Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tổng quan di chuyển nguồn nhân lực ở nước Việt Nam sang các nước ASEAN để phát triển khả năng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.53 KB, 21 trang )

Mã lớp:

ĐH14NL1

Số báo danh:

374

Số báo
danh:1453404041377

Họ và tên: Nguyễn Bùi Anh Thư

NGUỒN NHÂN LỰC
GVBM: LÊ THỊ CẨM TRANG

ĐỀ TÀI: DI CHUYỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM SANG CÁC NƯỚC
ASEAN
Tiểu luận

Cuối kì

Tiểu luận này được hoàn thành vào ngày 19/06/2016

TP.HỒ CHÍ MINH, THÁNG 6 NĂM 2016

Giữa kì


MỤC LỤC
Lời mở đầu


Nội dung
Chương 1. Tổng quan di chuyển nguồn nhân lực ở Việt Nam sang các nước
ASEAN
1.1 Các khái niệm và thực trạng di chuyển nguồn nhân lực ở Việt Nam sang các nước
ASEAN
1.1.1 Các khái niệm
1.1.2 Thực trạng di chuyển nguồn nhân lực ở Việt Nam sang các nước ASEAN
1.1.2.1 Chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam
1.1.2.2 Số lượng nguồn lao động chất lượng cao ở Việt Nam
1.1.2.3 Di chuyển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam sang các nước thành
viên
1.1.2.3.1 Mục đích di chuyển lao động có kỹ năng
1.1.2.3.2 Đánh giá tương quan trình độ lao động Việt Nam với một số nước thành viên
1.2. Đánh giá
1.2.1 Điểm mạnh
1.2.2 Điểm yếu
1.2.3 Cơ hội
1.2.4 Thách thức
Chương 2: Định hướng và giải pháp đối với di chuyển nguồn nhân lực chất lượng
cao của Việt Nam
2.1. Định hướng di chuyển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam
2.1.1. Định hướng


2.1.2. Dự báo thay đổi việc làm tại Việt Nam tầm nhìn 2025
2.1.3 Giải pháp thúc đẩy di chuyển lao động có kỹ năng của Việt Nam trong AEC
2.1.3.1 Giải pháp từ phía chính phủ
2.1.3.2 Giải pháp dành cho người lao động
Kết luận
Tài liệu tham khảo



LỜI MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Nhân lực là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Trình độ
phát triển của nguồn nhân lực là một thước đo chủ yếu sự phát triển của các quốc gia.
Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng phát triển nguồn nhân lực. Trong
thế kỉ XX, đã có những quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, nhưng do phát huy tốt
nguồn nhân lực nên đã đạt được thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, hoàn thành công
nghiệp hoá và hiện đại hoá chỉ trong vài ba thập kỉ.
Khi gia nhập vào ASEAN thì có nhiều thuận lợi cho Việt Nam trong việc hòa
nhập vào cộng đồng khu vực, vào thị trường các nước Đông Nam Á tạo cơ hội hợp tác
với các nước lớn và các tổ chức khu vực trên thế giới như WTO, APEC... Không
những thế còn giúp Việt Nam nâng cao vị thế trên thế giới, mở rộng giao lưu về văn
hóa với các nước trong khu vực, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút lao động cao
trình độ cao của các nước khác, tiếp cận công nghệ tiên tiến trên thế giới… Năm 2015,
cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) được thành lập và đi vào hoạt động. Cộng đồng
AEC nhằm mục tiêu tạo ra một thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống
nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động
qua đào tạo, từ đó nâng cao tính cạnh tranh, thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả khu
vực. Cộng đồng AEC gồm 10 nước thành viên với hơn 620 triệu người, trong đó có
300 triệu người tham gia lực lượng lao động. Ba quốc gia có số lao động chiếm tỷ
trọng lớn là: In-đô-nê-xi-a (40%), Phi-li-pin (16%) và Việt Nam (15%). Theo dự báo
của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khi tham gia vào thị trường ASEAN, số việc làm
của Việt Nam đến năm 2025 có thể tăng lên 14,5%. Điều này có nghĩa, Việt Nam đang
có hơn 53 triệu lao động và sẽ có thêm 14,5 triệu lao động khác tìm được việc làm vào
năm 2025.
Khi AEC sẽ được hiện thực hóa, hàng hóa-dịch vụ, hoạt động đầu tư, vốn và lao
động có kĩ năng sẽ được tự do di chuyển giữa các nước thành viên. Di chuyển tự nhiên

nhân lực trong ASEAN và thỏa thuận công nhận lẫn nhau về chứng chỉ lành nghề của


cơ quan chính thức như: Dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ điều dưỡng, dịch vụ kiến trúc,
chứng chỉ giám sát, nhân lực nghề y, nha khoa, kế toán, du lịch. Theo cơ chế này, bên
cạnh dòng hàng hóa, dịch vụ, vốn đầu tư, vốn, nguồn lao động di chuyển tự do giữa
các nước ASEAN là nguồn lao động có kỹ năng. Đây là vấn đề được các quốc gia
thành viên quan tâm do các nước đang trong thời kì dồi dào lao động. Một thị trường
lao động nói chung và một phân khúc thị trường lao động có trình độ cao, lao động có
kỹ năng sẽ nhanh chóng được hình thành trong AEC. Việt Nam là một thành viên của
ASEAN cho nên việc lao động di chuyển giữa các nước thành viên trong đó có Việt
Nam là tất yếu và cũng là
cơ hội để quá trình hội nhập và cạnh tranh trên phân khúc thị trường lao động có kỹ
năng. Cạnh tranh trên thị trường lao động sẽ trở nên gay gắt và sự tham gia của lao
động nước ngoài trên thị trường lao động Việt Nam cũng tất yếu.
Xuất phát từ những thực tiễn trên nên tôi đã chọn đề tài: “Di chuyển nguồn
nhân lực ở Việt Nam sang các nước ASEAN”

