Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ từ thực tiễn trung tâm phục hồi chức năng việt – hàn, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (750.63 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN TUYÊN

CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ
TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG
VIỆT – HÀN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu

HÀ NỘI, 2016

HÀ NỘI - năm


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa học do tôi thực
hiện, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu. Các trích
dẫn và số liệu được sử dụng có xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách
nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Tuyên




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ ..................................................... 7
1.1. Một số khái niệm công cụ cơ bản được ứng dụng trong nghiên cứu về
công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ .............................................. 7
1.2. Cơ sở pháp lý của công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ............. 23
Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM
KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ TẠI TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG
VIỆT – HÀN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................ 29
2.1. Khái quát về trung tâm Phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà
Nội ................................................................................................................... 29
2.3. Thực trạng công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm
hiện nay ........................................................................................................... 35
2.4. Đánh giá về công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm
hiện nay ........................................................................................................... 47
Chương 3. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TRONG CÔNG
TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ TẠI
TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VIỆT – HÀN, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI .......................................................................................................... 52
3.1. Một số định hướng trong công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ
tại trung tâm .................................................................................................... 52
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác xã hội đối với trẻ em
khuyết tật trí tuệ tại trung tâm ......................................................................... 54
KẾT LUẬN .................................................................................................... 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC BẢNG
TÊN BẢNG

STT

TRANG

Bảng 1.1

Phân loại nhóm chuyên gia và vai trò tương ứng

17

Bảng 2.1

Cơ sở hạ tầng của Trung tâm

32

Bảng 2.2

Tổng hợp về sự tham gia các hoạt động hỗ trợ của
trẻ khuyết tật trí tuệ tại Trung tâm

42

Sự hài lòng của gia đình trẻ khuyết tật trí tuệ đối với
Bảng 2.3


các dịch vụ công tác xã hội cho trẻ em khuyết tật trí
tuệ tại trung tâm

44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác xã hội với trẻ em khuyết tật trí tuệ là một lĩnh vực công tác xã
hội chuyên biệt, với mục đích hỗ trợ và tạo điều kiện tốt nhất để trẻ khuyết
tật hòa nhập gia đình và cộng đồng. Ở nước ta hiện nay, công tác xã hội với
trẻ khuyết tật trí tuệ về cơ bản đã đáp ứng nhu cầu tối thiểu trong công tác
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức năng và hướng nghiệp dạy
nghề cho trẻ khuyết tật trí tuệ. Tuy nhiên, việc thực hiện các nội dung công
tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ vẫn còn nhiều hạn chế.
Thực tế hiện nay, công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, phục hồi
chức năng và hướng nghiệp dạy nghề cho trẻ khuyết tật nói chung và trẻ
khuyết tật trí tuệ nói riêng đang được cả Nhà nước, tư nhân và các tổ chức phi
chính phủ quan tâm. Trong đó, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội trực
tiếp thực hiện chức năng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, phục hồi chức năng
và hướng nghiệp dạy nghề cho trẻ khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật
trí tuệ nói riêng.
Tại Hà Nội, trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn đóng tại xã
Đông Yên, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội (sau đây gọi tắt là trung tâm)
là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Lao động -Thương binh và Xã hội Hà Nội,
có chức năng nuôi dưỡng, chăm sóc, điều trị, phục hồi chức năng và hướng
nghiệp dạy nghề cho trẻ em khuyết tật từ 06 đến 18 tuổi trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Trong số 115 trẻ khuyết tật đang được phục hồi chức năng tại
trung tâm hiện nay có 63 trẻ khuyết tật trí tuệ (chiếm 54,6%). Chính vì vậy,
việc thực hiện các hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ

đang được nuôi dưỡng, chăm sóc, điều trị, phục hồi chức năng và hướng
nghiệp dạy nghề tại trung tâm là cần thiết và giữ vai trò quan trọng trong quá

1


trình thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Xuất phát từ những lý do cơ bản đó, việc chọn đề tài: “Công tác xã hội
đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ từ thực tiễn trung tâm phục hồi chức năng
Việt – Hàn, thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ ngành công tác xã hội là
cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều cuộc hội thảo về chủ đề
người khuyết tật được tổ chức ở nhiều cấp độ khác nhau. Trong luận văn này,
chúng tôi xin liệt kê và đánh giá về một số công trình nghiên cứu tiêu biểu đã
công bố và có liên quan mật thiết đến đề tài của chúng tôi.
Đầu tiên là công trình “Đại cương can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật
trí tuệ” của tác giả Trần Lệ Thu, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
xuất bản năm 2010. Trong công trình này, tác giả đã tập trung trình bày
những vấn đề chung về khuyết tật trí tuệ và can thiệp sớm cho trẻ em
khuyết tật trí tuệ. Nội dung cụ thể của can thiệp sớm cho trẻ em khuyết tật
trí tuệ từ 0 đến 6 tuổi như phát hiện sớm, chẩn đoán, sử dụng các phương
pháp can thiệp sớm, tiến trình giáo dục cá nhân...
Tiếp theo là tập bài giảng “Công tác xã hội với cá nhân và gia đình”
của Tôn Nữ Ái Phương, giảng viên Trường Đại học Mở Thành Phố Hồ Chí
Minh. Trong tài liệu này, tác giả đã đưa ra khái niệm công tác xã hội với
trường hợp, trong đó có trường hợp của những trẻ khuyết tật gặp khó khăn và
cần sự giúp đỡ. Tuy nhiên, tài liệu này mới chỉ đề cập đến những vấn đề công
tác xã hội với trẻ em khuyết tật nói chung mà chưa đề cập đến các nội dung
công tác xã hội với trẻ em khuyết tật trí tuệ.

