hội trong lý thuyết học tập xã hội của ông. Bandura coi
nhân cách của một con người như một quá trình tiếp cận giao thoa giữa (1)
Môi trường – (2) Hành vi – (3) Quá trình phát triển tâm lý mỗi cá nhân. Học
thuyết của Bandurra nổi bật bởi hai điểm: (1) Học thông qua quan sát hay còn
gọi là rập khuôn và (2) Khả năng tự quản. Lý thuyết học tập xã hội sẽ là nền
tảng cơ bản cho hình thức trị liệu hành vi đối với trẻ tự kỷ tại gia đình và cũng
được các NVXH áp dụng trong các buổi trị liệu cho trẻ tại các trung tâm. Hơn
nữa, sự tiếp cận giao thoa giữa môi trường và hành vi nhấn mạnh thêm sự ảnh
hưởng của môi trường xung quanh đến trẻ tự kỷ mà nhân tố đầu tiên là gia
đình. Sự tham gia của gia đình là một trong các nhân tố quan trọng nhất trong
hoạt động trợ giúp trẻ tự kỷ, do đó để điều chỉnh hành vi và khôi phục các
chức năng xã hội, trước hết NVXH cần trợ giúp cha mẹ hay người giám hộ
của trẻ để các em có thể hòa nhập tại chính gia đình, với cha mẹ và người
thân của mình.
Thuyết học tập xã hội không chỉ được áp dụng để giải thích cho hành vi
mà còn được sử dụng để điều chỉnh hành vi. Đối với các hoạt động PHCN
cho trẻ tự kỷ, vận dụng thuyết học tập xã hội nhằm điều chỉnh hành vi cho trẻ
thông qua các hành vi mẫu từ đó nâng cao khả năng nhận thức cho trẻ tự kỷ,
12
lý thuyết học tập xã hội được sử dụng để can thiệp trị liệu cho trẻ có thể mang
lại các kết quả khả quan.
Nhìn chung, PHCN cho trẻ tự kỷ là một hoạt động phức tạp, đòi hỏi
nhiều công sức và tiền bạc, cũng như các hoạt động PHCN khác với trẻ
khuyết tật, các lý thuyết là nền tảng để các nhà chuyên môn áp dụng và vận
dụng một cách linh hoạt, kết hợp các lý thuyết trong quá trình thực hành để
đạt được kết quả tốt nhất.
1.2. Khung pháp lý cho việc phục hồi chức năng trẻ tự kỷ
Ngày 17/6/2010, Quốc hội ban hành Luật Người khuyết tật (Luật NKT),
có hiệu lực vào ngày 01/01/2011 thay thế cho Pháp lệnh về người tàn tật năm
1998. Luật Người khuyết tật ra đời đã mang lại những lợi ích to lớn cho hàng
triệu người khuyết tật trên cả nước, tuy nhiên, trong các dạng khuyết tật được
pháp luật quy định từ trước cho tới nay, bao gồm Luật Người khuyết tật,
không có thuật ngữ “tự kỷ”. Trên thực tế, khái niệm “tự kỷ” mới xuất hiện tại
Việt Nam chỉ khoảng hai thập kỷ trở lại đây, trên thế giới, khái niệm này
được biết đến sớm hơn từ khoảng sáu bảy mươi năm trước và đã có rất nhiều
nghiên cứu liên quan đến tự kỷ với nỗ lực tìm ra nguyên nhân và giải pháp
chữa trị tuy nhiên không có nhiều ghi nhận về thành công, nguyên nhân dẫn
đến tự kỷ cho đến nay vẫn còn là chủ đề gây nhiều tranh cãi. Hơn nữa, tự kỷ
không giống với bất kỳ dạng khuyết tật nào được biết đến từ trước đến nay,
và trong một thời gian dài đã được coi là một “bệnh” và có thể chữa được, mà
không phải là một dạng tật mang tính suốt đời.
