Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

THƠ CA DÂN GIAN CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.72 MB, 60 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
---------------------------------

PHẠM VINH QUANG

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
---------------------------------

PHẠM VINH QUANG

THƠ CA DÂN GIAN
THƠ CA DÂN GIAN

CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI

CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẰNG PHƯƠNG

Thái Nguyên - 2008

Thái Nguyên - 2008



3.1. Khái niệm thi pháp, thi pháp học và thi pháp văn học dân gian................... 60

Mục lục
Trang

3.1.1. Thi pháp và thi pháp học .................................................................. 60

MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1

3.1.2. Thi pháp văn học dân gian ............................................................... 60

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1

3.2. Một số đặc điểm thi pháp thơ ca dân gian của người Dao Tuyển................ 61

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 2

3.2.1. Thời gian nghệ thuật ........................................................................ 61

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 5

3.2.2. Không gian nghệ thuật ..................................................................... 70

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 6

3.2.3. Một số biện pháp tu từ nghệ thuật .............................................................. 77

5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 7

3.2.4. Hình thức diễn xướng thơ ca dân gian ...................................................... 85


6. Những đóng góp của luận văn ............................................................................. 7

*Tiểu kết.................................................................................................................. 97

7. Bố cục của luận văn.............................................................................................. 7

KẾT LUẬN ............................................................................................... 99

NỘI DUNG

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 102

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ XÃ HỘI VĂN HOÁ CỦA

PHỤ LỤC ................................................................................................ 108

NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI ......................................................... 8
1.1. Đặc điểm lịch sử, xã hội, văn hoá của người Dao Tuyển ............................... 8
1.2. Khái quát về thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ..................................... 19
* Tiểu kết................................................................................................................. 26
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG THƠ CA DÂN GIAN NGƯỜI DAO TUYỂN Ở
LÀO CAI ................................................................................................... 27
2.1. Vài nét khái quát về cuộc sống của người Dao Tuyển qua thơ ca dân gian 28
2.2. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển là tiếng ca ai oán của những người
mồ côi bất hạnh .......................................................................................... 30
2.3. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển thể hiện một quan niệm đẹp về tình
yêu và hôn nhân của con người .................................................................. 37
2.4. Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển là tấm gương phản chiếu đời sống tập
quán tín ngưỡng của con người ............................................................................. 50

* Tiểu Kết................................................................................................................ 58
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP THƠ CA DÂN GIAN CỦA
NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI ....................................................... 60

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




về nội dung và nghệ thuật của thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai.

MỞ ĐẦU

Tìm hiểu thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai sẽ góp phần làm
sáng tỏ thêm về cuộc sống, văn hoá, tâm hồn của con người miền núi nói

1. Lý do chọn đề tài

chung và nhóm người Dao Tuyển nói riêng.

1.1. Lí do khoa học
Văn hoá là nền tảng, là nhân tố phản ánh trình độ phát triển của xã hội.

Hiện nay, tôi đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Văn tại nơi có nhiều

Văn hoá truyền thống thể hiện sự sáng tạo của mỗi dân tộc. Nền văn hoá Việt


người Dao Tuyển sinh sống. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu thơ ca dân gian

Nam mang đậm bản sắc văn hoá của cư dân nông nghiệp, được tạo bởi dân

của người Dao Tuyển ở Lào Cai sẽ giúp tôi hiểu rõ hơn về văn hoá tinh thần

tộc Việt Nam trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các dân tộc thiểu số

của người Dao Tuyển. Từ đó có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao chất

sống trên đất nước Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định: “Coi

lượng giảng dạy văn học dân gian của các tộc người thiểu số.

trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng phát triển

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

giá trị mới về văn hoá văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số là một nhiệm

Mỗi dân tộc đều có những nét văn hoá đặc thù riêng. Những giá trị văn
hoá đậm bản sắc đó đã tạo nên nền văn hoá thống nhất mà đa dạng Việt

vụ vô cùng cấp bách”[77, tr.63].
Văn học dân gian là một thành tố quan trọng của văn hoá dân gian, là

Nam. Nghiên cứu nền văn học dân gian của các dân tộc là nhằm gìn giữ và

di sản văn hoá quí báu của dân tộc. Mỗi làn điệu dân ca, mỗi lời ca dao... đều


phát huy các giá trị văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nghiên

lấp lánh trong nó vẻ đẹp của bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc, vẻ đẹp của

cứu để bảo tồn và phát triển bền vững thơ ca dân gian của người Dao Tuyển

tính cách, tâm hồn con người. Thơ ca dân gian là một tiểu loại đặc sắc của

ở Lào Cai có ý nghĩa thiết thực với địa phương. Trong nhiều thập kỉ qua, đã

văn học dân gian. Tìm hiểu thơ ca dân dân gian của dân tộc Dao nói chung,

có không ít nhà khoa học quan tâm nghiên cứu về người Dao. Các công trình

của người Dao Tuyển ở Lào Cai nói riêng là một việc làm cần thiết, góp phần

nghiên cứu đó đã đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến một vài khía cạnh về

gìn giữ và phát huy những tinh hoa di sản văn hoá quý báu của dân tộc.

người Dao ở Lào Cai.
Từ thế kỉ XVIII, nhà bác học Lê Quý Đôn đã viết tác phẩm Kiến văn

1.2.Lí do thực tiễn
Từ trước đến nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu về người Dao đã

tiểu lục (1778). Trong tác phẩm này, Lê Quý Đôn không chỉ đề cập đến

được tiến hành trong phạm vi cả nước, từ việc tìm hiểu cội nguồn lịch sử, tình


nguồn gốc, mà còn miêu tả khái quát về cách ăn mặc, cuộc sống di cư của

hình phân bố dân cư, đời sống tôn giáo, tín ngưỡng cho đến việc phân tích sự

một nhóm người Man (Dao) ở nước ta. Cũng vào năm đó, tác phẩm Hƣng

phát triển kinh tế xã hội và biến đổi văn hoá dân tộc Dao ở các địa phương.

Hoá xứ – Phong Thổ lục của tiến sĩ Hoàng Bình Chính đã giới thiệu sơ lược

Các công trình ấy cung cấp khá đầy đủ về một số khía cạnh dân tộc học, văn

về người Dao ở Châu Thuỷ Vỹ (Lào Cai). Năm 1856, nhà sử học Phạm Thận

hoá học. Nhưng chưa có công trình nào đi sâu vào tìm hiểu thơ ca dân gian

Duật đã viết tác phẩm Hƣng Hoá kí lƣợc, giới thiệu khái quát về phong tục

người Dao Tuyển ở Lào Cai. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài này nhằm tìm

tập quán của các dân tộc ở Hưng Hoá, trong đó có nói tới phong tục tập quán

hiểu đời sống tinh thần của người Dao Tuyển qua thơ ca, đặc biệt là các giá trị

người Mán (Dao). Tuy nhiên, các tác phẩm trên đều chưa nói đến thơ ca dân

1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




gian của người Dao mà chỉ giới thiệu khái quát về người Dao với những vấn

cơ bản về đời sống văn hoá của người Dao, trong đó có thơ ca dân gian, chưa

đề về lịch sử, dân tộc học.

có điều kiện đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu những nét đặc thù về văn hoá, đặc

Đến đầu thế kỉ XX, nhiều tài liệu viết về người Dao ở nước ta do các

biệt là thơ ca dân gian của người Dao ở từng địa phương.

tác giả người Pháp viết lần lượt được công bố. Đáng chú ý là các bài viết của

Cuốn Lễ hội cổ truyền Lào Cai của Trần Hữu Sơn, do Nxb Văn hoá

M.Abadie, đặc biệt là A.Bonifacy với các bài viết: Các dân tộc miền Bắc

dân tộc xuất bản năm 1999, đã giới thiệu những sinh hoạt lễ hội truyền thống

Đông Dƣơng, Một cuộc công cán ở vùng ngƣời Mán. Những bài viết này đề


tiêu biểu của các dân tộc thiểu số ở Lào Cai. Trong đó đề cập đến Lễ tết nhảy

cập đến nhiều khía cạnh văn hoá của các nhóm Dao ở Việt Nam như ngôn

của dân tộc Dao Đỏ Sa Pa, Lễ lập tịch của người Dao Họ. Trong sách, tác giả

ngữ, sản xuất, phong tục tập quán...nhưng cũng chỉ mô tả khái quát và còn tản

có đề cập đến dân ca Dao nhưng chỉ dừng ở mức độ khái quát.