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu: làm rõ vấn đề di chuyển nguồn nhân lực của Việt Nam sang
các nước ASEAN, phân tích và đánh giá chất lượng nguồn nhân lực di chuyển để đề ra
các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nước ta nhằm giúp nguồn nhân
lực nước ta có thể cạnh tranh với các nước thành viên ASEAN.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao muốn di chuyển sang các
nước thành viên ở Việt Nam
Phân tích chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam khi di chuyển
sang các nước ASEAN
Đưa ra được số lượng nhân lực ở Việt Nam di chuyển sang các nước thành
viên

Đề xuất các giải pháp trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: nguồn nhân lực chất lượng cao
Phạm vi: Không gian: Việt Nam


Thời gian :2014 đến nay

NỘI DUNG
Chương 1. Tổng quan di chuyển nguồn nhân lực ở Việt Nam sang các nước
ASEAN

1.1 Các khái niệm và thực trạng di chuyển nguồn nhân lực ở Việt Nam sang các
nước ASEAN
1.1.1 Các khái niệm
Nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Con người
với tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ
bản và là nguồn lực vô tận của sự phất triển không chỉ để xem xét đơn thuần ở góc độ
số lượng và chất lượng ; không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà là các
thế hệ con người với những tiềm năng sức mạnh trong cải tạo tự nhiên , cải tạo xã hội.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận nhân lực có sức khỏe đáp
ứng đúng yêu cầu , được đào tạo dài hạn , có chuyên môn kỹ thuật cao , có phẩm chất
đạo đức tiêu biểu , có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi của công nghệ ,
biết vận dụng sáng tạo những tri thức những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình
vận động lao động sản xuất đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội một cách hiệu
quả nhất.
Di chuyển nguồn nhân lực là con người di chuyển nơi này sang nơi khác
nhằm tận dụng lợi thế về điều kiện khí hậu, nguồn tài nguyên thiên nhiên để có được
nguồn thu nhập cao hơn, có nhiều việc làm hơn.
1.1.2 Thực trạng di chuyển nguồn nhân lực ở Việt Nam sang các nước

ASEAN
Việt Nam đang ở thời kì “dân số vàng” với số người trong độ tuổi lao động
vào khoảng 65 triệu người chiếm 70% tổng dân số. Nguồn nhân lực dồi đao này là lợi
thế của quốc gia, là cơ hội tốt cho phân công lao động vào các ngành trong nền kinh
tế, giảm gánh nặng phụ thuộc, tăng tiết kiệm, thúc đẩy đầu tư, kích thích sản xuất, tiêu
dùng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.


Khi tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Việt Nam có những lợi thế nhất
định, nhưng đồng thời có những hạn chế, những thách thức không nhỏ. Lợi thế lớn
nhất của Việt Nam là có lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. hầu hết
các lao động di chuyển trong phạm vi ASEAN là lao động trình độ kỹ năng thấp hoặc
không có kỹ năng. Kết quả khảo sát các chủ sử dụng lao động tại 10 quốc gia ASEAN
do ILO thực hiện cho thấy, doanh nghiệp trong khối ASEAN hiện đang rất lo ngại về
tình hình thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề và kỹ năng trước sự ra đời của
Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015; gần 50% chủ sử dụng lao động trong khối
ASEAN trong cuộc khảo sát cho biết, người lao động tốt nghiệp phổ thông không có
được kỹ năng họ cần; cử nhân tốt nghiệp đại học có được những kỹ năng có ích nhưng
cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp (cả về số lượng và chất lượng)...
1.1.2.1 Chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam
Biểu đồ 1.1 Cơ cấu trình độ nguồn nhân lực Việt

Bên cạnh chất lượng nguồn nhân lực thấp, cơ cấu trình độ nhân lực lao động của
Việt Nam cũng đang thể hiện sự bất cập, khi tỷ lệ lao động gián tiếp (tốt nghiệp đại
học trở lên) lại cao hơn nhiều so với những người lao động trực tiếp (trình độ sơ cấp,
trung cấp). Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Tổng cục
Thống kê, cơ cấu trình độ nhân lực lao động Việt Nam năm 2015: tỷ lệ tốt nghiệp đại
học trở lên chiếm 41,51%; cao đẳng là 14,99%; trung cấp là 27,11% và sơ cấp 16,39%.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp là nguyên nhân quan trọng dẫn đến năng suất lao động
của Việt Nam nằm trong nhóm thấp của khu vực châu Á - Thái Bình Dương và