Trong một vài năm trở lại đây, nhận thức về tự kỷ đã có nhiều thay đổi,
trước tiên, về mặt lý luận, tự kỷ đã được công nhận là một dạng khuyết tật, và
các nỗ lực để tự kỷ, đặc biệt là trẻ tự kỷ được coi là trẻ khuyết tật và cần được
hưởng các chính sách dành cho trẻ khuyết tật đang được tiến hành tại khắp
các cơ quan, tổ chức liên quan và từ các khuyến nghị mạnh mẽ của các gia
13
đình có trẻ mắc hội chứng này. Một trong những thành quả của các nỗ lực
trên là sự ra đời của Quyết định 1019/QĐ-TTg ngày 05 tháng 08 năm 2012
của thủ tướng chính phủ về phê duyệt “Đề án trợ giúp người khuyết tật giai
đoạn 2012-2020”. Theo đó, người mắc chứng rối loạn tự kỷ được “hỗ trợ triển
khai giáo dục hòa nhập ở các cấp học thông qua việc xây dựng chương trình,
tài liệu; bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ quản lý,… bồi dưỡng chuyên môn
cho giáo viên trực tiếp dạy…. tự kỷ”, tuy chưa có giá trị về mặt pháp lý trong
việc đưa tự kỷ vào một trong các dạng khuyết tật được pháp luật công nhận
nhưng đây cũng là một bước tiến trong việc chính phủ và các ban ngành đang
cố gắng để tự kỷ được công nhận là một dạng khuyết tật. Chính thức, tháng
12/2014, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, đại diện là Cục Bảo trợ xã hội
cho biết ngành lao động - xã hội đang nỗ lực xây dựng tài liệu hướng dẫn về
vấn đề tự kỷ, tập huấn cán bộ của ngành để hướng dẫn các địa phương triển
khai thực hiện xác định mức độ khuyết tật cho trẻ tự kỷ, để các em được
hưởng các chính sách dành cho người khuyết tật. Tuy nhiên, việc sửa đổi Luật
Người khuyết tật theo hướng đưa tự kỷ vào một trong các dạng khuyết tật là
cần thiết, nhằm tạo hành lang pháp lý cho các công tác chẩn đoán, hỗ trợ, và
các chính sách khác liên quan đến người tự kỷ đặc biệt là trẻ tự kỷ.
1.3. Các khái niệm công cụ
1.3.1. Trẻ em
Theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em : “ trong phạm vi của Công ước
này, trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp
dụng với trẻ em có qui định tuổi thành niên sớm hơn”. Công ước này được
192 của 194 nước thành viên phê duyệt, trong đó Việt Nam là nước thứ hai
trên thế giới đã ký phê duyệt.
Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em của Việt Nam năm 2004 quy định “trẻ
em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
14
Theo Từ điển bách khoa toàn thư Wikipedia, về mặt sinh học, trẻ em là
con người, ở giữa giai đoạn từ khi sinh ra đến khi dậy thì
Về mặt xã hội học, trẻ em là giai đoạn xã hội hóa mạnh nhất và là giai
đoạn đóng vai trò quan trọng của quá trình hình thành nhân cách mỗi con
người.
Có sự khác biệt giữa các quốc gia trong việc quy định độ tuổi của trẻ em,
nhưng nhìn chung, về mặt thực tiễn, mọi quốc gia đều công nhận rằng trẻ em
là những công dân nhỏ tuổi, đang trong giai đoạn phát triển về thể chất, tâm
sinh lý, năng lực xã hội và trình độ nhận thức. Do đó, trẻ em là đối tượng
được pháp luật ưu tiên bảo vệ, được toàn xã hội quan tâm và hỗ trợ.
Trong khuôn khổ của luận văn này, tôi chỉ giới hạn nghiên cứu trẻ ở độ
tuổi nhỏ 16 – 36 tháng tuổi, là giai đoạn đầu đời, khởi đầu cho mọi quá trình
phát triển, và trong lĩnh vực tự kỷ, đây là giai đoạn quan trọng để có thể phát
hiện và đưa ra các biện pháp can thiệp kịp thời, nhằm giúp trẻ có nhiều cơ hội
phục hồi và hòa nhập xã hội.
1.3.2. Hội chứng tự kỷ ở trẻ em
Tự kỷ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “autós” nghĩa là ‘cái tôi, tự bản
thân”. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên bởi bác sỹ tâm thần Eugen
Bleuler. Ông đã dùng thuật ngữ này để mô tả triệu chứng rút lui xã hội của các
bệnh nhân mắc chứng tâm thần phân liệt và các triệu chứng trầm cảm khác.