Trong cuốn “Giáo trình Nhập môn công tác xã hội” của tác giả Bùi
Thị Xuân Mai được xuất bản năm 2012, tác giả chủ yếu đề cấp đến nội dung
công tác xã hội có liên quan tới việc hoàn thiện, tăng cường và giúp đỡ trẻ

2


khuyết tật trí tuệ hòa nhập cuộc sống. Đặc biệt, tác giả có nói đến các hoạt
động của nhân viên cx trong việc thực hiện các nội dung công tác xã hội đối
với trẻ khuyết tật, giúp trẻ khuyết tật giải quyết vấn đề; làm việc với các cá
nhân, nhóm để giúp đỡ gia đình có hiệu quả; thường xuyên đánh giá sự thích
hợp và hiệu quả của các chính sách, chương trình và dịch vụ hiện hành có liên
quan đến đối tượng là trẻ khuyết tật...
Cuốn tài liệu “Làm việc với cá nhân và gia đình (Công tác xã hội với
cá nhân và gia đình)” của khóa đào tạo công tác xã hội cho các nhà quản lý
trong lĩnh vực công tác xã hội, thuộc Dự án đào tạo công tác xã hội tại Việt
Nam do các tổ chức MOLISA - ULSA - CFSI- ASI - AP - UNICEF phối hợp
tổ chức năm 2012. Cuốn tài liệu này cũng đề cập đến một số vấn đề chung về
công tác xã hội với các đối tượng nói chung mà không đề cập đến công tác xã
hội với từng đối tượng cụ thể, trong đó có trẻ khuyết tật trí tuệ.
Công trình của tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa chủ biên với tiêu đề
“Công tác xã hội với người khuyết tật” do nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội phát hành cũng đề cập đến tác động của tình trạng khuyết tật đối với
các mối quan hệ gia đình, đồng thời đưa ra một số cách tiếp cận khi làm việc
với trẻ khuyết tật trí tuệ.
Như vậy, các công trình nghiên cứu về công tác xã hội đối với từng đối
tượng nói chung và đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ nói riêng đã được thực
hiện rất nhiều, trên đây chỉ là một số công trình tiêu biểu và có liên quan mật
thiết đến đề tài của chúng tôi. Các công trình nghiên cứu về người khuyết tật
chủ yếu đi sâu nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn ngành công tác xã hội

đối với người khuyết tật, về các chính sách của nhà nước đối với người
khuyết tật. Chưa có công trình nào nghiên cứu về các nội dung công tác xã
hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ, đặc biệt là nghiên cứu về các nội dung
công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ từ thực tiễn một địa phương

3


hay một ngành, một đơn vị nào. Do vậy, việc nghiên cứu về “Công tác xã hội
đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ từ thực tiễn trung tâm Phục hồi chức năng
Việt – Hàn thành phố Hà Nội” là cần thiết trong các nội dung nghiên cứu về
các nội dung công tác xã hội ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với trẻ khuyết
tật trí tuệ, chỉ ra thực trạng công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật trí tuệ tại trung
tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội. Từ đó đưa ra một số
định hướng làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả
hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm phục
hồi chức năng Việt – Hàn thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt các mục đích nghiên cứu đề ra, luận văn thực hiện các nhiệm vụ
chủ yếu sau:
Một là, phân tích và làm rõ thêm những vấn đề lý luận liên quan đến
công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ.
Hai là, phân tích thực trạng trẻ em khuyết tật trí tuệ và các nội dung
công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm phục hồi chức
năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội.
Ba là, đưa ra một số định hướng và các giải pháp cơ bản có tính khả thi
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật

trí tuệ tại trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về các nội dung
công tác xã hội với trẻ em khuyết tật trí tuệ và thực trạng các dịch vụ công tác

4


xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ đang được thực hiện tại trung tâm phục
hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tiến hành khảo sát thực trạng các dịch
vụ công tác xã hội đang được thực hiện đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại
trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội hiện nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản của chuyên
ngành công tác xã hội, trong đó chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp công tác xã hội với trẻ em khuyết tật: được sử dụng để
tìm hiểu về đặc điểm khuyết tật, nhu cầu, cách tiếp cận, kỹ năng… trong suốt
quá trình nghiên cứu và làm việc với trẻ em khuyết tật trí tuệ để thực hiện các
nội dung nghiê cứu của luận văn.
Phương pháp phân tích tài liệu: được sử dụng để thu thập và phân tích,
đánh giá về các tài liệu liên quan đến từng nội dung nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp quan sát: được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu để
thu thập những thông tin liên quan đến đề tài, tác giả quan sát những hành
động, hành vi ứng xử và thái độ, cách giao tiếp của trẻ em khuyết tật trí tuệ tại
trung tâm. Đồng thời quan sát thái độ, phương pháp quản lý, chăm sóc, phục
hồi chức năng của cán bộ nhân viên trung tâm đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ.
Phương pháp phỏng vấn sâu: được sử dụng để thu thập những thông
tin cần thiết về hoàn cảnh, đặc điểm của trẻ em khuyết tật trí tuệ, qua đó thấy
được những thuận lợi, khó khăn và nhu cầu của trẻ em khuyết tật trí tuệ để rút

ra những nhận định và đề xuất các giải pháp phù hợp.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Tác giả xây dựng bộ câu hỏi đóng và
câu hỏi mở để điều tra đối với cán bộ nhân viên trung tâm và các gia đình có con là
trẻ em khuyết tật trí tuệ đang được phục hồi chức năng tại trung tâm nhằm khảo sát
về thực trạng công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm hiện nay.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý
luận về công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ, đồng thời làm rõ thêm
các cơ sở pháp lý trong lĩnh vực công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí
tuệ từ thực tiễn trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn thành phố Hà Nội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những định hướng và các giải pháp mà luận văn đưa ra có thể áp dụng
để nâng cao hiệu quả hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí
tuệ tại trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội. Kết quả
nghiên cứu của luận văn sẽ là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho công tác
chuyên môn về công tác xã hội tại trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn,
thành phố Hà Nội. Đồng thời có thể là nguồn tài liệu tham khảo đối với việc
hoàn thiện chính sách, xây dựng các mô hình nhân rộng về hỗ trợ can thiệp
phục hồi cho trẻ em khuyết tật trí tuệ và các đơn vị tổ chức, các nhân khác
trong việc nghiên cứu và giải quyết các vấn đề liên quan.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được chia làm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với trẻ em
khuyết tật trí tuệ.