ASEAN. Các chuyên gia cho rằng, năng suất lao động thấp, thiếu lao động tay nghề,
trình độ ngoại ngữ và các kỹ năng mềm khác đang khiến lao động của Việt Nam yếu
thế trong cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường lao động khi hội nhập AEC…
Trong tổng số 49,2 triệu người trong độ tuổi lao động, chỉ có 7,3 triệu người đã
được đào tạo, chiếm 14,9% lực lượng lao động. Trong số những người đang theo học ở


các trường chuyên nghiệp trên toàn quốc thì tỷ lệ người đang theo học trình độ sơ cấp
là 1,7%, trung cấp 20,5, cao đẳng 24,5% và Đại học trở lên là 53,3%. Tỷ trọng lao
động đã qua đào tạo ở nước ta rất thấp, cụ thể là 86,7% dân số trong độ tuổi lao động
chưa được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật, đáng chú ý hơn là khu vực nông thôn, nơi
phần lớn người lao động có nguyện vọng đi làm việc ở nước ngoài thì tỷ lệ lao động
chưa được đào tạo chiếm 92%. Như vậy, đội ngũ lao động của ta trẻ và dồi dào nhưng
chưa được trang bị chuyên môn, kỹ thuật. Hiện cả nước có hơn 41,8 triệu lao động,
chiếm 85,1% lực lượng lao động chưa được đào tạo để đạt một trình độ chuyên môn,
kỹ thuật nào đó.
1.1.2.2 Số lượng nguồn lao động chất lượng cao ở Việt Nam
Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới. Hiện nay, nước ta có trên 49,2 triệu người trong độ tuổi lao động
trên tổng số 85,79 triệu người (chiếm 57,3%), đứng thứ 3 ở Đông Nam Á (sau In-đônê-xi-a và Phi-líp-pin) và đứng thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số. Số người trong
độ tuổi từ 20 đến 39 khoảng 30 triệu người, chiếm 35% tổng dân số và chiếm 61% lực
lượng lao động, đây là lực lượng có thể tham gia xuất khẩu lao động. Sức trẻ là đặc
điểm nổi trội, là tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam, là yếu tố rất thuận cho việc
tuyển chọn lao đông đi làm việc ở nước ngoài.
Báo cáo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB) năm 2014 cho thấy, Việt Nam đang rất
thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Phần lớn người sử
dụng lao động cho biết, tuyển dụng lao động là công việc khó khăn vì các ứng viên
không có kỹ năng phù hợp, hoặc khan hiếm lao động trong một số ngành nghề cụ thể.
Về chất lượng nguồn nhân lực, tính theo thang điểm 10, Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm,
xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng của WB; trong khi Hàn Quốc đạt 6,91

điểm, Ấn Độ là 5,76 điểm, Ma-lai-xi-a là 5,59 điểm, Thái-lan là 4,94 điểm… Nguồn
nhân lực ở nước ta đang có rất nhiều bất cập: số lượng đào tạo ở trình độ đại học trở
lên trong những năm gần đây gia tăng đáng kể, nhưng chất lượng lao động của đối
tượng này phần lớn chưa đạt các tiêu chí về nguồn nhân lực chất lượng cao như đã đề
cập ở trên. Do vậy, khi họ ra làm việc, nhiều người không đáp ứng yêu cầu.


1.1.2.3 Di chuyển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam sang các nước thành
viên
1.1.2.3.1 Mục đích di chuyển lao động có kỹ năng
Di chuyển lao động có kỹ năng trong AEC đem lại rất nhiều lợi ích cho các
quốc gia thành viên trong đó có cả Việt Nam.
Di chuyển tự do lao động có kỹ năng thuận tiện cho các nước thu hút các
nguồn đầu tư nước ngoài trong ASEAN, bằng việc cho phép các doanh nhân và
chuyên gia tới làm việc tại các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc có thể
đưa các nhân lực chất lượng cao tới quản lý và điều hành doanh nghiệp góp phần làm
tăng hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp, điều đó giúp các quốc gia hấp dẫn được
nhiều nguồn đầu tư cả trong và ngoài khối.
Tự do di chuyển lao động có kỹ năng sẽ bù đắp sự thiếu hụt kỹ năng trong
ngắn hạn ở - Brunei, Cambodia, Laos, Malaysia, Singapore, Vietnam. Sự thiếu nhân
lực về y tế, điều dưỡng, kiểm toán và công nghệ thông tin ở Brunei; kĩ sư, công nghệ
thông tin, thống kê ở Cambodia; Y tế, nha khoa, kiểm toán và công nghệ thông tin ở
Indonesia; y tế và nha khoa ở Lào; Y tế, nha khoa và công nghệ thông tin ở Malaysia;
lao động kĩ thuật và khoa học gia ở Philippines; và các kĩ năng chuyên gia phổ biến ở
Singapore và Việt Nam.
Di chuyển lao động có kỹ năng còn thuận tiện cho quá trình công nghiệp hóa,
tái cấu trúc ở Việt Nam.
Hiện nay, sự phát triển của các dịch vụ sức khỏe và giáo dục vượt qua biên
giới các quốc gia, việc sử dụng các chuyên gia nước ngoài trình độ cao là xu hướng tất
yếu, mở rộng sự hợp tác của các ngành dịch vụ giữa các quốc gia. Sự công nhận và

thừa nhận chứng chỉ chuyên môn trong nước là chính sách mang yếu tố quyết định đến
việc di chuyển của các chuyên gia nước ngoài vào các lĩnh vực này. Trong lĩnh vực
giáo dục, Malaysia và Singapore đã thực hiện chính sách thu hút học viên nước ngoài,
đào tạo và giữ những người có năng lực ở lại làm việc. Trong khi đó, ở lĩnh vực chăm
sóc sức khỏe, một số nước mở cửa hơn, chấp nhận lực lượng bác sĩ và điều dưỡng từ