Hội chứng tự kỷ (Autism Spectrum Disorders) được mô tả lần đầu tiên
vào năm 1943 bởi bác sỹ tâm thần học người Mỹ gốc Áo, Leo Kanner (1894
– 1981), Kanner đã mô tả một nhóm gồm 11 trẻ có những biểu hiện phát triển
không bình thường như, có những khiếm khuyết về tương tác xã hội, khiếm
khuyết trong quá trình phát triển ngôn ngữ, có những hành vi kỳ lạ lặp đi lặp
lại nhiều lần, khởi phát sớm trước 3 tuổi, thuật ngữ Tự kỷ đã được Kanner
dùng để mô tả các triệu chứng trên.Năm 1944, một bác sỹ nhi người Áo là
15
Hans Asperger đã mô tả một dạng tự kỷ nhẹ hơn Kanner mô tả rất nhiều. Sau
này, người ta lấy tên ông đặt cho rối loạn này gọi là hội chứng Asperger.
Từ khi được biết đến, tự kỷ được mô tả bằng các khái niệm khác nhau,
trong đó có thể kể đến khái niệm khá đầy đủ và mang tính tổng quát “Tự kỷ là
một loại khuyết tật phát triển suốt đời được thể hiện trong vòng 3 năm đầu
đời. Tự kỷ là do rối loạn của hệ thần kinh gây ảnh hưởng đến hoạt động của
não bộ. Tự kỷ có thể xảy ra ở bất kỳ cá nhân nào không phân biệt giới tính,
chủng tộc, giàu nghèo và địa vị xã hội. Tự kỷ được biểu hiện ra ngoài bằng
những khiếm khuyết về tương tác xã hội, khó khăn về giao tiếp ngôn ngữ và
phi ngôn ngữ, và hành vi, sở thích và hoạt động mang tính hạn hẹp và lặp đi
lặp lại”[20]
Ngoài ra, theo Trung tâm Kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ
(Centers for Disease Control and Prevention viết tắt là CDC), rối loạn phổ tự
kỷ là một hội chứng có thể gây ra những khó khăn nghiêm trọng về xã hội,
giao tiếp và hành vi, với tỷ lệ trung bình là cứ 110 trẻ em tại Mỹ thì có 1 em
bị mắc hội chứng này.
Có lẽ trong tiếng Việt, vẫn chưa có định nghĩa cụ thể cho tự kỷ. Tuy
nhiên, khái niệm tự kỷ đã được trình bày bởi nhiều nhà chuyên môn. Ví dụ:
Tự kỷ là một rối loạn phát triển kéo dài suốt đời, ảnh hưởng đến cách giao
tiếp và quan hệ của một người đối với người xung quanh. Trẻ tự kỷ bị tổn
thương trong tương tác xã hội, giao tiếp xã hội và tưởng tượng. Trẻ cũng có
hành vi lặp đi lặp lại và nhạy cảm giác quan.Những trẻ này có khuynh hướng
gặp khó khăn trong học tập và nhiều trẻ bị khiếm khuyết về trí tuệ.
1.3.3. Công tác xã hội cá nhân
Công tác xã hội cá nhân được hình thành bắt đầu vào cuối những năm
1800, khởi đầu từ việc Hiệp hội các tổ chức từ thiện ở Anh (Charity
Organization Society) hướng tới việc trợ giúp cá nhân theo hoàn cảnh của
16
từng cá nhân, vào những năm 56 – 60 của thế kỷ 20, CTXH cá nhân chú ý
đến yếu tố gia đình và ảnh hưởng của môi trường đối với hành vi, thái độ của
từng cá nhân.
Ngày nay, sự can thiệp không chỉ tập trung vào cá nhân và nhận thức của
cá nhân mà ngày nay phương pháp CTXH cá nhân có xu thế hướng tới việc
can thiệp “con người trong hoàn cảnh”, cá nhân được đặt trong mối tương
quan và chịu ảnh hưởng của tâm lý học, văn hóa và xã hội….