Chương 2: Thực trạng công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ
tại trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ tại trung tâm phục hồi chức
năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ
1.1. Một số khái niệm công cụ cơ bản được ứng dụng trong nghiên
cứu về công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ
1.1.1. Khái niệm công tác xã hội
Hiện có rất nhiều khái niệm về công tác xã hội được đưa ra từ các cá
nhân, tổ chức trong nước và quốc tế. Trong luận văn này chúng tôi liệt kê ra
một số khái niệm tiêu biểu và có liên quan mật thiết đến đề tài của chúng tôi
như sau:
Năm 1970, Hiệp hội các nhân viên xã hội Mỹ (NASW) đã đưa ra khái
niệm: “Công tác xã hội là một hoạt động mang tính chuyên môn nhằm giúp
đỡ những cá nhân, nhóm và cộng đồng trong hoàn cảnh khó khăn để họ tự
phục hồi chức năng xã hội và tạo ra các điều kiện thuận lợi cho họ đạt được
mục đích cá nhân”.
Đến năm 2000, Hiệp hội Nhân viên xã hội quốc tế (IFSW) định nghĩa:
“Công tác xã hội chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội, việc giải quyết
vấn đề trong các mối quan hệ con người và sự tăng quyền lực và giải phóng
người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận
dụng các lý thuyết về hành vi và hệ thống xã hội, công tác xã hội can thiệp ở
các điểm tương tác giữa con người và môi trường của họ. Nhân quyền và

công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề công tác xã hội”.
(Thường được sử dụng ở các nước công tác xã hội đã phát triển cao).
Năm 2010, trong công trình nghiên cứu của một nhóm tác giả Việt
Nam đã định nghĩa: “Công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên
nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực,

7


đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội đồng thời thúc đẩy môi
trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia
đình, cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm
bảo an sinh xã hội”.[1, tr.19]
Như vậy, từ các quan niệm trên, có thể khẳng định công tác xã hội là
một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp, một lĩnh vực khoa học chuyên thực
hiện nhiệm vụ chức năng xã hội giao phó và được xã hội thừa nhận. Các
chính sách, chương trình và dịch vụ công tác xã hội được triển khai bởi bộ
máy tổ chức theo một ngành dọc và liên ngành. Bên cạnh đó, công tác xã hội
được thực hiện trên một nền tảng hệ giá trị, nguyên tắc, yêu cầu nghề
nghiệp,… theo quy định của pháp luật. Đồng thời, công tác xã hội còn là
một ngành khoa học, bao gồm hệ thống kiến thức lý thuyết và kỹ năng thực
hành được đào tạo ở nhiều trình độ khác nhau.
1.1.2. Khái niệm trẻ khuyết tật và trẻ em khuyết tật trí tuệ
* Khái niệm trẻ em khuyết tật
TheoTổ chức Y tế Thế Giới (WHO), Trẻ khuyết tật là những trẻ có
thiếu hụt cấu trúc cơ thể hoặc suy giảm các chức năng dẫn đến những hạn chế
nhất định trong hoạt động của cá nhân và gặp khó khăn, trở ngại (do môi
trường sống đem lại) trong việc tham gia đầy đủ và có hiệu quả mọi hoạt
động trong xã hội - cộng đồng.
Theo Điều 1 Pháp lệnh người tàn tật của Việt Nam năm 1998: “Trẻ tàn

tật là những trẻ từ 0-18 tuổi, không phân biệt nguồn gốc gây ra khuyết tật,
thiếu một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng biểu hiện dưới
những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao
động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn”.
Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật Việt Nam, năm 2004 Quỹ Nhi
đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) cho rằng, Trẻ bị khuyết tật là những trẻ từ 0 –

8


18 tuổi, không kể những nguyên nhân của khuyết tật, thiếu một hoặc hơn các
bộ phận hoặc các chức năng cơ thể khiến giảm khả năng hành động và gây
khó khăn trong công việc, cuộc sống và học tập.
Về các dạng khuyết tật
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã phân loại trẻ khuyết tật thành 08 dạng
khuyết tật như sau: (1) khó khăn về vận động; (2) khó khăn về nhìn; (3) khó
khăn về nghe – nói; (4) khó khăn về học; (5) hành vi xa lạ, khác thường; (6)
động kinh; (7) mất cảm giác; (8) đa tật.
Còn theo cách phân loại theo Hội đồng giáo dục Hoa kỳ (Luật IDEA
năm 1997), trẻ khuyết tật được phân thành 13 dạng khuyết tật bao gồm: (1) tự
kỷ, (2) điếc mù, (3) điếc, (4) rối loạn cảm xúc, (5) khiếm thính, (6) chậm phát
triển trí tuệ, (7) đa tật, (8) khuyết tật thể chất, (9) khuyết tật sức khoẻ, (10) khó
khăn về học, (11) khuyết tật ngôn ngữ, (12) tổn thương não, (13) khiếm thị.
Ở Việt Nam, theo Luật người khuyết tật (năm 2010), trẻ khuyết tật
được phân thành 06 dạng khuyết tật như sau: (1) Khuyết tật vận động, (2)
Khuyết tật nghe, nói, (3) Khuyết tật nhìn, (4) Khuyết tật thần kinh, tâm thần,
(5) khuyết tật trí tuệ, (6) Khuyết tật khác.
Về mức độ khuyết tật
Theo điều 3 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của Chính
phủ, về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật NKT, có

3 mức độ khuyết tật: một là, Khuyết tật đặc biệt nặng: những trẻ do khuyết tật
dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực
hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc
khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi,
trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn. Hai là, Khuyết tật nặng: bao gồm những trẻ do
khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm
soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ

9


sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng
ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc. Ba là, Khuyết tật nhẹ:
gồm những trẻ khuyết tật không thuộc các trường hợp được quy đinh tại hai
mức độ trên.
Về nguyên nhân khuyết tật
Có nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên khuyết tật ở trẻ em, tuy nhiên
có thể đề cập tới các nguyên nhân sau: Một là, Do bất thường gen: Do di
truyền gen gây bệnh. Một số gen bệnh được truyền từ cha mẹ sang con gây
biến đổi cấu trúc cơ thể và rối loạn chuyển hóa dẫn đến khiếm khuyết, loại
nguyên nhân này thường đưa đến hậu quả nặng nề vì tổn thương ở hệ thần kinh
và xuất hiện rất sớm, trong thời kỳ bào thai. Nhiễm sắc thể bất thường có thể
dẫn tới khiếm khuyết ở cơ quan tim, thận, phổi, gan... Các bệnh về trao đổi chất
ở các tuyến, hạch: từ những chấn thương bẩm sinh có thể dẫn đến tái phát trong
quá trình phát triển, dẫn đến sự rối loạn trong trao đổi chất, rối loạn về dinh
dưỡng, những rối loạn này có thể dẫn đến khuyết tật, tàn tật, khó khăn trong
cuộc sống. Hai là, do sang chấn trước và trong quá trình sinh nở: Trẻ bị sinh
non, thiếu tháng nếu mẹ sử dụng chất kích thích hoặc mang đa thai, trẻ bị tổn
thương não do bị ngạt khi sinh hoặc do bất thường của nhau thai, cuốn rốn, trẻ
bị dị tật hoặc khiếm khuyết do mẹ bị bệnh trong quá trình mang thai, nhiễm

độc thai nghén do sử dụng rượu, ma túy, thuốc lá, có thể dẫn đến chấn thương
ở hệ thần kinh, sinh con thiếu tháng, biến chứng khi sinh do tiêm chủng, do
thuốc, do can thiệp không kịp thời. Ba là, Do tai nạn: tai nạn trong sinh hoạt,
tai nạn chiến tranh, tai nạn giao thông, tai nạn lao động… Bốn là, Do biến
chứng do bệnh mắc phải: viêm khớp, viêm dây thần kinh ngoại biên…
* Khái niệm trẻ em khuyết tật trí tuệ
Cho đến nay, những khái niệm khuyết tật trí tuệ được sử dụng rộng rãi
nhất ở Việt Nam là theo DSM-IV và AAMR đưa ra vào năm 1992.

10


Theo DSM-IV: tiêu chí chẩn đoán khuyết tật trí tuệ bao gồm 3 tiêu chí
sau: Một là, chức năng trí tuệ dưới mức trung bình, tức là chỉ số trí tuệ đạt gần
70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm cá nhân. Hai là, bị
thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số những lĩnh vực hành vi
thích ứng: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, các kỹ năng xã hội/liên cá
nhân, sử dụng các phương tiện trong cộng đồng, tự định hướng, kỹ năng học
đường chức năng, làm việc, giải trí, sức khỏe và an toàn. Ba là, hiện tượng
khuyết tật trí tuệ xuất hiện trước 18 tuổi.
Theo AAMR: khuyết tật trí tuệ là những hạn chế lớn về khả năng thực
hiện chức năng. Đặc điểm của khuyết tật trí tuệ là: (1) Hoạt động trí tuệ dưới
mức trung bình. (2) Hạn chế về hai hoặc nhiều hơn những lĩnh vực kỹ năng
thích ứng: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, các kỹ năng xã hội, sử
dụng các phương tiện trong cộng đồng, tự định hướng, sức khỏe và an toàn,
kỹ năng học đường chức năng, giải trí, làm việc. (3) Hiện tượng khuyết tật trí
tuệ xuất hiện trước 18 tuổi.
Như vậy, từ hai quan điểm trên và từ sự phân loại khuyết tật ở Việt
Nam hiện nay có thể thấy, trẻ khuyết tật trí tuệ là những người khuyết tật dưới
18 tuổi, thuộc mức độ khuyết tật nặng, có hoạt động trí tuệ dưới mức trung

bình, hạn chế về các kỹ năng sống.
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng khái niệm trẻ khuyết tật trí tuệ
như sau: trẻ khuyết tật trí tuệ là khái niệm dùng để chỉ những người dưới 18
tuổi có trí tuệ dưới mức trung bình, đồng thời bị thiếu hụt hoặc khiếm
khuyết ít nhất hai trong số những lĩnh vực hành vi thích ứng (giao tiếp, tự
chăm sóc, các kỹ năng xã hội liên cá nhân, sử dụng các phương tiện trong
cộng đồng, tự định hướng, kỹ năng học đường, chức năng làm việc, giải trí,
sức khỏe và an toàn).

11


* Các biểu hiện đặc trưng của trẻ em khuyết tật trí tuệ
Một là, về nhận thức: Sự phát triển nhận thức ở trẻ em khuyết tật trí tuệ
có sự khác biệt rõ rệt so với trẻ bình thường thể hiện ở đặc điểm: từng giai
đoạn phát triển kéo dài hơn và cả quá trình triển sẽ dừng lại sớm hơn. Sự trì
hoãn hoàn thiện của hệ thống vỏ não cấp một và cấp hai sẽ đưa đến việc thiếu
hụt các hoạt động tập trung đối trẻ khuyết tật trí tuệ. Chậm biết nói và khó
khăn khi nói. Kém hiểu biết về các quy luật cơ bản. Không ý thức được hậu
quả về các hành vi của mình. Khó khăn khi tự phục vụ (tự ăn uống, vệ sinh cá
nhân, học tập…). Khó nhận biết các khái niệm, tư duy lôgíc kém, thiếu tính
nhận xét, phê phán…
Hai là, về trí nhớ: Trẻ em khuyết tật trí tuệ thường có biểu hiện
chậm hiểu cái mới, quên nhanh cái vừa tiếp thu. Quá trình ghi nhớ không
bền vững, không đầy đủ. Chỉ ghi nhớ cái bên ngoài sự vật, không ghi nhớ
cái bên trong, cái khái quát…
Ba là, về chú ý: Trẻ em khuyết tật trí tuệ thường có biểu hiện không tập
trung vào chi tiết, chỉ tập trung các nét bên ngoài, dễ bị phân tán bởi các sự
vật nhỏ…
Bốn là, về vận động, kỹ năng: trẻ em khuyết tật trí tuệ thường chậm