nước ngoài để cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân cũng như đưa quốc
gia trở thành một trung tâm y tế chất lượng cao trên thị trường quốc tế.
1.1.2.3.2 Đánh giá tương quan trình độ lao động Việt Nam với một số nước
thành viên
Hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN giúp thị trường lao động trong
ASEAN sôi động hơn, thúc đẩy tạo việc làm cho từng quốc gia thành viên. Cũng theo
dự báo của ILO, khi tham gia AEC, số việc làm của Việt Nam sẽ tăng lên 14,5% vào
năm 2025.
Khi tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Việt Nam có những lợi thế nhất
định, nhưng đồng thời có những hạn chế, những thách thức không nhỏ. Lợi thế lớn
nhất của Việt Nam là có lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. Theo số
liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến giữa năm 2014, quy mô lực lượng lao động từ 15
tuổi trở lên ở Việt Nam là 53,8 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là
47,52 triệu người.
Tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 47,1%; khu vực công
từng bước được nâng lên; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 30% lên 40% trong vòng
10 năm trở lại đây (theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), trong đó
lao động qua đào tạo nghề đạt 30%. Lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được
yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Lực lượng lao động kỹ thuật của
Việt Nam đã làm chủ được khoa học - công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí
công việc phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải thuê chuyên gia nước
ngoài.
Về mặt kỹ năng, hầu hết các nước ASEAN kể cả Việt Nam đều có tỷ lệ biết

chữ cao trong dân số thuộc độ tuổi lao động. Tuy nhiên, tỷ lệ tuyển sinh vào các
chương trình giáo dục đào tạo kỹ thuật nghề vẫn chưa đủ trong khi giáo dục đại học
tăng đang là một thách thức. Việt Nam là nước có các chỉ số phát triển giáo dục và kỹ

năng khá cao, tỉ lệ người biết chữ trên 15 tuổi là 93,4%, đứng thứ 4 trong khu vực, tỉ
lệ đào tạo đại học là 24,6% đứng thứ 5 trong khu vực. Tuy vậy năng suất lao động lại
chỉ đứng thứ 7/10 nước, chứng tỏ chất lượng đào tạo lao động chất lượng cao còn quá


kém, chưa phản ánh đúng thực tế. Ngân hàng Thế giới đánh giá Việt Nam đang thiếu
lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Theo năng suất lao động,
Lào, Campuchia, Việt Nam được xếp thuộc nhóm thấp ở châu Á – Thái Bình Dương
nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn
Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và thấp hơn Hàn Quốc 10 lần. Năng
suất lao động của Việt Nam bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan.
Một số chỉ số thị trường lao động ASEAN

Quốc gia

Tỉ lệ
tham gia
đào tạo kĩ
Lực lượng Tỉ lệ biết
thuật
Tỉ lệ đào
lao động chữ trên
nghề trên
tạo đại
(nghìn
15 tuổi

tổng số
học (%)
người)
(%)
học sinh
trung
học(%)

Lương
trung
bình
hàng
tháng
(USD)

Năng suất
lao động
(Giá USD
cố định
năm
2005)

Brunei

186

95.4

11.4


24.3



100015

Campuchia

7400

73.9

2.3

15.8

121

3989

Indonesia

118193

92.8

18.0

27.2


174

9848

Lào

3080

72.7

0.8

16.7



5396

Malaysia

13785

93.1

6.8

36.0

609


35751

Myanmar

30121

92.7



13.8



2828

Philippines

41022

95.4



28.2

206

10026


Singapore

3444

95.9

11.6



3547

98072

Thái Lan

39398

93.5

15.4

51.4

357

14754

Việt Nam


53246

93.4



24.6

181

5440

Việt Nam còn thiếu nhiều lao động lành nghề, nhân lực qua đào tạo chưa đáp
ứng được nhu cầu của trị trường lao động và doanh nghiệp về tay nghề và các kỹ năng
mềm khác. Trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam chưa cao nên gặp nhiều khó


khăn trong quá trình hội nhập. Những hạn chế, yếu kém của nguồn nhân lực là một
trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy
nhiên, do xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, do vậy, tỷ lệ
lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức còn thấp, đạt khoảng 30%. Chất
lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển và hội nhập.
Khoảng 45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu như chưa qua đào tạo. Chất
lượng nguồn nhân lực nước ta còn thấp, là một trong những “điểm nghẽn” cản trở sự
phát triển.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo, có chuyên môn kĩ thuật thấp, bên cạnh đó, người
lao động dù đã qua đào tạo vẫn không đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng, khả
năng làm việc độc lập, xử lí tình huống còn hạn chế, chưa thích ứng được với những
thay đổi công nghệ.
Tỉ lệ lao động chưa có chuyên môn kĩ thuật chiếm tới 54,4% năm 2012, tỷ lệ

lao động trung học chuyên nghiệp trở lên chỉ chiếm 12,1%. Tuy nhiên tốc độ tăng lao
động có chuyên môn kĩ thuật trong giai đoạn 10 năm trở lại đây từ 2002-2012 tăng
nhanh, đạt 8,1%/năm. Đây là dấu hiệu tích cực cho lao động Việt Nam để đón nhận cơ
hội việc làm đa dạng, phong phú khi AEC được thành lập
Nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực thấp là do công
tác đào tạo hiện nay chưa phù hợp, chất lượng đào tạo còn hạn chế, chưa thực sự đáp
ứng yêu cầu sử dụng nhân lực và nhu cầu của người học, chưa theo kịp sự chuyển biến
của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, chưa
giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa dạy chữ với dạy người,
dạy nghề.
Mặt khác, hệ thống thông tin của thị trường lao động Việt Nam hiện nay còn
nhiều yếu kém và hạn chế, như bị chia cắt giữa các vùng, miền; khả năng bao quát, thu
thập và cung ứng thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu các đối tác trên thị trường lao
động, đặc biệt là người chủ sử dụng lao động và người lao động. Hệ thống chỉ tiêu về
thị trường lao động tuy đã ban hành nhưng chưa hoàn thiện, chưa đầy đủ, thiếu thống
nhất và khó so sánh quốc tế. Do vậy, chưa đánh giá được hiện trạng của cung - cầu lao
động, các “nút thắt” về nhu cầu nguồn nhân lực trong nước. Ngoài ra, còn thiếu mô