Có các định nghĩa khác nhau liên quan đến CTXH cá nhân, trong đó có
thể kể đến một số khái niệm được đưa ra bởi một số tác giả tiêu biểu như:
Theo Grace Mathew, CTXHCN là phương pháp trợ giúp cá nhân con
người thông qua mối quan hệ một – một, phương pháp này được các NVXH
tại các cơ sở thực hiện để trợ giúp một cá nhân có các vấn đề về chức năng xã
hội và việc thực hiện các chức năng của họ.
Perlman cho rằng, phương pháp CTXHCN là một tiến trình được các cơ
quan an sinh thực hiện để giúp cá nhân con người đối phó hiệu quả hơn với
các vấn đề thuộc về chức năng xã hội của họ.
Theo Richmond (1922)” CTXHCN là các tiến trình được áp dụng để
phát triển con người thông qua điều chỉnh nhận thức của mỗi cá nhân, và giữa
cá nhân với môi trường xunh quanh”
Bowers (1949), cho rằng “CTXHCN là nghệ thuật thấu hiểu mối quan hệ
giữa người với người và khả năng sử dụng các mối quan hệ để khai thác các
tiềm năng trong mỗi cá nhân con người và huy động các nguồn lực trong cộng
đồng để điều chỉnh tốt hơn mối quan hệ giữa cá nhân với một phần hoặc toàn
bộ môi trường xunh quanh”.
Theo De Guzman (1992), phương pháp CTXHCN như là “một phương
pháp can thiệp (của CTXH) quan tâm đến những vấn đề về nhân cách mà một
thân chủ cảm nghiệm. Mục đích của CTXHCN là phục hồi, củng cố và phát
17
triển sự thực hành bình thường của chức năng xã hội của cá nhân và gia đình.
NVXH thực hiện điều này bằng cách giúp tiếp cận các tài nguyên cần thiết.
Về nội tâm, về quan hệ giữa người và người, và kinh tế xã hội. Phương pháp
này tập trung vào các mối liên hệ về tâm lý xã hội, bối cảnh xã hội trong đó
vấn đề của cá nhân và gia đình diễn ra và bị tác động”.
Từ một số định nghĩa trên, có thể thấy rằng, phương pháp CTXHCN là
phương pháp mà các NVXH sử dụng để làm việc trực tiếp một – một với cá
nhân con người trong mối tương quan với môi trường cụ thể, huy động tối đa
các nguồn lực để tập trung giải quyết các vấn đề mà thân chủ gặp phải, với mục
đích khôi phục, thực hiện và phát triển các chức năng xã hội của thân chủ.
1.3.4. Tiến trình công tác xã hội cá nhân
CTXHCN là phương pháp giúp đỡ cá nhân có các vấn đề về chức năng
tâm lý xã hội, CTXHCN đi sâu vào tiến trình giải quyết vấn đề gồm 7 bước:
xác định vấn đề, thu thập dữ liệu, thẩm định chẩn đoán, kế hoạch trị liệu, thực
hiện kế hoạch, lượng giá, tiếp tục hay chấm dứt. Về mặt lý thuyết, đây là 7
bước theo thứ tự logic của tiến trình, tuy nhiên trong giải quyết vấn đề, 7 bước
có thể được chia làm 3 giai đoạn chính: Giai đoạn nghiên cứu gồm xác định
vấn đề và thu thập dữ liệu; giai đoạn 2 gồm: thẩm định chẩn đoán và kế hoạch
trị liệu; cuối cùng giai đoạn 3 gồm: thực thi kế hoạch, lượng giá, tiếp tục hay
chấm dứt.[12]
Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn mà NVXH bắt đầu tiếp cận, làm quen và
xây dựng mối quan hệ với thân chủ, nếu một NVXH có được lòng tin của
thân chủ thì việc xác định vấn đề trở nên dễ dàng hơn rất nhiều, vì ở bước đầu