mạn. Năm 1904, A.Bonifacy tiếp tục công bố các bài đã sưu tầm được về

Cuốn Tập tục chu kì đời ngƣời của các tộc ngƣời ngôn ngữ H’Mông -

truyền thuyết dân gian người Dao như Truyền thuyết Bàn Hồ, Quá Sơn

Dao ở Việt Nam của Nguyễn Đức Lợi, do Nxb Văn hoá dân tộc xuất bản năm

Bảng...rồi hàng loạt các chuyên khảo về người Dao như: Mán Quần cộc (1904

2002, đã đề cập đến tập tục, chu kì đời người của các dân tộc trong ngữ hệ

– 1905), Mán Quần Trắng (1905), Mán Đại Bản (1908)...Trong đó có trích

H’Mông - Dao ở Việt Nam.Trong đó đã đi sâu vào tìm hiểu một số tập tục

dẫn một số đoạn thơ ca từ sách cúng, từ đám cưới, đám tang của người Dao.

trong cuộc đời của người Dao như tập tục đánh dấu sự trưởng thành, lễ cấp


Mặc dù những đoạn thơ ấy chỉ được giới thiệu hết sức sơ lược hay chỉ làm

sắc, tục cưới xin, tục ma chay… nhưng chưa chú ý tới thơ ca dân gian của

minh chứng cho những nhận định, nhưng cũng đã đánh dấu ông là học giả

người Dao.

đầu tiên đề cập đến thơ ca dân gian dân tộc Dao ở Việt Nam.
Sau năm 1945, các nhà khoa học ở nước ta tiếp tục sưu tầm và nghiên

Về người Dao Tuyển, hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu
quan tâm, chú ý là các công trình nghiên cứu của tác giả Trần Hữu Sơn.

cứu về người Dao. Đáng chú ý là tác phẩm Dân ca Dao do nhà nghiên cứu

Trần Hữu Sơn (2001), Lễ cƣới ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn hoá dân tộc,

Triệu Hữu Lý sưu tầm và biên dịch. Đây là tập dân ca đầu tiên của người Dao

Hà Nội, đã đề cập tương đối chi tiết đến hôn nhân và nghi lễ cưới hỏi của

gồm nhiều loại hình được xuất bản: hát đối đáp nam nữ, tình thư gửi (tín ca),

người Dao Tuyển. Cuốn sách đã giới thiệu hàng trăm bài dân ca đám cưới của

những lời răn lưu truyền, những lời bài hát đám cưới.

người Dao Tuyển ở Lào Cai, Hà Giang (chủ yếu là ở Lào Cai).


Ngƣời Dao ở Việt Nam của các tác giả Bế Viết Đẳng - Nguyễn Khắc

Trần Hữu Sơn (2005), Thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn hoá

Tụng - Nông Trung - Nam Tiến, do nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản

dân tộc, Hà Nội. Cuốn sách là một nguồn tư liêụ quý nghiên cứu về kinh tế,

năm 1971, là tác phẩm đề cập khá toàn diện về đời sống của người Dao trên

văn hoá, xã hội của người Dao. Công trình đã giới thiệu hàng trăm bài dân ca

lãnh thổ Việt Nam như dân số, địa vực, tên gọi các nhóm Dao, các hình thái

lao động, dân ca nghi lễ phong tục, dân ca sinh hoạt của người Dao Tuyển

kinh tế, sinh hoạt vật chất, sinh hoạt xã hội, sinh hoạt văn hoá tinh thần và

(chủ yếu là ở Lào Cai). Tuy nhiên, Thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển mới chỉ

những đổi mới trong cuộc sống sinh hoạt của người Dao từ sau Cách mạng

dừng lại ở việc giới thiệu về các loại hình thơ ca dân gian, trình bày sơ đôi nét

tháng Tám 1945 đến 1971. Tuy nhiên, các tác giả mới đề cập tới những nét

về nghệ thuật.

3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


4


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Vì vậy, việc tìm hiểu thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai,
đặc biệt là việc đi sâu vào tìm hiểu những giá trị nội dung và thi pháp thơ ca
dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai vẫn còn là một khoảng trống. Trên
cơ sở kế thừa thành quả của các công trình đi trước, chúng tôi lựa chọn đề tài

Tìm hiểu một số đặc điểm về đời sống văn hoá xã hội, phong tục tập
quán, tín ngưỡng tôn giáo của người Dao có liên quan đến đề tài.
Khảo sát, thống kê, phân tích tư liệu về dân ca Dao Tuyển để đi đến
những nhận định về giá trị của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai.

Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai nhằm góp phần tiếp tục

Chỉ ra những nét đặc thù của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở

khai thác vốn văn hoá nghệ thuật cũng như những nét đẹp trong tâm hồn của

Lào Cai trên cơ sở so sánh đối chiếu với thơ ca dân gian của các dân tộc khác.

người Dao Tuyển. Đây là một lĩnh vực nghiên cứu mang tính cấp thiết, tiếp

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu


tục bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của người Dao

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Tuyển ở Lào Cai nói riêng, văn hoá của của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam

Đối tượng nghiên cứu chính Thơ ca dân gian của ngƣời Dao Tuyển ở

nói chung.

Lào Cai.
Xem xét thêm một số yếu tố khác có liên quan đến nội dung đề tài.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Trên cơ sở kế thừa những tài liệu khoa học đã công bố về người Dao
Tuyển ở Việt Nam nói chung, về người Dao Tuyển ở Lào Cai nói riêng, bằng
những nguồn tư liệu địa phương qua nghiên cứu, sưu tầm tại chỗ, tác giả muốn
đi sâu nghiên cứu về thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai. Qua đó,
nhận diện thực trạng đời sống văn hoá tinh thần phong phú của cộng đồng
người Dao Tuyển, đặc biệt là những giá trị của thơ ca dân gian.
Nghiên cứu thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai là một việc làm

4.2.1. Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành khảo sát thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở
Lào Cai trong một số công trình đã được công bố:

1. Trần Hữu Sơn (2001), Lễ cƣới ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn hoá dân
tộc, Hà Nội.
2. Trần Hữu Sơn (2005), Thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn
hoá dân tộc, Hà Nội.

cần thiết, là góp phần bổ sung những hiểu biết về một tiểu loại văn học trong sự

Ngoài ra, chúng tôi còn tiến hành khảo sát, phân tích một số lời thơ dân

đa dạng phong phú của nền văn học dân gian dân tộc Dao. Từ đó, khẳng định

gian của người Dao Tuyển và những tư liệu liên quan đến đề tài mà chúng tôi

những giá trị cần được gìn giữ và bảo tồn.

thu thập được trong quá trình điền dã.

Từ kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi muốn giới thiệu những giá trị của

4.2.2.Phạm vi vấn đề nghiên cứu

của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai nhằm giáo dục truyền thống

Trong giới hạn của một đề tài luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ nghiên cứu

tốt đẹp của văn hoá tộc người và giá trị của nó trong cuộc đấu tranh xây dựng,

nội dung cơ bản và một số yếu tố về thi pháp tiêu biểu trong phần lời của dân

bảo vệ quê hương đất nước trong giai đoạn hiện nay.


ca của người Dao Tuyển ở Lào Cai ( những yếu tố khác dùng để phân tích
tham khảo khi cần thiết).

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu những vấn đề lí thuyết làm cơ sở để triển khai đề tài.

5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu liên ngành.

NỘI DUNG

Phương pháp khảo sát thống kê.
Phương pháp phân tích tổng hợp so sánh.
Phương pháp điền dã.

CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ XÃ HỘI VĂN HOÁ

6. Những đóng góp của luận văn


CỦA NGƢỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI

Lần đầu tiên thơ ca của người Dao Tuyển ở Lào Cai được tìm hiểu một
cách hệ thống trên các phương diện nội dung và thi pháp. Bước đầu làm rõ
bản sắc riêng của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển so với thơ ca dân gian
của các dân tộc khác trên địa bàn.