biết lật, ngồi, bò và đi đứng, chậm biết nói và khó khăn khi nói, kéo theo đó là
những khó khăn khi tự phục vụ: ăn uống, vệ sinh cá nhân, giao tiếp xã hội…
dẫn đến kém hiểu biết về các quy luật cơ bản và thường không ý thức được
hậu quả về các hành vi của mình.
Năm là, về cảm giác, tri giác: Trẻ em khuyết tật trí tuệ thường chậm
chạp, ít linh hoạt, khó khăn trong việc phân biệt màu sắc, dấu hiệu, chi tiết sự
vật, thiếu tính tích cực trong quan sát…

12


* Các nguyên nhân gây khuyết tật trí tuệ
Nguyên nhân trước khi sinh: Một là, do di truyền: (1) Lỗi nhiễm sắc
thể gây hội chứng Down, Turner, Cri-du-chat... đây là nguyên nhân phổ biến
nhất gây KTTT ở trẻ. (2) Lỗi gen: Gây bệnh PKU, u xơ dạng củ, gẫy NST X,
hội chứng Rett, hội chứng Williams Beuren, hội chứng Angelman và Prader
Willy, nứt đốt sống, thiếu một phần não, tràn dịch màng não, đầu nhỏ, rối
loạn chức năng tuyến giáp. Hai là, Do các yếu tố ngoại sinh: Do lây nhiễm:
mẹ bị rubella (sởi Đức) nhất là trong ba tháng đầu thai kỳ, nhiễm vi rút, bệnh
giang mai hay HIV. Do nhiễm độc: Mẹ tiếp xúc với hóa chất, thuốc trừ sâu,
nhiễm độc chì nặng, nhiễm độc thủy ngân, chất rượu cồn; do chụp tia X, chất
độc màu da cam (thế hệ thứ hai), kháng thể Rhesus. Do suy dinh dưỡng ở
người mẹ hoặc thiếu i ốt trong thức ăn hay nước uống.
Nguyên nhân trong khi sinh: Đẻ non dưới 37 tuần, cân nặng khi sinh
thấp hơn 2500g, ngạt khi sinh, can thiệp sản khoa (kẹp, hút thai, đẻ chỉ huy),
vàng da nhân não…
Nguyên nhân sau khi sinh: Viêm nhiễm (viêm màng não, chảy máu
não), tổn thương (tổn thương não do chấn thương đầu nghiêm trọng hoặc do
động kinh, sốt cao co giật), u não (tổn thương do khối u, hoặc do các liệu
pháp y học như phẫu thuật, sử dụng tia X, dùng hóa chất hay chích máu).

Nguyên nhân từ môi trường xã hội: Không được chăm sóc đầy đủ về y tế
và thể chất (thiếu dinh dưỡng, không được tiêm phòng đầy đủ). Thiếu thốn về tâm
lý – xã hội (thiếu sự chăm sóc nhạy cảm, không được kích thích để trải nghiệm và
khám phá, bị bỏ rơi hoặc lạm dụng). Có nhiều hạn chế trong sử dụng ngôn ngữ tại
gia đình (chỉ sử dụng câu ngắn với vốn từ và câu có hạn). Trẻ được nuôi dưỡng theo
cách để người khác định đoạt cuộc sống của nó (những trẻ như vậy không tự kiểm
soát được mình, ít khi tin là hành động của mình quan trọng đối với chính sự thành
công hay thất bại của bản thân; đây cũng là nguyên nhân dẫn đến trẻ học kém).

13


* Phân loại trẻ em khuyết tật trí tuệ
Đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ hiện có rất nhiều tiêu chí để phân loại.
Trong luận văn này, chúng tôi dựa vào chỉ số thông minh (chỉ số IQ) để phân
loại trẻ khuyết tật trí tuệ. Căn cứ vào chỉ số IQ, có thể phân loại trẻ khuyết tật
trí tuệ thành bốn loại cơ bản như sau:
Một là, chậm phát triển trí tuệ nhẹ: là những trẻ có chỉ số IQ từ 50-70,
có khả năng giao tiếp bằng lời nói, có khả năng tự chăm sóc và làm các cộng
việc đơn giản, có thể đi học và ít cần sự trợ giúp từ người khác.
Hai là, chậm phát triển trí tuệ trung bình: là những trẻ có chỉ số IQ từ
35-49, có khả năng giao tiếp bằng lời nói song nghèo nàn, không rõ nghĩa,
có khả năng tự chăm sóc, làm các công việc đơn giản nếu được huấn luyện
từ nhỏ, có thể đi học song gặp nhiều khó khăn hơn và cần sự trợ giúp nhưng
không thường xuyên.
Ba là, chậm phát triển trí tuệ nặng: là những trẻ có chỉ số IQ từ 20- 34,
không có khả năng giao tiếp bằng lời, không có khả năng tự chăm sóc hoặc làm
các công việc đơn giản, không thể đi học và cần sự trợ giúp thường xuyên. Bốn
là, chậm phát triển trí tuệ rất nặng: là những trẻ có chỉ số IQ dưới 20, hoàn toàn
không có khả năng giao tiếp bằng lời nói, không có khả năng tự chăm sóc bản

thân và làm các công việc đơn giản, không thể đi học, cần sự trợ giúp đặc biêt
thường xuyên.
1.1.3. Công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ
Khái niệm công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật
Công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật là việc đánh giá nhu cầu về
khía cạnh xã hội của đối tượng; đồng thời đóng vai trò là người quản lý
trường hợp, hỗ trợ trẻ em khuyết tật tiếp cận những dịch vụ phù hợp và duy
trì tiếp cận một loạt các dịch vụ phối hợp tốt nhất. Trong trường hợp cần
thiết, nhân viên công tác xã hội cũng cung cấp hỗ trợ tâm lý cho trẻ khuyết