tiên này, thân chủ sẽ là người bày tỏ cho NVXH biết đâu là vấn đề mà anh ta
gặp phải. Sau khi lắng nghe và xác định được tính chất của vấn đề, NVXH sẽ
tiến hành thu thập dữ liệu, bước thu thập dữ liệu được tiến hành dựa trên bốn
nguồn thông tin chính: từ chính thân chủ; từ những người có quan hệ với thân
18
chủ (thành viên gia đình, bác sỹ, giáo viên, đồng nghiệp,…); tài liệu biên bản
liên quan đến vấn đề; các trắc nghiệm tâm lý, tâm thần học để xác định chức
năng xã hội của thân chủ. Trong trường hợp này, thân chủ là trẻ tự kỷ nên
ngoài việc xây dựng mối quan hệ với trẻ, NVXH cần có mối quan hệ trực tiếp
và tiếp xúc nhiều với gia đình và giáo viên dạy trẻ để nắm rõ hơn các vấn đề
liên quan đến trẻ, như giáo dục, phúc lợi xã hội, hòa nhập cộng đồng. Khi bé
M được mẹ và bà đưa tới trung tâm Thụy An thì cô Hoài là người tiếp nhận,
làm quen và phỏng vấn trực tiếp mẹ và bà của bé. Cô Hoài, do đó, đóng vai
trò vừa là giáo viên can thiệp vừa là NVXH. Vấn đề của bé M được xác định
dựa trên các quan sát của cô Hoài đối với bé M và các thông tin mà cô Hoài
thu thập được từ bà và mẹ của bé, có thể nói, bà và mẹ là nguồn thông tin
chính và duy nhất để cô Hoài có thể xác định được vấn đề của bé M.
Giai đoạn thẩm định, chẩn đoán và lên kế hoạch trị liệu: dựa trên các dữ
liệu thu thập được, NVXH cần xác định dược các vấn đề chính mà thân chủ
gặp phải, phân tích các nguyên nhân và nhân tố chủ yếu dẫn tới các khó khăn
và vấn đề của thân chủ, từ đó NVXH thẩm định dựa trên các phân tích về
nguồn lực và khả năng của thân chủ trong việc loại bỏ hay giảm bớt các trở
ngại, đồng thời NVXH cũng sẽ đánh giá các mối quan hệ và các nguồn lực để
có thể trợ giúp cho thân chủ. Dựa trên các chẩn đoán và thẩm định, NVXH sẽ
lên một kế hoạch trị liệu tạm thời cho thân chủ, theo đó mục đích của kế
hoạch trị liệu phải là điều mà thân chủ mong muốn, có tính khả thi cao nhất
và nằm trong mối tương quan với các nguồn lực sẵn có. Đối với trẻ tự kỷ,
ngoài nguyên nhân dẫn tới tự kỷ, NVXH cần coi chính tự kỷ là nguyên nhân
lớn nhất khiến trẻ bị mất đi các chức năng tâm lý, xã hội, ngoài ra các yếu tố
bên ngoài cũng góp phần không nhỏ trong việc trẻ có thể được phát hiện, can
thiệp sớm và có khả năng phục hồi hay không. Việc lên kế hoạch trị liệu trong
trường hợp này cần có sự tham gia của gia đình trẻ và thầy cô giáo của trẻ, vì
19
đây là hai nhân tố rất quan trọng, có mối quan hệ mật thiết với trẻ và theo
nghĩa nào đó họ là những người có thể thay trẻ bày tỏ các vấn đề, nhu cầu và
nguyện vọng. Đối với bé M, dựa trên các thông tin từ gia đình, từ quan sát và
kết quả từ các bộ công cụ khám sàng lọc, cô Hoài sẽ lên kế hoạch trị liệu tạm
thời cho bé M thông qua chương trình can thiệp cụ thể cho từng tháng. Bé M
sẽ được can thiệp bán trú tại trung tâm, do đó, cô Hoài có thể thông tin về tình
hình của bé M tới phụ huynh một cách trực tiếp và hàng ngày.