1.1. Đặc điểm lịch sử, xã hội, văn hoá của ngƣời Dao Tuyển
1.1.1.Vài nét về nguồn gốc lịch sử của ngƣời Dao Tuyển
Trong trường kì lịch sử, Lào Cai là điểm hội lưu văn hóa của các tộc
người (Lào Cai có 27 dân tộc sinh sống), vì vậy diện mạo văn hoá của vùng

Bên cạnh đó, trong quá trình điền dã, chúng tôi sưu tầm được một số

biên ải này khá đa dạng. Tính đa dạng trong văn hoá Lào Cai được thể hiện rõ

lời ca dân gian, dù lời lẽ còn thô mộc, nhưng những lời ca ấy chính là minh

nét trong văn hóa các tộc người: “Lào Cai có mặt các cƣ dân của ba (trong số

chứng sinh động cho sinh hoạt tinh thần phong phú rất đặc trưng của người

bốn) ngữ hệ lớn ở Việt Nam: Ngữ hệ Nam Á có các tộc ngƣời Việt, Mƣờng,

Dao Tuyển.

Kháng, H.Mông, Dao, La Chí, La Ha ; Ngữ hệ Hán –Tạng có các tộc ngƣời

7. Bố cục của luận văn


Hoa ( Xạ Phang), Hà Nhì , Phù Lá (cả nhóm Xá Phó ); Ngữ hệ Thái có các

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn chia thành ba chương viết:
- Chƣơng1: Khái quát về lịch sử, xã hội,văn hoá của ngƣời Dao
Tuyển ở Lào Cai.

tộc ngƣời Tày (cả nhóm Pá Dí ), Thái , Giáy, Lào Lự , Bố Y”[48, tr.13].
Trong số các dân tộc thiểu số ở Lào Cai, người Dao là một trong những
tộc người có dân số khá đông (85.428 người, chiếm tỉ lệ 15,24% dân số toàn

- Chƣơng 2: Nội dung thơ ca dân gian của ngƣời Dao Tuyển ở
Lào Cai.

tỉnh - số liệu thống kê năm 2006), gồm 3 nhóm Dao khác nhau: Dao Đỏ, Dao
Họ và Dao Tuyển. Nhóm Dao Tuyển ở Lào Cai có số dân 31.325 người. Theo

- Chƣơng3: Đặc điểm thi pháp thơ ca dân gian của ngƣời Dao
Tuyển ở Lào Cai.

nhà nghiên cứu Trần Hữu Sơn: “Dân tộc Dao Tuyển ở Việt Nam có khoảng
45.000 người”[50, tr.7]. Như vậy, xét theo mức độ tập trung dân cư, người

Tài liệu tham khảo

Dao Tuyển ở Việt Nam sinh sống chủ yếu ở Lào Cai.

Phần phụ lục của luận văn có một số tranh ảnh, bản đồ minh hoạ

Người Dao Tuyển cư trú trên một địa bàn rộng. Trên thế giới người Dao

Tuyển sinh sống ở 4 quốc gia: Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam và Lào. Ở
Việt Nam, người Dao Tuyển cư trú tại 4 tỉnh: Lào Cai, Hà Giang, Tuyên
Quang và Lai Châu. Tại Lào Cai, người Dao Tuyển cư trú tập trung tại các
huyện: Bảo Yên, Bảo Thắng, Bát Xát, Cam Đường, Bắc Hà và Mường

7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Khương. Dù ở các quốc gia khác nhau, sinh sống trên các vùng miền khác

họ cha, còn các con thứ lấy tên làm họ, gồm các họ: Bàn, Lan, Mãn, Uyển,

nhau nhưng tất cả người Dao Tuyển đều có chung một cội nguồn lịch sử, đều

Đặng, Trần, Lƣơng, Tống, Phƣợng, Đối, Lƣu, Triệu. Con cháu Bàn Vƣờng

gần gũi nhau về các mặt như tên gọi, tiếng nói, văn hoá. Tuy nhiên, người

sinh sôi nảy nở mỗi ngày một nhiều và phân tán khắp nơi để sinh sống [6,

Dao Tuyển ở mỗi vùng đều có những nét đặc thù riêng do nhiều nguyên nhân


tr.19]. Như vậy, Bàn Hồ là một nhân vật thần thoại, được người Dao thừa

khách quan đem lại như điều kiện địa lí, môi trường sinh thái, giao lưu kinh

nhận là “ông tổ” của mình và được thờ cúng rất tôn nghiêm.

tế, văn hóa với các tộc người anh em mà họ sinh sống trên cùng một địa bàn
trong một thời gian dài.

Ngoài ra, sử sách lưu truyền cũng có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn
gốc của người Dao, nhưng tất cả đều thống nhất một quan điểm: người Dao

Ở Việt Nam, dân tộc Dao Tuyển có nhiều tên gọi khác nhau như ở Lào

có nguồn gốc từ Trung Quốc, di cư sang Việt Nam qua nhiều con đường khác

Cai được gọi là Dao Tuyển; ở Phong Thổ Lai Châu người Dao Tuyển đuợc

nhau, trong một quá trình lâu dài. Quá trình thiên di của người Dao Tuyển tới

gọi là Dao Đầu Bằng; ở Hà Giang, Tuyên Quang người Dao Tuyển được gọi

Lào Cai đã được nhà nghiên cứu Trần Hữu Sơn trình bày một cách khá cụ thể

là Dao Aó Dài. Cho dù tên gọi ở các địa phương có khác nhau nhưng đó đều

: Người Dao Tuyển di cư vào Việt Nam bằng hai con đường chính. Tuyến thứ

là tên gọi chỉ một bộ phận của nhóm Dao Làn Tiẻn (Dao Lan Điền).


nhất vào cuối Triều Minh (Thế kỉ 17), người Dao Làn Tiẻn từ Quảng Đông

Về nguồn gốc của người Dao nói chung, người Dao Tuyển nói riêng, cho

vào Móng Cái (Quảng Ninh), qua Lục Ngạn sông Đuống đến Yên Bái, ngược

đến nay trong dân gian vẫn còn lưu truyền rộng rãi câu chuyện Bàn Hồ. Đó là

sông Chảy lên Lào Cai. Tuyến thứ hai vào năm Mậu Thân đầu triều Thanh

câu chuyện giải thích về nguồn gốc của họ : Bàn Hồ là con long khuyển mình

(1668), người Dao Tuyển đến Việt Nam ở hai vùng Vân Sơn và Mộng Tự.

dài ba thƣớc, lông đen vằn vàng mƣớt nhƣ nhung, từ trên trời giáng xuống

Năm Tân Dậu triều Thanh (1801), người Dao từ Mộng Tự đến Kiến Thuỷ, Hà

trần gian đƣợc Bình Hoàng yêu quý nuôi trong cung. Một hôm Bình Hoàng

Khẩu theo sông Hồng vào Châu Thuỷ Vĩ (Lào Cai). Như vậy đầu thế kỉ XIX,

nhận đƣợc chiến thƣ của Cao Vƣơng. Bình Hoàng liền họp bá quan văn võ để

người Dao Tuyển đã có mặt ở vùng sông Hồng Lào Cai. Liên tiếp cuối thế kỉ

bàn mƣu tính kế diệt họ Cao nhƣng không ai tìm đƣợc kế gì . Trong khi đó thì

XIX đầu thế kỉ XX, người Dao Tuyển đã có một số đợt thiên di đến vùng Bát


con long khuyển Bàn Hồ từ trong kim điện nhảy ra sân rồng quỳ lạy xin đi

Xát [51, tr.10].