hình dự báo thị trường lao động tin cậy và nhất quán, thiếu đội ngũ cán bộ, chuyên gia
làm công tác thống kê, phân tích, dự báo.
1.2. Đánh giá
1.2.1 Điểm mạnh:
Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động “trẻ”. Theo số
liệu của Tổng cục thống kê, tính đến giữa năm 2014, quy mô lực lượng lao động từ 15
tuổi trở lên ở Việt Nam là 53,8 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là
47,52 triệu người. Trong số lực lượng lao động, trên 51,0% có độ tuổi từ 15-39 tuổi,
trong đó nhóm tuổi trẻ (15-29 tuổi) chiếm đến 26,7% và nhóm tuổi thanh niên (15-24
tuổi) chiếm gần 15%. Đây là nhóm tuổi có tiềm năng tiếp thu được những tri thức mới,
kỹ năng mới để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động của Việt

Nam.
Chất lượng lao động cũng đã từng bước được nâng lên; tỷ lệ lao động qua
đào tạo tăng từ 30% lên 38% trong vòng 10 năm trở lại đây( theo cách tiếp cận và cách
tính của Bộ lao động- Thương binh và Xã hội). Lao động qua đào tạo đã phần nào đáp
ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Lực lượng lao động kỹ
thuật của Việt nam đã làm chủ được khoa học- công nghệ, đảm nhận được hầu hết các
vị trí công việc phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải thuê chuyên gia
nước ngoài.
1.2.2 Điểm yếu:
Do xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, do
vậy, tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức còn thấp, đạt khoảng
30%.
Chất lượng và cơ cấu lao động, vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát
triển và hội nhập. Khoảng 45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu hết chưa qua
đào tạo. Chất lượng nguồn nhân lực nước ta đang rất thấp, là một trong những “điểm
nghẽn” cản trở sự phát triển.
Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp và còn khoảng cách khá
lớn so với các nước phát triển trong khu vực. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới,


Việt nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao.
Chất lượng nguồn nhân lực Việt nam thấp so với các nước khác. Nếu lấy thang điểm là
10 thì chất lượng nhân lực của Việt nam chỉ đạt 3,79 điểm - xếp thứ 11/12 nước Châu
Á tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới; trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là
5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94... Chất lượng của lao động Việt nam thấp, nên
năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp ở Châu Á – Thái Bình Dương,
trong đó, thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và Hàn Quốc 10
lần. Năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan.
1.2.3 Cơ hội
Trong năm 2015 và các năm tiếp theo Việt Nam sẽ hội nhập sâu hơn với thế

giới. Cùng với việc tham gia AEC, Việt Nam sẽ kỹ các Hiệp định như Hiệp định
Thương mại Tự do Việt Nam - EU và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP). Điều này được kỳ vọng sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư từ bên ngoài hơn nhờ
sự sẵn có của một khối nguồn lực toàn diện hơn, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh
của Việt Nam.
Sự ra đời của AEC trong năm 2015 sẽ tạo ra tăng trưởng việc làm thêm
10,5% vào năm 2025. Khi ra đời, AEC có quy mô GDP 2.200 tỷ USD; thu nhập bình
quân đầu người 3.100 USD/năm, nhưng chênh lệch rất lớn, từ 1.000 USD/người
(Campuchia, Myanmar) đến 40.000 USD/người (Singapore). Chênh lệch quá lớn về
thu nhập có thể là một trong những nguyên nhân thúc đẩy di chuyển lao động có kĩ
năng sang các nước thành viên.
Theo dự báo của ILO, ở Việt Nam sự gia tăng cơ hội việc làm mạnh mẽ ở
những ngành như sản xuất gạo, xây dựng, vận tải, dệt may và chế biến lương thực.
Trong giai đoạn 2010 - 2025, nhu cầu đối với việc làm cần tay nghề trung bình nói
chung sẽ tăng nhanh nhất, ở mức 28%, lao động có trình độ kỹ năng thấp là 23% và
lao động có kỹ năng cao sẽ tăng 13% và sẽ có thêm nhiều cơ hội cải thiện cuộc sống
của hàng triệu người.
Trong bối cảnh một thị trường chung, người lao động Việt nam không những
có nhiều cơ hội nghề nghiệp trong nước mà còn mở rộng ra các thị trường khu vực.
Người lao động có cơ hội tương tác và nâng cao kinh nghiệm, kỹ năng chuyên ngành ở


các nước tiên tiến trong khu vực. Người lao động Việt nam sẽ được “cọ sát” khi làm
việc ở nhiều nơi, làm tăng tính linh hoạt, khả năng thích ứng với môi trường làm việc
đa văn hóa- vốn dĩ là một điểm chưa mạnh của Việt Nam sẽ được nâng cao và cải
thiện đáng kể.
1.2.4. Thách thức
Gia nhập AEC và các tổ chức thế giới khác sẽ cho phép Việt Nam cạnh tranh
được trên thị trường toàn cầu trên cơ sở tăng năng suất và kỹ năng của người lao động.
Tuy nhiên, các lợi ích về kinh tế và việc làm từ AEC sẽ không được phân chia đồng