Giai đoạn thực thi kế hoạch, lượng giá, tiếp tục hay chấm dứt: đây là giai
đoạn NVXH cần tập trung mọi nguồn lực vào các hoạt động giải quyết các
vấn đề của thân chủ, huy động sự tham gia tối đa của thân chủ để giải quyết
các vấn đề trước mắt, điều chỉnh các khó khăn, trở ngại và đối với một số
trường hợp, mục đích trước mắt là huy động mọi nguồn lực để giữ cho tình
huống không trở nên xấu hơn. Các hoạt động thực hiện kế hoạch thường tập
trung vào việc: thay đổi hoàn cảnh môi trường sống của thân chủ hoặc điều
chỉnh hành vi thái độ của thân chủ trong hoàn cảnh, môi trường của thân chủ
hoặc thực hiện cả hai. Sau một thời gian nhất định tiến hành thực hiện kế
hoạch, NVXH cần đưa ra các lượng giá, đây là hoạt động cần thiết để giúp
NVXH và bản thân thân chủ xem xét và đánh giá tình hiệu quả của kế hoạch
trị liệu, các kinh nghiệm và bài học để có thể điều chỉnh và đối chiếu với mục
tiêu ban đầu đặt ra. Bước cuối cùng của tiến trình là việc đưa ra quyết định
tiếp tục hay chấm dứt. Kế hoạch trị liệu vẫn cần tiếp tục triển khai khi các
lượng giá định kỳ cho thấy các tiến bộ từ thân chủ, trong trường hợp, thân chủ
không có được bất kỳ thay đổi tích cực hay tiến bộ nào, NVXH cần thay đổi
phương pháp hay phương thức trị liệu. Kết thúc là việc chấm dứt mối quan hệ
giữ thân chủ và NVXH, khi mục đích đã đạt được, hoặc do thân chủ thay đổi
nơi cư trú hoặc bản thân thân chủ chủ động chấm dứt, hoặc khi NVXH đánh
giá thấy việc tiếp tục mối quan hệ cũng không mang lại kết quả. Trong hoạt
20
động trị liệu với trẻ tự kỷ, việc cải thiện môi trường, hoàn cảnh sống của trẻ là
rất cần thiết, việc thay đổi thái độ, nâng cao nhận thức của cha mẹ, thầy cô
giáo về chứng tự kỷ sẽ là một nhân tố tích cực, tác động lớn đến việc phục hồi
các chức năng xã hội cho các em, đồng thời việc lên kế hoạch cho các bước
trị liệu là không thể thiếu nhằm điều chỉnh hành vi, cảm xúc, ngôn ngữ,… cho
trẻ để giúp các em khôi phục các kỹ năng giao tiếp, hoạt động này đòi hỏi sự
liên hệ chặt chẽ giữa NVXH, giáo viên, bác sỹ trị liệu và gia đình của trẻ, đây
là nhân tố quan trọng xây dựng nên nền tảng vững chắc để trẻ có cơ hội được
khôi phục và phát triển. Bên cạnh đó, NVXH sẽ là người kết nối các dịch vụ
phúc lợi xã hội và cần là người biện hộ cho trẻ trong việc được đến trường và
được tham gia các hoạt động xã hội khác, đây là các hoạt động không thể
thiếu trong việc can thiệp, phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật nói chung và
trẻ tự kỷ nói riêng. Việc lượng giá trong trường hợp này đòi hỏi cần tiến hành
lặp lại với sự tham gia của cha mẹ, giáo viên dạy trẻ. Do đặc điểm riêng của
trẻ tự kỷ, các tiến triển trong quá trình PHCN cho trẻ tự kỷ đôi khi rất khó đo
lường và cần một thời gian rất dài để có thể kết luận. Trong một số trường
hợp, hoạt động PHCN cho trẻ tự kỷ có thể kéo dài đến khi trẻ trưởng thành và
có thể tiếp tục đến hết cuộc đời, do đó, việc tiếp tục hay chấm dứt đôi khi
mang tính chuyển ca, ngoại trừ trường hợp cha mẹ hay người giám hộ của trẻ
chủ động chấm dứt hoặc trẻ chuyển đi nơi khác sống. Đối với trường hợp bé
M, việc thực thi kế hoạch hoàn toàn do cô Hoài đảm nhận, và kế hoạch can
thiệp cho bé M chỉ tập trung khắc phục các vấn đề do chứng tự kỷ mà bé M
mắc phải, mang tính giáo dục trị liệu là chủ yếu. Việc lượng giá các tiến triển
của bé M dựa trên các đánh giá hàng tháng theo chương trình can thiệp đã
được xây dựng và do cô Hoài thực hiện.
21