giết Cao Vƣơng. Trƣớc khi Bàn Hồ ra đi nhà vua có hứa, nếu thành công sẽ

Người Dao Tuyển bên cạnh những đặc điểm mang tính cội nguồn, còn

gả công chúa cho. Bàn Hồ bơi qua biển bảy ngày, bảy đêm mới tới nơi Cao

có những đặc trưng riêng mang đậm dấu ấn môi trường tự nhiên, văn hoá xã

Vƣơng ở. Cao Vƣơng thấy con chó đẹp tới phủ phục trƣớc sân rồng thì cho đó

hội của vùng miền. Đến cư trú ở Lào Cai, người Dao Tuyển mong muốn có

là điềm lành, nên đem vào cung nuôi. Nhân một hôm Cao Vƣơng say rƣợu

một cuộc sống ổn định, ấm no hạnh phúc. Thời kì mà người Dao đến Lào Cai

Bàn Hồ cắn chết Cao Vƣơng và ngoặm lấy đầu đem về báo công với Bình

là thời kì mà sự thống trị của triều đình phong kiến đối với những vùng xa xôi

Hoàng. Bàn Hồ lấy đƣợc cung nữ đem vào núi Cối Kê ( Chiết Giang ) ở. Vợ

hẻo lánh không chặt chẽ. Trong điều kiện đó, người Dao làm ăn tương đối tự

chồng Bàn Hồ không bao lâu sinh đƣợc 6 con trai và 6 con gái. Bình Hoàng


do. Vì vậy, mà đồng bào tin rằng Việt Nam là nơi có thể sinh sống tốt:

ban sắc cho con cháu Bàn Vƣơng thành 12 họ, riêng ngƣời con cả đƣợc lấy

9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Thăm hết các nơi cùng ngõ hẻm

10


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Đất nƣớc Việt Nam lòng thấy vui

Kết cấu xã hội của người Dao Tuyển gồm 3 cấp độ khác nhau: Cộng

Việt Nam giàu đẹp đừng quên nhé

đồng theo địa vực cư trú (làng, bản), cộng đồng mang tính huyết thống (dòng

Mau mau dọn nhà đến Việt Nam [6, tr.40].

họ) và cộng đồng gia đình.

Ngày nay, sống trong môi trường xã hội chủ nghĩa, nhờ có đường lối


Làng của người Dao Tuyển được gọi là “giăng”. Làng thường được lập

chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam,

trên các sườn núi. Người Dao Tuyển không cư trú xen kẽ với các dân tộc khác

đời sống của người Dao Tuyển đã có những biến đổi sâu sắc: từ thân phận nô

trong làng. Đứng đầu mỗi làng là trưởng làng “giăng châu”. Trưởng làng

lệ trở thành người làm chủ đất nước, có cuộc sống bình đẳng với các dân tộc

thông thường là người trưởng họ trong dòng họ lớn nhất trong làng, những

anh em, mọi mặt đời sống được cải thiện rõ nét, bản sắc văn hoá được bảo tồn

cũng có nơi là người có uy tín, giỏi làm ăn. Họ là người nắm vững các luật

và phát triển.

tục, quy ước chung của làng, có khả năng tập hợp, chỉ đạo dân làng. Đồng

1.1.2. Một vài đặc điểm về văn hoá xã hội truyền thống của ngƣời Dao

thời, họ am hiểu pháp luật, chủ trương chính sách của nhà nước, có khả năng

Tuyển

truyền đạt chủ trương chính sách đó đến với người dân. Bên cạnh trưởng làng,


Như chúng tôi đã trình bày ở mục 1.1.1, người Dao Tuyển ở Lào Cai

mỗi làng còn có một già làng. Đó là người am hiểu phong tục tập quán, biết

không cư trú tập trung mà phân tán ở hầu khắp các huyện. Môi trường sống

nghi lễ cúng bái và có uy tín cao. Ngoài ra, già làng còn có vai trò giám sát

của họ là vùng núi cao, địa hình phức tạp, giao thông không thuận tiện. Điều

thực hiện các nghi lễ chung của làng và của gia đình, hoặc giám sát việc cúng

đó đã tạo ra sự ngăn cách và khép kín về kinh tế, văn hoá xã hội. Nhưng mặt

của thầy cúng ở nơi khác đến làm lễ cho các gia đình trong làng.

khác, trong điều kiện hiện nay, khi đất nước đang trên đà hội nhập và đi

Mỗi làng của người Dao Tuyển có một hệ thống các luật tục như luật tục

những bước đi vững chắc về mọi mặt, người Dao Tuyển ngày càng có điều

bảo vệ nguồn nước, luật tục về quan hệ giữa các thành viên, chống thả rông

kiện giao lưu, tiếp xúc với các dân tộc anh em. Do vậy, đời sống kinh tế, văn

gia súc, bảo vệ mùa màng…Hệ thống luật tục của làng đều được dân làng dân

hoá của họ đang từng bước được phát triển phong phú và đa dạng. Xét về đặc


chủ thảo luận. Luật tục đã trở thành một công cụ quản lí làng. Nếu ai vi phạm

điểm văn hoá truyền thống của họ, có thể chia thành những khía cạnh sau:

luật tục, sẽ bị dân làng phạt. Người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng quy định

1.1.2.1. Quan hệ xã hội, bản làng và gia đình

mức phạt như sau: Ai chặt phát một cây con ở rừng chung của làng bị phạt 5

Người Dao Tuyển sống chủ yếu dựa vào nền kinh tế tiểu nông, tự cấp, tự
túc. Quan niệm “trọng nông khinh thƣơng” đã ăn sâu vào tâm lí của họ. Hình

đồng bạc trắng, chặt một cây to phạt 10 đồng bạc trắng, đốt rừng chung làm
nương rẫy bị phạt 20 đồng bạc trắng [50, tr.31].

thái tâm lí văn hoá của người Dao Tuyển là luôn coi trọng luân lí đạo đức, coi

Người Dao Tuyển có 12 họ chính. Mỗi họ lại có nhiều dòng họ khác

trọng lợi ích cộng đồng dân tộc, tôn trọng ý thức cộng đồng, tôn trọng quan

nhau. Dòng họ là những người có chung một ông tổ 6 đời. Mỗi dòng họ có

niệm giá trị an cư lạc nghiệp, không muốn tiến thủ ra bên ngoài.

một hệ thống 6 tên đệm riêng (mỗi tên đệm tương ứng với một thế hệ), có một
ông trưởng họ - con trai trưởng của ngành trưởng. Trưởng họ phải là người
am hiểu tôn giáo, tín ngưỡng, nếp sống của người Dao, có trách nhiệm chỉ


11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




đạo các việc chung của dòng họ, đại diện cho dòng họ, giao tiếp, giao dịch với

thiêng, tư tưởng hoá kiếp luân hồi của Phật giáo đều thâm nhập vào đời sống

các dòng họ khác. Các thành viên trong dòng họ có trách nhiệm tương trợ,

của con người. Bên cạnh đó, các hình thức xem tử vi tướng số, xem ngày

giúp đỡ lẫn nhau khi có công việc lớn như: làm nhà, cưới xin, ma chay,…

tháng tốt, thực hiện các nghi lễ cưới xin, làm nhà mới đều được sử dụng

Gia đình người Dao Tuyển là gia đình phụ hệ, tính chất phụ hệ chi phối

rộng rãi.

chặt chẽ quan hệ gia đình: Chủ gia đình là đàn ông, nếu bố chết thì con trai


Sau Đạo giáo, Phật giáo, đời sống cuả người Dao Tuyển còn chịu ảnh

trưởng thay thế. Trong gia đình, người chồng giữ vị trí quan trọng, có trách

hưởng của Nho giáo. Biểu hiện rõ nhất là ở việc thờ cúng tổ tiên, sùng bái

nhiệm chỉ đạo sản xuất, đảm nhiệm toàn bộ những công việc nặng nhọc, thực

thầy cấp sắc.

hiện các nghi lễ gia đình, đồng thời có trách nhiệm giáo dục các con trai và

Tuy ảnh hưởng của Tam giáo nhưng tàn dư tôn giáo sơ khai vẫn tồn tại.

quan hệ với người ngoài. Người vợ phụ trách các công việc nội trợ và giáo

Đó là tàn dư ma thuật tình yêu với các loại bùa ngải, ma thuật làm hại với

dục các con gái. Riêng công việc đồng áng và làm vườn thì dường như không

quan niệm về ma Ngọ Hải. Đặc biệt là tín ngưỡng liên quan đến việc chữa

có sự phân chia rõ ràng. Trong công việc hàng ngày thì tính chất phụ hệ và

bệnh phát triển khá mạnh. Từ quan niệm hồn đến nguyên nhân ốm đau, bệnh

thứ bậc chi phối đậm nét trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia

tật là do bị hồn ma bắt, đến việc cúng bái chữa bệnh.