đều. Nếu quản lý không tốt, Việt nam sẽ bỏ lỡ cơ hội mà AEC sẽ tạo ra. Khi chính thức
thành lập, AEC sẽ thực hiện tự do luân chuyển năm yếu tố căn bản: vốn , hàng hóa,
dịch vụ, đầu tư và lao động lành nghề. Các chuyên gia cho rằng, sự “tự do” này vừa
là cơ hội cho thị trường lao động Việt Nam, đồng thời cũng là thách thức không nhỏ
khi một lượng lớn lao động từ các nước AEC vào Việt Nam sẽ tạo nên cuộc cạnh tranh
với lao động trong nước. Ngoài ra, khi tham gia AEC, ngoài việc có kỹ năng nghề
nghiệp giỏi, người lao động còn cần có ngoại ngữ và các kỹ năng mềm khác để có cơ
hội tham gia làm việc tại các quốc gia của AEC. Nếu người lao động Việt nam không ý
thức được điều này thì sẽ thua ngay trên “sân nhà” bởi chúng ta khó cạnh tranh về
trình độ tay nghề, chuyên môn với nhiều quốc gia trong AEC. Để thích ứng với hoàn
cảnh mới, người lao động phải hỏi hỏi, cập nhật kỹ năng mới.
Gần 50% lực lượng lao động Việt Nam vẫn làm việc trong lĩnh vực nông
nghiệp, với năng suất và thu nhập thấp. Khoảng 3/5 lao động Việt Nam hiện đang làm
các công việc dễ bị tổn thương. Nhìn chung, năng suất và mức tiền lương của Việt
Nam khá thấp so với các nền kinh tế ASEAN khác, như Malaysia, Singapore và Thái
Lan.
Nguồn nhân lực có chất lượng thấp và năng lực cạnh tranh chưa cao có nhiều
nguyên nhân, trong đó chủ yếu là công tác đào tạo hiện nay chưa phù hợp, chất lượng
đào tạo còn hạn chế. Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) đã thẳng thắn chỉ ra: “Chất
lượng giáo dục nhìn chung thấp, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp,
chưa thực sự đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân lực và nhu cầu của người học, chưa theo
kịp sự chuyển biến của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội


nhập quốc tế, là một trong những nguyên nhân làm hạn chế chất lượng nguồn nhân lực
của đất nước…. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa
dạy chữ với dạy người, dạy nghề,…” .
Mặt khác, hệ thống thông tin của thị trường lao động còn nhiều yếu kém và hạn
chế. Trong đó, hệ thống bị chia cắt giữa các vùng, miền; khả năng bao quát, thu thập
và cung ứng thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu các đối tác trên thị trường lao động,

đặc biệt là người chủ sử dụng lao động và người lao động. Hệ thống chỉ tiêu về thị
trường lao động tuy đã ban hành nhưng chưa hoàn thiện, đầy đủ, thiếu thống nhất và
khó so sánh quốc tế. Do vậy, chưa đánh giá được hiện trạng của cung – cầu lao động,
các “nút thắt” về nhu cầu nguồn nhân lực trong nước.

Chương 2: Định hướng và giải pháp đối với di chuyển nguồn nhân lực chất
lượng cao của Việt Nam
2.1. Định hướng di chuyển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam
2.1.1. Định hướng
Mục tiêu của Cộng đồng Kinh tế ASEAN đến năm 2015 là tạo ra một thị
trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, có sự lưu chuyển tự do của hàng
hóa, dịch vụ đầu tư, vốn và lao động có tay nghề; từ đó nâng cao sức cạnh tranh và
thúc đẩy thịnh vượng chung cho cả khu vực, tạo sự hấp dẫn đầu tư-kinh doanh từ bên
ngoài.
Một thị trường lao động tự do trong ASEAN sẽ giúp Việt Nam thu hút
được nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là nguồn vốn từ các nước ASEAN
và nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng suất lao động của Việt Nam. Nguồn
nhân lực tốt và vốn đầu tư từ nước ngoài sẽ là động lực phát triển kinh tế Việt Nam,
đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng
phát triển mạnh mẽ hơn.
Từ những lợi ích có được từ thị trường tự do hóa về lao động, Việt Nam
đang khẩn trương thực hiện những chính sách, biện pháp hỗ trợ người lao động Việt
Nam bước ra thị trường lao động quốc tế, tìm kiếm được nhiều cơ hội phát triển nghề


nghiệp, hưởng mức lương xứng đáng với năng suất lao động và có cuộc sống chất
lượng tốt hơn. Mặt khác, AEC cũng tạo ra không ít khó khăn cho lao động Việt Nam
khi phải cạnh tranh với lao động có kỹ năng từ các nước khác. Sự thiếu hụt các kĩ năng
của lao động cần được cải thiện bằng các biện pháp cải cách về giáo dục, trang bị cho
người lao động hành trang tốt nhất để có thể cạnh tranh được với lao động nước ngoài.