14


tật. Như vậy, bằng những kiến thức, kỹ năng và phương pháp, nhân viên
công tác xã hội sẽ trợ giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng trẻ khuyết tật
phục hồi các chức năng xã hội mà họ bị suy giảm.
Khái niệm công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ
Có thể thấy rằng, công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ là một
lĩnh vực đặc thù trong công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật nói chung.
Trên cơ sở các khái niệm về công tác xã hội, công tác xã hội đối với trẻ em
khuyết tật và khái niệm trẻ em khuyết tật trí tuệ, có thể hiểu “Công tác xã hội
đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ là quá trình nhân viên công tác xã hội sử
dụng phương pháp công tác xã hội với trẻ em khuyết tật để tác động lên nhóm
đối tượng là trẻ em khuyết tật trí tuệ có khó khăn trong cuộc sống do khuyết
tật mang lại. Thông qua tiến trình trợ giúp đó, nhân viên công tác xã hội sẽ
đưa ra nhiều loại chương trình khác nhau để hỗ trợ trẻ em khuyết tật trí tuệ
vượt qua những khó khăn mà trẻ đang gặp phải trong cuộc sống, học tập và
hòa nhập cộng đồng”.
Nội dung công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ
Từ cách hiểu về công tác xã hội với trẻ em khuyết tật, cũng như mục

đích của ngành công tác xã hội nói chung. Có thể khẳng định mục đích của
công tác xã hội với trẻ em khuyết tật là nhằm hỗ trợ cá nhân và gia đình trẻ
em khuyết tật trí tuệ; quản lý ca với trẻ em khuyết tật trí tuệ; hỗ trợ xây dựng
tổ chức của trẻ em khuyết tật trí tuệ; tham gia vào việc xây dựng phản biện
chính sách, luật pháp đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ; biện hộ cho quyền và
lợi ích của trẻ em khuyết tật trí tuệ. Như vậy, có thể nhìn nhận nội dung của
công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ bao gồm các hoạt động sau:
Một là, trợ giúp khuyến khích thúc đẩy và tăng cường việc thực hiện
chức năng xã hội của cá nhân, nhóm, các tổ chức và cộng đồng người khuyết
tật trí tuệ bằng cách giúp họ, phòng ngừa, chữa trị và giảm nhẹ những khó

15


khăn do khuyết tật trí tuệ mang lại và biết cách sử dụng các nguồn lực một
cách hiệu quả.
Hai là, tham gia vào việc hoạch định, xây dựng và thực thi các chính
sách xã hội, các nguồn tài nguyên và các chương trình để đáp ứng những nhu
cầu của trẻ em khuyết tật trí tuệ và hỗ trợ cho sự phát triển của họ.
Ba là, theo đuổi những chính sách, dịch vụ và chương trình thông qua công
tác biện hộ trong phạm vi cơ sở hay trong phạm vi quản trị cơ sở hoặc hành động
chính trị để tăng cường quyền lực cho trẻ em khuyết tật trí tuệ nhằm đảm bảo sự
công bằng và sự tham gia đầy đủ của họ vào các hoạt động xã hội.
Vai trò và nhiệm vụ của nhân viên công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật
trí tuệ
Xuất phát từ nhu cầu của xã hội và mục đích hoạt động của ngành
công tác xã hội, dựa trên đặc thù nghề nghiệp là hoạt động trợ giúp các đối
tượng yếu thế, thiệt thòi, giải quyết các vấn đề xã hội, nhân viên công tác xã
hội có khả năng tác nghiệp khác nhau liên quan đến vấn đề của đối tượng
như: kinh tế, pháp luật, tâm lý, tình cảm, sức khỏe, văn hóa, giáo dục, mối

quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Vì vậy, tùy thuộc vào hoàn cảnh, vị trí
nhiệm vụ được phân công, nhân viên công tác xã hội có thể đóng những vai
trò khác nhau. Trong lĩnh vực công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí
tuệ, vai trò của công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ được phân
chia thành hai loại chính: Một là, vai trò trực tiếp (thu thập thông tin, lập kế
hoạch, thực hiện kế hoạch, giám sát và lượng giá...). Hai là, vai trò gián tiếp
(là người trung gian, người hòa giải, thương lượng, tư vấn, tham vấn, hoạch
định chính sách; quản lý, điều phối các hoạt động nghiên cứu...)
Điều này được thể hiện một cách đầy đủ và linh hoạt khi làm việc với
trẻ em khuyết tật trí tuệ. Do thân chủ bị ảnh hưởng bởi các khuyết tật trí tuệ
nên khi làm việc, trợ giúp trẻ em khuyết tật trí tuệ, nhân viên công tác xã hội

16


cần phối hợp với nhiều chuyên gia khác để thực hiện tốt vai trò của mình.
Theo K. G. Anastasiow, vai trò của từng chuyên gia được thể hiện
trong bảng 1.1.
Bảng 1.1. Phân loại nhóm chuyên gia và vai trò tương ứng
Nhóm chuyên gia