đình: vợ phải nghe lời chồng, con cái nghe lời cha mẹ, em nghe lời anh chị.

Các tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp tồn tại với nhiều
hình thức như việc cầu cúng miếu làng, làm phép thuật trừ sâu bệnh, tổ chức

1.1.2.2. Tôn giáo tín ngƣỡng
Tôn giáo tín ngưỡng có một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần

lễ cúng cơm mới ...

của người Dao Tuyển. Điểm nổi trội trong tôn giáo tín ngưỡng của họ là

Tóm lại: Tam Giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tín ngưỡng của

chịu ảnh hưởng sâu sắc của Tam giáo. Trong đó ảnh hưởng sâu đậm nhất là

đồng bào Dao Tuyển ở Lào Cai. Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là sự biển hiện

Đạo giáo.

của từng tôn giáo trong tín ngưỡng của người Dao Tuyển là không rõ nét. Tất

Đạo giáo ra đời ở Trung Quốc và đã trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống

cả các tôn giáo trên đều quyện chặt với nhau, cùng với những tàn dư tôn giáo

tinh thần của người Dao Tuyển, được họ tiếp thu và cải biến cho phù hợp với

sơ khai tạo nên hệ thống tín ngưỡng - tôn giáo hỗn hợp, phức tạp và đa dạng


điều kiện xã hội của mình. Thực tế cho thấy: Hầu hết các vị thần linh của Đạo

trong đời sống văn hoá của con người.

giáo đều trở thành hệ thống các vị thần linh của người Dao Tuyển như hệ

Tôn giáo tín ngưỡng của người Dao Tuyển ở Lào Cai gồm nhiều hình

thống miếu vạn thần là hệ thống miếu thờ thần của Đạo giáo. Ngoài ra, các

thức, dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một số hiện tượng tiêu biểu:

hệ thống bùa chú, vũ khí trừ tà như đạo tiên (soi đạo), đồng linh (chuông

*Thờ cúng tổ tiên

đồng), thần trượng (gậy thần), đại lực xoa (đinh ba đại lực) đều là các khí cụ
của Đạo giáo.

Theo quan niệm của người Dao Tuyển: Tổ tiên là những người đã khuất
trong dòng họ tính từ 6 đời trở xuống. Khi ông bà cha mẹ mất, linh hồn của

Bên cạnh Đạo giáo, Phật giáo cũng có ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời

họ trở về thế giới bên kia nhưng những linh hồn ấy vẫn thường xuyên đi lại

sống của người Dao Tuyển. Những phép thuật của Phật như uống nước

chăm nom cho con cháu nơi dương thế. Tổ tiên thuộc loại ma lành, phù hộ


13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




cho con cháu, nếu không thờ cúng thì tổ tiên có thể bắt tội, làm cho con cháu

*Nghi lễ đám cƣới

ốm đau, bệnh tật, đói khổ. Vì vậy, thờ cúng tổ tiên là việc thờ cúng chủ yếu

Lễ cưới là phong tục trọng đại của đời người, là một trong những sinh

trong gia đình. Những ngày mà người Dao Tuyển thờ cúng tổ tiên là ngày

hoạt văn hoá dân gian đặc sắc, in đậm dấu ấn tín ngưỡng của con người.

mùng một tết, ngày mùng 6 tháng 6 âm lịch, ngày cúng cơm mới.

Người Dao Tuyển có quy định chặt chẽ về việc cưới, tạo thành những nguyên

*Thờ cúng Bàn Vƣơng

tắc trong hôn nhân. Chẳng hạn như nguyên tắc ngoại hôn dòng họ chi phối


Bên cạnh việc thờ tổ tiên, người Dao Tuyển ở Lào Cai cũng như các

mọi quan hệ hôn nhân. Trong phạm vi sáu đời con cháu không được kết hôn,

ngành Dao khác còn thờ ông tổ cộng đồng dân tộc Dao là Bàn Vương. Bàn

dựa vào thứ tự hệ thống tên đệm của từng dòng họ, các thành viên của mỗi

Vương được thờ cúng chung với tổ tiên gia đình vào các dịp lễ cấp sắc, đám

dòng họ biết được quan hệ nội tộc và tránh kết hôn cùng dòng họ, không vi

chay, tết lễ, ngày rằm, mùng một hàng tháng. Ngoài việc thờ cúng hàng ngày

phạm quan niệm loạn luân. Nghi lễ đám cưới ở mỗi nhóm Dao, ở mỗi vùng

còn có những lễ cúng Bàn Vương riêng. Hình thức cúng Bàn Vương thường

có những nét riêng. Lễ cưới người Dao Tuyển ở Lào Cai được chia thành các

có các nghi lễ như lễ khất, lễ cúng Bàn Vương, lễ tiễn đưa.

nghi thức: lễ so tuổi, lễ dạm hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt.

*Lễ cấp sắc

*Nghi lễ tang ma

Người Dao Tuyển có nghi lễ quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của


Người Dao Tuyển khi chết, con gái phải tắm nước lá thơm cho bố mẹ,

người nam giới được tổ chức trang trọng gọi là lễ cấp sắc. Cấp sắc là một nghi

con trai cắt tóc cho người chết. Họ tổ chức khâm liệm cho người chết một

lễ rất phổ biến trong dân tộc Dao. Khi gia đình người Dao Tuyển có con trai

cách chu tất. Trước kia, người Dao Tuyển ở Lào Cai làm hoả táng cho người

từ 11 đến 17 tuổi cần phải làm lễ cấp sắc. Người được cấp sắc mới được công

chết. Sau khi hoả táng họ lấy tro bỏ vào lọ, đem chôn ở núi đá theo từng dòng

nhận là con cháu của Bàn Vương và mới được Bàn Vương phù hộ. Người

họ. Nhưng ngày nay, người Dao Tuyển tổ chức địa táng. Tuy nhiên, trong một

không được cấp sắc thì cho dù tuổi già cũng vẫn bị coi là trẻ con và khi chết

số phong tục, bài cúng vẫn còn dấu vết hoả táng. Trong lễ tang thầy cúng phải

hồn không được đoàn tụ với tổ tiên. Tiến trình của lễ cấp sắc có rất nhiều tình

đọc cuốn sách cúng “Tán Tảng” bài cúng đốt lửa hoả táng được tượng trưng

tiết phức tạp, lễ diễn ra suốt ba ngày hai đêm với các nghi lễ chính như: lễ ăn

bằng nến.


sư, lễ kêu thầy, lễ công tào, lễ khởi sự, lễ cấp sắc, lễ điệu binh, lễ hợp vũ, lễ

Trên đây chỉ là một số hiện tượng tiêu biểu trong truyền thống tôn giáo

hương hoa, lễ giải tuế, lễ mời thánh, lễ an đòn, lễ tú đăng, lễ hi diên, lễ du

tín ngưỡng phong phú, phức tạp và đa dạng của tộc người Dao Tuyển ở Lào

thần, lễ búa nhị, lễ túc bị, lễ tảo chiền, lễ phá ngục, lễ hưởng thực, lễ thiết

Cai. Qua những hiện tượng này, chúng tôi thấy rằng: Trong cộng đồng người

điện, lễ đăng chương, lễ tháo lâu, lễ thăng đô, lễ tống thánh. Người Dao

Dao Tuyển vẫn còn tồn tại những tàn tích của chủ nghĩa đa thần nguyên thuỷ.

Tuyển tin rằng, người được cấp sắc thì làm ăn mới được may mắn, sinh hoạt

Đặc biệt là tam giáo (nổi trội nhất là Đạo giáo), đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời

mọi mặt mới được thuận lợi, dòng tộc mới được phát triển. Vì vậy, cho dù tốn

sống tinh thần, đã ăn sâu vào tư tưởng của họ. Những yếu tố tích cực cần phải

kém, họ vẫn tổ chức bằng được nghi lễ này.

được bảo tồn và phát huy để góp phần làm phong phú bản sắc văn hoá dân tộc
của tộc người này.