Bên cạnh đó, hiện tượng chảy máu chất xám tất yếu sẽ diễn ra tại Việt Nam khi sự
chênh lệch về tiền lương và chế độ ưu đãi dành cho lao động của Việt Nam còn quá
chênh lệch với các nước phát triển khác trong khu vực. Vì vậy, Việt Nam không chỉ
tạo điều kiện đưa lao động ra nước ngoài làm việc mà còn cần phải có các chính sách
thu hút nhân tài từ các nước khác, tạo điều kiện nâng cao năng suất làm việc.
2.1.2. Dự báo thay đổi việc làm tại Việt Nam tầm nhìn 2025
Tự do di chuyển lao động trong ASEAN sẽ đem lại nhiều lợi ích tích cực
cho Việt Nam như sự tăng lên về số việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động trong các
ngành nghề, nâng cao năng suất lao động hay nhu cầu lao động theo kỹ năng khác
nhau.
Tự do di chuyển lao động sẽ tác động đáng kể đến sự chuyển dịch cơ cấu
lao động, cơ cấu nền kinh tế Việt Nam. Tỷ lệ việc làm công nghiệp tiếp tục tăng theo
kịch bản cơ sở - 7,8 điểm phần trăm tại Việt Nam. Các chính sách thương mại của
AEC cũng sẽ làm tăng tỷ trọng việc làm trong thương mại và vận chuyển ở mức 2,0
điểm phần trăm trong năm 2025, trong khi tỷ trọng việc làm của dịch vụ tư sẽ giảm 1,0
điểm phần trăm. Trong tương lai, sẽ không chỉ có 8 ngành dịch vụ được di chuyển tự
do lao động như dự kiến vào năm 2016, sau khi AEC thành lập mà còn có rất nhiều
ngành kinh tế cũng có sự dịch chuyển về lao động. Chính vì vậy, dựa trên những dự
báo của Tổ chức lao động quốc tế, Việt Nam sẽ đưa ra các định hướng nghề nghiệp
phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế và nhu cầu lao động trong tương lai.

2.1.3 Giải pháp thúc đẩy di chuyển lao động có kỹ năng của Việt Nam
trong AEC
2.1.3.1 Giải pháp từ phía chính phủ


Nâng cao năng lực cạnh tranh cho lao động có kĩ năng của Việt Nam là
chiến lược quan trọng và lâu dài, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao,
tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
Trong xu thế toàn cầu hóa, các biện pháp và định hướng giúp cho lao động có kĩ năng

ở Việt Nam có thể cạnh tranh được với các lao động ở các quốc gia khác là một vấn đề
quan trọng không chỉ của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới nói chung mà còn là
với các quốc gia ASEAN nói riêng.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, đặc biệt là tiến tới thành lập Cộng đồng
kinh tế ASEAN (AEC), việc nâng cao năng lực cạnh tranh của lao động Việt Nam,
nhất là lao động có kỹ năng là một vấn đề bức thiết cần được đặt ra. AEC sẽ đem lại
cho Việt Nam những cơ hội lớn để phát triển và đạt tới sự thịnh vượng, cũng như cơ
hội chuyển dịch sang một nền kinh tế có năng suất cao dựa trên kỹ năng và sự đổi mới.
Song làm thế nào để biến những thách thức đó trở thành cơ hội, mang lại cho người
lao động Việt Nam cơ hội làm việc với thu nhập cao
Thứ nhất, cần đẩy mạnh giáo dục và đào tạo chất lượng tốt cho nguồn nhân
lực. Cải cách giáo dục là bước căn bản để có thể cải thiện chất lượng lao động Việt
Nam hiện nay. Các chương trình học nặng lí thuyết, thiếu thực tế, giáo dục học sinh
theo khuôn mẫu, kìm hãm sự sáng tạo, phát triển tư duy, đào tạo đại học tràn lan lấn át
đào tạo nghề đã khiến cho lao động của Việt Nam có kĩ năng rất kém so với lao động
trong khu vực. Vì vậy cần cải cách giáo dục, thay đổi chương trình học để bồi đắp các
kỹ năng về nhận thức, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng làm việc, tăng cường sự linh
hoạt và phù hợp với giáo dục dạy nghề. Đối với giáo viên cần được quan tâm, cải thiện
chế độ lương thưởng đồng thời kiểm soát chặt chẽ chất lượng giảng dạy của giáo viên.
Định hướng việc dạy và học gắn với thực tế, sử dụng ngôn ngữ quốc tế là tiếng anh để
cải thiện trình độ ngoại ngữ của lao động. Các chương trình học có thể xây dựng dựa
trên các chương trình chuẩn quốc tế, nâng cao khả năng cho lao động đáp ứng yêu cầu
của các doanh nghiệp nước ngoài.
Thứ hai, các chính sách dài hạn về phát triển nhân lực và phát triển kinh tế phải
song hành, quy hoạch phù hợp với nhau. Chính sách là do các bộ ban ngành đề xuất
với Quốc hội đặt ra, vì vậy giữa các cơ quan như Bộ Lao động, Bộ Kế hoạch, Tổng
cục Thống kê, Bộ giáo dục và các nhà tuyển dụng, doanh nghiệp cần phối hợp với


nhau để đưa ra các tiêu chí phù hợp trong đào tạo nhân lực trong từng lĩnh vực cụ thể.