Vai trò nhiệm vụ

Chuyên gia thính học

Xác định mức độ thính giác

Bác sỹ nhãn khoa

Xác định mức độ thị giác


Giáo viên giáo dục đặc

Quản lý chương trình điều trị, điều phối các hoạt

biệt

động trị liệu, gíáo dục

Bác sỹ chuyên khoa

Xác định mức độ khuyết tật theo mức độ phân loại
và lập kế hoạch điều trị

Y tá

Triển khai kế hoạch chăm sóc sức khỏe

Chuyên gia hoạt động trị

Giúp cá nhân phát triển kỹ năng tự phục vụ, vui

liệu

chơi, kỹ năng sống

Chuyên gia vận động trị
liệu

Tăng cường khả năng phát triển vận động và đề

xuất các chiến lược PHCN, cung cấp các dạng trị
liệu cần thiết
Mô tả đầy đủ về những điểm mạnh và nhu cầu của

Chuyên gia tâm lý

NKT đồng thời giúp gia đình giải quyết được
những căng thẳng do có NKT sống trong gia đình

Chuyên gia trị liệu ngôn
ngữ

Xây dượng kế hoạch đánh giá để xác định các bện
pháp trị liệu cần thiết và cung cấp dịch vụ đối với
các trường hợp thích hợp
Hỗ trợ gia đình, cộng đồng triển khai hoạt động

Nhân viên CTXH

chăm sóc NKT phù hợp và giúp gia đình, cộng
đồng xác định những dịch vụ cần thiết.

17


Như vậy, dựa vào các quan điểm trên có thể khẳng định, khi làm việc
với trẻ em khuyết tật trí tuệ, nhân viên công tác xã hội có các nhiệm vụ chủ
yếu sau:
Một là, hỗ trợ trẻ em khuyết tật trí tuệ và gia đình trẻ giải quyết các vấn
đề khó khăn của họ thông qua việc tìm kiếm hoặc cung cấp các dịch vụ cần

thiết chọ trẻ khuyết tật trí tuệ.
Hai là, hỗ trợ về mặt tâm lý (hiểu và thông cảm được tâm lý của trẻ em
khuyết tật trí tuệ, xem xét ảnh hưởng của khuyết tật tới gia đình họ tác động
của khuyết tật tới vai trò và mối quan hệ của các thành viên trong gia đình,
bao gồm cả những rắc rối cá nhân hay vấn đề xã hội khác)
Ba là, phối hợp vận động tìm nguồn lực, nguồn tài nguyên hỗ trợ
cho trẻ em khuyết tật trí tuệ và gia đình trẻ (ví dụ: chương trình cấp xe
lăn, mổ tim, hỗ trợ tai nghe hoặc vay vốn phát triển kinh tế gia đình, sửa
chữa nhà cửa...)
Bốn là, xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động, giúp đỡ trẻ em
khuyết tật trí tuệ và tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động..
Năm là, đề xuất ý kiến soạn thảo chính sách về trẻ em khuyết tật trí tuệ.
Sáu là, làm công tác biện hộ cho trẻ em khuyết tật trí tuệ.
Bên cạnh đó, cán bộ công tác xã hội còn có đóng vai trò là người:
Cung cấp cho trẻ em khuyết tật và gia đình trẻ nhiều loại dịch vụ hỗ trợ, từ
hỗ trợ tâm lý cho đến việc phát triển mạng lưới liên kết để thân chủ có thể tiếp cận
các dịch vụ y tế và xã hội hoặc các tổ chức liên quan đến nhu cầu của trẻ.
Đánh giá ban đầu về trẻ em khuyết tật việc đánh giá này bao gồm đánh
giá điểm mạnh, nguồn lực và những hỗ trợ sẵn có ví dụ như: Những hành vi
trong quá khứ giúp thân chủ ứng phó thành công với hoàn cảnh của gia đình,
sự sắp xếp cuộc sống, mức độ học vấn, việc làm, sở thích, hoàn cảnh kinh tế...
cán bộ công tác xã hội cũng phải hiểu được cảm xúc và phản ứng cuả thân

18


chủ đối với khuyết tật, ảnh hưởng của khuyết tật đối với gia đình.
Cung cấp cho các nhân viên y tế hoặc chuyên gia sức khỏe những
thông tin liên quan đến tâm lý của thân chủ để họ có thể hỗ trợ những bệnh
nhân khuyết tật đó đúng cách hơn

Tham vấn cho trẻ khuyết tật và gia đình giúp họ lập kế hoạch cá nhân
và sử dụng tối đa những nguồn nội lực và ngoại lực sẵn có trong cuộc sống.
Giúp trẻ khuyết tật phát triển những kỹ năng xã hội cần thiết để trẻ có
thể tự tin tham gia vào các hoạt động xã hội có ích cho cuộc sống của trẻ.
Giúp cho các thành viên khác trong xã hội hiểu rõ hơn về trẻ khuyết tật
bản chất của khuyết tật để xã hội có cái nhìn đúng về trẻ khuyết tật và sự thiếu
công bằng trong cơ hội mà họ luôn gặp phải, từ đó tác động đến các nhà
hoạch định chính sách cũng như tổ chức đang thực hiện các chương trình phát
triển xã hội để những người này tham khảo ý kiến của người khuyết tật vào
quá trình ra quyết định, cũng như mời họ tham gia giám sát vào lượng giá
việc thực hiện những quyết định liên quan đến cuộc sống của chính họ.
Nguyên tắc làm việc của nhân viên công tác xã hội đối với trẻ em
khuyết tật trí tuệ
Một là, tôn trọng trẻ em khuyết tật trí tuệ: Tôn trọng là thái độ không
phán xét, không xem thường, miệt thị hoặc quá chú tâm đến trẻ khuyết tật trí
tuệ. Nhân viên công tác xã hội chăm sóc trẻ khuyết tật trí tuệ đón nhận sự chia
sẻ, thấu hiểu nỗi đau khổ của trẻ em khuyết tật trí tuệ, quan tâm đến nhu cầu,
tâm tình của trẻ em khuyết tật trí tuệ. Với trẻ em khuyết tật trí tuệ họ rất nhạy
cảm với thái độ, cách cư xử của người khác. Do đó, việc giúp trẻ em khuyết
tật trí tuệ tự tin, thấy rõ giá trị bản thân, biết chấp nhận bản thân để khắc phục
là điều quan trọng.
Hai là, chấp nhận sự khác biệt: Giá trị này muốn chuyển tải đến nhân
viên công tác xã hội cần luôn tin tưởng vào sự khác biệt, duy nhất của mỗi cá