15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




1.1.2.3. Một số thể loại văn học dân gian của ngƣời Dao Tuyển

* Ca dao - dân ca

Trải qua một quá trình đấu tranh lâu dài chống lại thiên nhiên khắc

Ngay từ khi cất tiếng khóc trào đời đến khi nhắm mắt xuôi tay, người

nghiệt và xã hội phong kiến bất công để tồn tại và phát triển, người Dao

Dao Tuyển đều tắm mình trong dòng suối dân ca. Ca dao - dân ca của người

Tuyển đã sáng tạo ra những giá trị văn hoá truyền thống giàu bản sắc, đặc biệt

Dao Tuyển phong phú, đa dạng, phản ánh mọi lĩnh vực của cuộc sống, gồm

là văn học dân gian. Văn học dân gian của người Dao Tuyển có đầy đủ các

ba loại hình cơ bản: Dân ca giao duyên, dân ca than thân, dân ca nghi lễ và


thể loại như: thần thoại, truyện cổ tích, tục ngữ, câu đố, dân ca …,với những

phong tục.

nội dung phong phú phản ánh muôn mặt của cuộc sống, thể hiện khả năng

* Câu đố

nhận thức của con người.

Câu đố của người Dao Tuyển được sử dụng rất nhiều trong các sinh hoạt
văn hoá. Căn cứ vào đối tượng, có thể phân chúng ra thành ba loại: Loại câu

*Thần thoại
Khác với các dân tộc anh em cho rằng, nhiều người sáng tạo ra thế giới,
người Dao Tuyển quan niệm chỉ một mình Bàn cổ sinh thế giới vũ trụ:
Bàn Cổ hình ngƣời, lông quỉ, mồm nhƣ cái kim

đố về tự nhiên (các hiện tượng thiên nhiên, cây cỏ, loài vât), loại câu đố về đồ
dùng (đồ dùng sinh hoạt, sách, vũ khí) và loại câu đố về con người.
* Tục ngữ

Đầu ngài là trời

Tục ngữ cuả người Dao Tuyển khá phong phú, với nội dung đúc kết kinh

Chân ngài là đất

nghiệm sản xuất, kinh nghiệm về cuộc sống, răn dạy cách ứng xử trong xã


Mắt trái của ngài là mặt trời

hội. Trong ứng xử, tục ngữ đề cao lối ứng xử hoà đồng, đề cao lối sống tình

Mắt phải của ngài là mặt trăng [50, tr.45].

nghĩa đoàn kết:
Rừng rộng chiêu nhiều thú

*Truyện cổ tích
Đồng bào Dao Tuyển thường kể chuyện cổ tích cho nhau nghe vào

Lòng rộng chiêu nhiều khách [50, tr.48].

những đêm trăng, những lúc đi đường, trong khi lao động sản xuất… ở đâu có

Ngoài các loại hình văn nghệ dân gian trên, người Dao Tuyển còn có

người tụ họp thì đồng bào lại kể cho nhau nghe. Truyện cổ tích của người Dao

một loại hình văn nghệ dân gian khác khá độc đáo. Đó là nghệ thuật tạo hình

Tuyển khá phong phú, bao gồm cả truyện cổ tích loài vật, truyện cổ tích thần

dân gian. Nghệ thuật tạo hình dân gian của người Dao Tuyển được thể hiện ở

kì và truyện cổ tích sinh hoạt. Đặc biệt, trong kho tàng cổ tích của người Dao

trang phục, ở nghệ thuật vẽ tranh thờ, ở nghệ thuật trang trí bàn thờ trong lễ


Tuyển có hệ thống truyện kể về các sự tích trong lễ cưới như sự tích gói muối

cấp sắc…

trong lễ vật cưới, sự tích vôi ăn trầu trong lễ vật cưới … Mỗi sự tích là một

Người Dao Tuyển ở Lào Cai tuy có dân số không đông, lại cư trú rải rác ở

truyện cổ tích, vừa lí giải các nghi lễ đám cưới, vừa có giá trị giáo dục mọi

hầu khắp các huyện nhưng vẫn có một nền văn nghệ dân gian khá độc đáo, góp

người khuyến thiện trừ ác.

phần không nhỏ làm phong phú thêm nền văn hoá truyền thống giàu bản sắc
của dân tộc Dao nói riêng và cả nền văn nghệ dân gian Vịêt Nam nói chung.

17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




1.2. Khái quát về thơ ca dân gian của ngƣời Dao Tuyển

1.2.1. Khái niệm thơ ca dân gian

1.2.2. Sơ lƣợc về thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển

Trước đây, cùng với thuật ngữ Ca dao, giới nghiên cứu khi nói về những

Ca hát là một trong những sinh hoạt văn hoá văn nghệ truyền thống độc

bài hát dân gian thường dùng thuật ngữ Phong dao (những câu hát dân gian

đáo, đồng thời cũng là nhu cầu sinh hoạt văn nghệ phổ biến của người Dao

có ý nghĩa giáo huấn đạo lí hoặc có liên quan đến phong tục truyền thống, tập

Tuyển. Người Dao Tuyển có hai thuật ngữ gọi các sinh hoạt ca hát là “jủng”

quán của người dân). Đến đầu những năm 50 của thế kỉ XX, với sự ra đời của

và “có”:

công trình Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan (in lần đầu
năm 1956), song song với thuật ngữ Ca dao, có thêm thuật ngữ Dân ca.
Hiện nay, trong các công trình nghiên cứu về văn học dân gian, các nhà
nghiên cứu vẫn dùng thuật ngữ Ca dao dân ca hoặc Thơ ca dân gian.

“Jủng” là hình thức hát các bài hát ngẫu hứng, người hát tự đặt lời, tự hát
và truyền miệng hoặc ghi chép lại cho các thế hệ. Ví dụ như: “Lô xây jủng”
(hát ru); “Ăy con jủng” (hát đám cưới); “Ăy cỏi mần jủng” (hát đám tang)…
“Có” là hình thức hát các bài hát theo nghi thức, nội dung được ghi chép


Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Kính, các nhà nghiên cứu quan niệm

trong các sách dạy hát bằng chữ Nôm Dao. Ví dụ như: “Bốn Vôồng có” (Hát

về Ca dao và Dân ca như sau: Dân ca bao gồm phần lời (câu hoặc bài), phần

kể về sự tích Bàn Vương), “Trang thấy có”(Tương tư ca),… Muốn học các

giai điệu (giọng hoặc làn điệu), phương thức diễn xướng và cả môi trường

bài hát này phải biết tiếng Nôm Dao hoặc nhờ người dạy hát.

khung cảnh ca hát. Còn “Ca dao đƣợc hình thành từ dân ca. Khi nói đến ca

Kho tàng thơ ca dân gian Dao khá đồ sộ, nhưng cho đến nay, mặc dù đã

dao ngƣời ta thƣờng nghĩ đến lời ca. Khi nói đến dân ca, ngƣời ta nghĩ đến

được các học giả trong và ngoài nước dày công sưu tầm, được Đảng và Nhà

cả làn điệu và những thể thức hát nhất định”[22, tr.79].

nước quan tâm đúng mức nhưng thơ ca dân gian người Dao Tuyển vẫn là một

Như vậy, có thể nhận định:“dùng danh từ ca dao để chỉ riêng thành

di sản văn hoá quý báu mang đậm bản sắc tộc người mà chúng ta vẫn chưa

phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca (không kể những tiếng


thể nắm bắt hết được cả về số lượng và nội dung. Công tác phân loại thơ ca

đệm, tiếng láy, tiếng đƣa hơi)” [70, tr.26].

dân gian người Dao Tuyển cũng chưa được đề cập nhiều nên chưa thực sự rõ

Theo Hoàng Tiến Tựu: “Thơ ca dân gian là một loại hình văn học dân

ràng và thống thất. Tuy vậy, căn cứ vào cách phân loại thơ ca dân gian của

gian có đối tƣợng rộng hơn, bao gồm phần lời thơ của tất cả các loại dân ca

các nhà nghiên cứu văn học dân gian, và dựa vào nội dung các bài thơ ca dân

và lời thơ trong các hình thức sáng tác dân gian khác” [70, tr.139].

gian của người Dao Tuyển, chúng tôi đồng tình với cách phân loại của tác giả

Như vậy, thuật ngữ Thơ ca dân gian người Dao Tuyển bao gồm phần lớn

Trần Hữu Sơn, tạm thời chia thơ ca dân gian Dao Tuyển thành các loại hình

các bài hát dân ca, các bài hát kể chuyện sự tích… của người Dao Tuyển. Thơ

như sau: Thơ ca lao động, thơ ca nghi lễ phong tục, thơ ca sinh hoạt [51,

ca dân gian với hàm nghĩa như trên sẽ là cơ sở để chúng tôi đi sâu tìm hiểu,

tr.24].


nghiên cứu Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai.