Những mục tiêu phát triển Kinh tế của Việt Nam đã được đặt ra với tầm nhìn 2020 như
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển một
cách bền vững thì cần có lao động có đủ năng lực để áp dụng các công nghệ tiên tiến,
nghiên cứu và phát triển công nghệ mới. Nhân lực chính là sức mạnh chính yếu nhất
của phát triển Kinh tế.
Thứ ba, xây dựng chương trình đào tạo theo khung trình độ quốc gia, đặc biệt
là khung trình độ ASEAN nhằm cải thiện sự chênh lệch trong chất lượng đầu ra tại các
cơ sở giáo dục, đào tạo tại Việt Nam so với các nước trong khu vực. Góp phần giảm tỉ
lệ thất nghiệp cho sinh viên mới tốt nghiệp, nâng cao trình độ lao động chưa có kinh
nghiệm, đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp. Đồng thời phát triển khung
chứng nhận kĩ năng và cơ chế đảm bảo chất lượng, được tin dùng bởi người sử dụng
lao động, Lao động và Thương binh Xã hội của Việt Nam là đại diện cho Việt

Nam phối hợp với các cơ quan liên quan của các nước trong khu vực cùng nhau
thảo luận đưa ra các chính sách di chuyển lao động phù hợp với nhu cầu của thị
trường lao động, đẩy mạnh quá trình di chuyển lao động giữa các nước thành
viên.
Thứ tư, người lao động của Việt Nam hiện nay vẫn chịu nạn bóc lột sức lao
động, chế độ tiền lương thấp hơn của lao động bản địa, chế độ bảo hiểm, vấn đề nhà ở,
sử dụng dịch vụ giáo dục y tế cũng chịu nhiều thiệt thòi. Vì vậy cần có những giải
pháp ổn đinh cuộc sống, tạo điều kiện phát triển nghề nghiệp cho người lao động, cung
cấp các thông tin về nhà ở, dịch vụ y tế và giáo dục cho cộng đồng người lao động Việt
Nam.
2.1.3.2 Giải pháp dành cho người lao động
Người lao động Việt Nam cần nắm bắt cơ hội việc làm trong thời đại Hội
nhập Kinh tế sâu rộng, đặc biệt sau khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được thành
lập. Người lao động có kỹ năng, đặc biệt là lao động trẻ là sinh viên tốt nghiệp từ các
trường đại học cao đẳng cần chuẩn bị các hành tranh về trình độ chuyên môn, ngoại
ngữ để có thể làm việc trong môi trường quốc tế cạnh tranh cao. Đồng thời không
ngừng trau dồi kiến thức, nắm bắt xu hướng trong thị trường lao động để đáp ứng nhu



cầu ngày càng cao của thị trường lao động tự do của AEC. Ngoài việc học tốt chương
trình đào tạo ở Việt Nam, người lao động Việt Nam cần học thêm các bằng cấp quốc tế
được công nhận rộng rãi ở khu vực ASEAN và trên toàn cầu. Những bằng cấp quốc tế
này là hộ chiếu để người lao động Việt Nam làm việc ở các nước ASEAN khác.
KẾT LUẬN
Di chuyển lao động có kỹ năng trong cộng đồng kinh tế đã được tiến hành ở
Việt Nam. Đây là một trong những biện pháp góp phần xây dựng một Việt Nam
năng động, phát triển thịnh vượng. Rào cản về chuyên môn là rào cản lớn nhất
trong di chuyển lao động có kỹ năng trong ASEAN. Sự chênh lệch về trình độ
lao động giữa các nước khiến cho việc chấp nhận lao động thiếu kỹ năng là
không thể xảy ra ở các nước phát triển trong khu vực.
Đứng trước những cơ hội và thách thức khi tự do hóa thị trường lao động của
Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Việt Nam cần nhìn nhận lại những điểm mạnh,
điểm yếu của lực lượng lao động, đặc biệt là lao động có kĩ năng. Trên cơ sở đó
phân tích mức độ đáp ứng các rào cản khi di chuyển lao động có kĩ năng trong
thị trường lao động khu vực ASEAN. Lao động Việt Nam hiện nay vẫn còn
thiếu nhiều kỹ năng mà các nhà tuyển dụng cần như kỹ năng về ngoại ngữ, kỹ
năng quản lí lãnh đạo, kỹ năng kĩ thuật… Hay nói cách khác lao động Việt Nam
chưa có năng lực cạnh tranh so với lao động các nước khác trong khu vực. Điều
đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân như các chương trình giáo dục, đào tạo chưa
trang bị được cho lao động các kỹ năng cần thiết, Nhà nước chưa có các biện
pháp định hướng nghề nghiệp đúng đắn cho lao động. Lao động Việt Nam sẽ
phải rất trải qua nhiều khó khăn trau dồi lại kỹ năng để đáp ứng được yêu cầu
của thị trường lao động quốc tế. Lao động Việt Nam có nguy cơ đánh mất cơ
hội khi thị trường tự do di chuyển lao động ASEAN chính thức được thành lập.

1.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Thuộc nhóm ngành khoa học: Kinh doanh và quản lí 3.(2015). Rào cản di chuyển
nguồn lao động có kĩ năng trong cộng đồng kinh tế ASEAN.



2. PGS.TS. Mạc Văn Tiến (TC Nghiên cứu Khoa học dạy nghề). (2015). Mạnh, yếu, cơ
hội và thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam khi gia nhập cộng đồng kinh tế

3.

ASEAN. Được lấy về từ:

Tạ Thủy sưu tầm Theo Cục Quản lý Lao động Ngoài nước.(2015). Thực trạng nguồn
nhân lực Việt Nam và một số giải pháp về đào tạo nhằm tăng tỷ lệ lao động có nghề đi

4.

làm việc ở nước ngoài. Được lấy về từ:

Bùi Thị Minh Tiệp.(2015).Nguồn nhân lực của các nước ASEAN và những tham chiếu

5.

cho Việt Nam trước thềm hội nhập AEC. Được lấy về từ:

Vũ Hồng Liên.(2013).Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của chi nhánh công ty cổ
phần công nghiệp Vĩnh Tường. Được lấy về từ:





×