19


nhân trẻ em khuyết tật trí tuệ. Trẻ em khuyết tật trí tuệ có hoàn cảnh sống,
nhu cầu, cảm xúc, mong muốn, những ưu điểm và khuyết điểm khác biệt.
Những giá trị riêng này giúp cho nhân viên công tác xã hội phải suy nghĩ và

sáng tạo trong cách tiếp cận giúp đỡ từng trẻ em khuyết tật trí tuệ. Ngay cả
khi trẻ khuyết tật trí tuệ gặp những khó khăn như nhau thì cách giải quyết
giúp đỡ sẽ khác nhau do mỗi cá nhân có hoàn cảnh, tâm tư tình cảm, suy nghĩ,
nhận thức và những điểm mạnh khác nhau.
Ba là, tin tưởng vào khả năng giải quyết vấn đề vấn đề của trẻ em
khuyết tật trí tuệ: Trong công tác xã hội với trẻ em khuyết tật trí tuệ, nguyên
tắc tin vào tính tự quyết của đối tượng là nguyên tắc mà nhân viên công tác xã
hội luôn phải nhận thức và chú trọng trong quá trình làm việc. Nhân viên
công tác xã hội giúp đối tượng nhận ra những điểm mạnh của mình, phân tích
tìm ra các giải pháp khác nhau để đối tượng có thể tự mình quyết định giải
pháp giải quyết vấn đề của mình. Sự đồng hành của nhân viên công tác xã hội
bên cạnh họ là điều không thể thiếu. Trong quá trình thực hiện, cần có những
giới hạn nhất định mà nhân viên công tác xã hội cần cân nhắc và can thiệp trong
những trường hợp xét thấy quyết định của đối tượng có thể gây tổn hại cho thân
chủ hay người khác hoặc đối tượng không đủ khả năng đưa ra quyết định.
Bốn là, trung thực và chân thành với trẻ em khuyết tật trí tuệ: Đây là
nguyên tắc không thể thiếu của người nhân viên công tác xã hội. Việc trẻ em
khuyết tật trí tuệ hoặc người nhà trẻ em khuyết tật trí tuệ được nhận những
thông tin đầy đủ, trung thực giúp họ có thể lường hết được những khó khăn
cũng như những điều bất trắc xảy ra với họ, để họ tăng cường giải pháp đề
phòng. Nếu họ không được nhận những thông tin trung thực, khi họ gặp khó
khăn thì khó có thể thích nghi kịp, có thể xuất hiện sự bất an, thậm chí sợ hãi
khi khả năng “tự vệ” của mình hạn chế nhất định do các dạng tật gây ra.
Các kỹ năng cơ bản trong công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ

20


Một là, thái độ giao tiếp: Nhân viên công tác xã hội phải có thái độ tôn
trọng, chấp nhận, gần gũi, cởi mở, không e ngại… khi tiếp xúc và làm việc

đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ.
Hai là, các kỹ năng giao tiếp: (1) Kỹ năng lắng nghe tích cực: Lắng
nghe tích cực khi giao tiếp với trẻ em khuyết tật trí tuệ là sự tập trung chú ý
cao độ để nghe và hiểu họ. Lắng nghe trẻ không chỉ bằng tai, mà còn bằng
mắt và bằng tâm. (2) Kỹ năng thấu cảm: Thấu cảm với trẻ em khuyết tật trí
tuệ là đặt mình vào để hiểu chính xác cảm xúc; tâm trạng và suy nghĩ của trẻ.
thấu cảm với trẻ em khuyết tật trí tuệ biểu hiện ở sự chấp nhận quan điểm, suy
nghĩ của họ, cảm nhận chính xác những cảm xúc sâu lắng bên trong của họ,
không phán xét hay lên án, coi thường trẻ. lắng nghe những điều họ nói và
cảm nhận tâm trạng trẻ trải nghiệm. (3) Kỹ năng giao tiếp không lời: Có nhiều
kênh giao tiếp không cần đến lời nói cũng có thể giúp được con người trao
đổi cảm xúc, suy nghĩ chỉ qua nết mặt, cử chỉ, điệu bộ… Nhiều nghiên cứu
cho thấy con người sử dụng cử chỉ, thái độ, nét mặt để giao tiếp tới 70%. Giao
tiếp không lời đặc biệt có ý nghĩa đối với trẻ em khuyết tật trí tuệ bị khiếm
thính hay người bị câm. Do trẻ khiếm thính bi hạn chế khả năng giao tiếp
bằng lời cho nên trẻ sử dụng ngôn ngữ không lời làm công cụ chính trong
giao tiếp. Các ký năng giao tiếp không lời bao gồm: Âm giọng, phong thái, cử
chỉ điệu bộ, cách ăn mặc, cách bắt tay, tư thế, khoảng cách ngồi hay đứng
trong khi giao tiếp, nêt mặt, câu đùa và tiếng cười. (4) Kỹ năng giao tiếp bằng
lời: Hỏi chuyện: Sự giao tiếp thường bắt đầu từ những câu hỏi mang nhiều ý
nghĩa khi giao tiếp, Hỏi để làm quen, Hỏi để tìm hiểu thông tin về đối tượng.
Hỏi để tìm kiếm giải pháp. Ban đầu hỏi thường hướng tới mục đích để làm
quen do vậy hỏi có thê hướng tới tên, tới tuổi, tới gia đình trẻ. Phản hồi: Là
sự diễn đạt lại một cách ngắn gọn những điều đối tượng trình bày, phản ánh
lại những cảm xúc trẻ đang trải nghiệm nhằm kiểm tra thông tin và thể hiện

21



×