1.2.2.1. Thơ ca lao động
Thơ ca phản ánh quá trình lao động sản xuất của người Dao Tuyển tuy
không nhiều so với các loại hình khác nhưng cũng có một số bài rất đáng chú

19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




ý như: Các bài ca nông lịch 12 tháng. Tuy chưa có những bài ca phản ánh sự

bài kinh dưới dạng thơ ca. Các quyển kinh được đọc và ngâm theo điệu nhạc

gắn bó giữa nhịp điệu lao động với cảm xúc của con người trong lao động

có đệm trống, chiêng hay thanh la. “Châu báu tác thành độ nhấn huyền;

nhưng thơ ca lao động của người Dao Tuyển cũng đã gắn công việc lao động

Thuyền lướt qua trong luân hồi đó; Khi tụng như cơn mưa xuân nhỏ; Muôn

với nội dung phản ánh kinh nghiệm sản xuất, kinh lao động của con người.


dân vạn vật nảy sinh sôi…”[51, tr.31].

Điều đặc biệt là trong các bài ca lao động xuất hiện tương đối nhiều bài ca

* Thơ ca trong lễ cƣới

đối đáp, trao đổi tình cảm nam nữ mang tính chất giao duyên trên khung

Lễ cưới người Dao Tuyển ở Lào Cai là một hình thức sinh hoạt văn hoá

cảnh lao động.

dân gian độc đáo, được chia thành các nghi lễ: Lễ so tuổi, lễ dạm hỏi, lễ cưới,

1.2.2.2. Thơ ca nghi lễ phong tục

lễ lại mặt. Thơ ca đám cưới của người Dao Tuyển chủ yếu gắn chặt với các

Người Dao Tuyển quan niệm rằng: cuộc đời của mỗi con người đều phải

nghi lễ ấy. Đó là một hệ thống các bài hát được trình diễn giữa một bên là nhà

trải qua 5 giới (5 thời kì). Giới Nhi (từ khi đứa bé trong bào thai đến 10 tuổi),

trai và một bên là nhà gái từ khi nhà trai đi đón dâu đến khi kết thúc lễ cưới ở

Giới Hưng (thời kì từ 10 tuổi đến 50 tuổi), Giới Lão (thời kì ngoài 50 tuổi đến

nhà trai. Hệ thống các bài hát này được ghi chép thành tập thơ “Vằn ẳn có”


trước khi chết), Giới Ma (thời kì từ khi chết đến khi giỗ đầu), Giới Tiên (thời

(Hôn ân ca).

kì sau khi giỗ đầu).

* Thơ ca trong lễ mừng nhà mới

Ứng với mỗi giới lại có nhiều nghi lễ phong tục khác nhau. Trong các

Sau khi tổ chức xong các nghi lễ khánh thành nhà mới, người Dao

nghi lễ này đều có dấu ấn của thơ ca. Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở

Tuyển còn tổ chức lễ hát mừng nhà mới. Mở đầu là những bài hát của nam nữ

Lào Cai được sử dụng dưới các hình thức như hát cầu cúng, hát kể lại sự tích

trung niên có nhà cửa khang trang, có đủ con trai con gái đứng lên hát đối đáp

các thần nhằm cảm ơn, ca ngợi các thần thánh cai quản hoặc nhằm mục đích

chúc mừng gia chủ. Sau đó, chủ nhà trực tiếp hát để cầu mong thần thánh phù

cầu khẩn cho các lực lượng siêu nhiên phù hộ cho con người.

hộ cho gia đình gặp nhiều may mắn, cảm ơn sự giúp đỡ của họ hàng và dân

* Thơ ca trong lễ cúng trẻ sơ sinh


làng. Cuộc hát được tổ chức đến tận đêm khuya, diễn ra ngay bên mâm rượu,

Khi đứa trẻ sinh ra được ba ngày tuổi, người Dao Tuyển tổ chức lễ cúng
hát đặt tên. Trong nghi lễ cúng, người cha đứa trẻ sơ sinh trực tiếp múa và hát
bài hát với nội dung cầu mong thần linh phù hộ cho đứa trẻ được khỏe mạnh,

mọi người đều trong tâm trạng vui vẻ.
* Thơ ca trong tang lễ
Thơ ca là một bộ phận không thể thiếu trong tang lễ của người Dao

chiến thắng cái ác, cái xấu.

Tuyển. Khi có người thân quá cố, gia đình tang chủ phải mời người hát giỏi,

* Thơ ca trong lễ cấp sắc

đến hát phụ hoạ cho tiếng khóc than. Đồng thời thầy cúng trong một số nghi

Lễ cấp sắc được tổ chức khi con trai người Dao Tuyển chuẩn bị đến tuổi

lễ cũng trở thành thầy hát, hát các bài ca nghi lễ. Suốt các nghi lễ trong đám

trưởng thành (khoảng từ 10 đến 17 tuổi). Trong lễ cấp sắc có nhiều lễ khác

tang đều có người hát. Nội dung các bài hát đều bày tỏ sự xót thương của

nhau như lễ cấp sắc, lễ khai quang, khai khởi kinh đàn… và nhiều nghi lễ bên

người thân đối với người quá cố.


Đạo giáo. Trong một số nghi lễ thầy cúng truyền dạy cho đứa trẻ cấp sắc các

21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Bà yêu cháu vàng nối tổ tông

* Thơ ca trong các nghi lễ khác
Ngoài các nghi lễ đã nêu trên, người Dao Tuyển còn tổ chức các nghi lễ

Bánh trƣng bàn thờ cháu thờ cúng

tôn giáo khác như lễ cúng thần nông, lễ giải hạn, lễ làm chay…Các nghi lễ ấy
đều được tổ chức trang trọng và các thầy cúng đều diễn xướng các bài ca tôn
giáo. Tuy đây là những bài ca mang tính chất tôn giáo nhưng vẫn lấp lánh ánh

Đừng quên ông bà và tổ tiên [ 51, tr.44].
* Hát đồng dao
Người Dao Tuyển gọi hát vui chơi của trẻ em là “Ăy đao jủng” có

sáng soi rọi vào lịch sử hoặc phản ánh cuộc sống của con người.


nghĩa là vừa hát vừa chơi. Hầu hết các trò chơi của người Dao đều có bài hát

1.2.2.3. Thơ ca sinh hoạt

phụ hoạ. Các bài hát này thường miêu tả các trò chơi, cách chơi theo qui định

Thơ ca nghi lễ phong tục chủ yếu thể hiện mối quan hệ khách quan

của trẻ em với nhịp điệu dễ hát, phù hợp với nhịp điệu các trò chơi, thể hiện

giữa người hát đối với đối tượng, qua đó người hát ít nhiều gửi gắm tình cảm

tính chất hồn nhiên vui vẻ của lứa tuổi thơ.

chủ quan của mình. Khác với thơ ca nghi lễ phong tục, thơ ca sinh hoạt của

* Hát giao duyên

người Dao Tuyển chủ yếu thể hiện tình cảm chủ quan của người hát đối với

Tiếng hát giao duyên là phương tiện chủ yếu giãi bày tình cảm, trò

những đối tượng gần gũi, thân thiết như người mẹ với đứa con trong các điệu

chuyện tìm hiểu, trao đổi tình yêu của người Dao Tuyển. Hình thức hát giao

hát ru, những đứa trẻ trong hát đồng dao, các chàng trai, cô gái hát đối đáp

duyên của họ khá phong phú nhưng chủ yếu gồm hai hình thức: Hát tự phát


trong các bài ca giao duyên. Vì vậy, thơ ca sinh hoạt của người Dao Tuyển

đơn lẻ và hát có lề lối tổ chức. Hát tự phát đơn lẻ là hình thức hát của một nam,

chủ yếu là do người hát tự đặt lời truyền khẩu nên ít bị gò bó như hát theo

một nữ hoặc một tốp nam nữ tình cờ gặp nhau giữa chợ, trên nương, trên

nghi lễ.

đường đi chơi, tự cất tiếng hát với nhau. Nội dung những bài hát này do hoàn

* Hát ru

cảnh ứng tác và người hát tự quyết định. Hát có lề lối tổ chức là hình thức hát

Hát ru của người Dao Tuyển ở Lào Cai khá phong phú với những bài

được hai bên chuẩn bị trước, được thống nhất tổ chức theo những nghi thức

hát ru của bà ru cháu, mẹ ru con, chị ru em và tuỳ theo thời gian mà có những

khá chặt chẽ, điển hình như hát hội đầu xuân, hát qua làng, hát xin cốm.

bài hát ru buổi sáng, hát ru buổi trưa, hát ru buổi tối. Chức năng chủ yếu của

* Tín ca (Thƣ ca)

lời hát ru là tạo nên nhịp điệu êm ái để đưa đứa trẻ vào giấc ngủ, nội dung chủ


Ở Lào Cai, có lẽ chỉ có người Dao mới có hình thức thơ ca dân gian

yếu là thể hiện tình cảm của người hát ru đối với đứa trẻ. Đặc biệt, người Dao

độc đáo này. Thư ca là loại dân ca được ghi chép thành sách (bằng chữ Nôm

Tuyển có bài hát ru của bà nội đối với cháu đích tôn “Bồ hôố xây sủn tòn

Dao) để lưu truyền cho con cháu. Người Dao Tuyển ở vùng thượng nguồn

con” – Bài hát ru cháu trai gốc. Nội dung của nó vừa thể hiện tình cảm yêu

sông Hồng còn lưu giữ 4 loại thư ca khác nhau. Đó là thư ca giao duyên, thư

quý của bà nội vừa nhắc nhở trách nhiệm nối dõi tông đường của cháu :

ca than thân, thư ca nhờ giúp đỡ và thư ca thiên di. Thư ca than thân và thư ca

Cháu nội của bà ngủ ngoan

giao duyên được gọi là “Chắn”, còn thư ca thiên di và thư ca nhờ giúp đỡ

Ôi vàng của bà, bà qúi cháu lắm

được gọi là “jủng”. Hai loại này có đặc điểm riêng là : “Chắn” thường có tính

Bao nhiêu của quí bà không thích

chất giãi bày tâm sự, thiên về tính chất trữ tình, hướng nội. Còn “jủng” thì có


23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




tính chất kể lể, kêu gọi, thiên về tự sự và hướng ngoại, hướng tới cộng đồng.

vô cùng độc đáo đòi hỏi phải tiếp tục bảo tồn và phát huy những yếu tố tích

Thư ca được sáng tác bằng thể thơ 7 chữ, có thể chỉ do một người viết nhưng

cực phục vụ cho cuộc sống hiện tại và tương lai.

lại được lưu giữ, diễn xướng phổ biến trong cộng đồng người Dao Tuyển và

Thơ ca dân gian đối với người Dao Tuyển không chỉ thực hiện chức

trở thành bài hát, là tài sản chung của cộng đồng.

năng biểu hiện trao gửi tình yêu lứa đôi mà còn soi chiếu phong tục tập quán,

1.2.3. Vai trò của thơ ca dân gian trong đời sống tinh thần của ngƣời


truyền thống tín ngưỡng của đồng bào Dao Tuyển với một thái độ nhân sinh

Dao Tuyển

sâu sắc. Qua diễn xướng thơ ca dân gian biết bao chàng trai cô gái đã nên vợ

Thơ ca dân gian là một thể loại tiêu biểu, là di sản văn hóa phi vật thể có

nên chồng rồi biết bao đôi lứa khi đã yêu nhau thường muốn mượn lời ca

vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của đồng bào Dao Tuyển ở Lào

tiếng hát để bộc bạch tâm sự. Tình cảm của mẹ dành cho con, của bà đối với

Cai. Cùng vời các thể loại văn học dân gian khác như sử thi, thần thoại,

cháu, của chị đối với em nhỏ thật thiết tha, sâu nặng nghĩa tình.

truyền thuyết, truyện cổ tích…thơ ca dân gian người Dao Tuyển đã góp phần

* Tiểu kết

làm phong phú thêm kho tàng văn học dân gian của dân tộc Dao nói riêng,

Tộc người Dao Tuyển ở Lào Cai có truyền thống lịch sử lâu đời, có nền

góp phần tạo nên bản sắc văn hoá người Dao trong bản sắc chung của văn hoá

văn hoá văn học dân gian khá phong phú và đa dạng. Trong tổng thể văn hoá


các dân tộc Việt Nam.

dân gian nói chung và văn học dân gian của cộng đồng người Dao Tuyển nói

Qua thơ ca dân gian người Dao Tuyển chúng ta có thể thấy được phần

riêng, thơ ca dân gian giữ một vai trò hết sức quan trọng, phản ánh mọi mặt đời

nào bản sắc văn hoá, tôn giáo tín ngưỡng và vẻ đẹp tâm hồn phong phú, đa

sống tinh thần, phong tục tập quán, tín ngưỡng của con người. Có thể nói rằng,

dạng của con người. Thơ ca dân gian được diễn xướng trong các lễ hội dân

thơ ca dân gian người Dao tuyển như một nguồn suối ngọt ngào hoà vào dòng

gian, trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày, trong lao động sản xuất và trong

chung văn hoá văn nghệ dân gian của đồng bào Dao, góp phần làm cho con

vui chơi, giải trí, trên đường đi nương, khi khánh thành những ngôi nhà mới,

người đẹp lên cả về nhân cách và tài năng, khơi dậy niềm vui trong cuộc sống

khi lại thu hút cả bản làng vào những cuộc hát giao duyên như hát hội đầu

sinh hoạt, trong lao động sản xuất làm cho bản làng ngày càng tươi đẹp hơn.

xuân, hát qua làng, hát xin cốm…Tất cả những điều đó chứng tỏ rằng: sinh


Trên đây chỉ là một vài nét khái quát về lịch sử tộc người, đặc điểm

hoạt thơ ca dân gian là một hình thức sinh hoạt văn hoá giữ vai trò quan trọng

truyền thống văn hoá, văn học dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai,

trong đời sống văn hoá tinh thần của người Dao Tuyển.

trong đó có thơ ca dân gian. Những vấn đề đó chỉ mang tính chất giới thiệu,

Thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai là một nguồn tư liệu quý về
phản ánh đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá của người Dao. Đặc biệt là qua thơ

làm nền cho việc tìm hiểu, nghiên cứu sâu về nội dung và nghệ thuật của Thơ
ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai.

ca (tín ca) người đọc sẽ hình dung ra được lịch sử di cư, nguồn gốc của người
Dao Tuyển. Kho tàng thơ ca dân gian ấy chứa đựng những tri thức về nhiều
mặt như lịch sử văn hoá, địa lí, dân tộc học…và có giá trị văn học nghệ thuật

25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

26


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





CHƢƠNG 2. NỘI DUNG THƠ CA DÂN GIAN NGƢỜI DAO

2.1. Vài nét khái quát về cuộc sống của ngƣời Dao Tuyển qua thơ
ca dân gian

TUYỂN Ở LÀO CAI

Như chúng tôi đã trình bày ở chương 1, người Dao Tuyển có nguồn gốc
Thơ ca dân gian không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con
người. Lấy nguồn cảm hứng từ cuộc sống, thơ ca dân gian được sáng tạo nên.
Nó là cái hay cái thơm của dân tộc. Nhất là đối với người Dao Tuyển ở Lào
Cai, cư trú ở những nơi non xanh, núi biếc, suối sâu, rừng thẳm. Ở những
vùng như thế chỉ có ca hát mới làm cho vui bản, vui làng. Hát để cho cuộc
sống bớt vắng lặng, hát để giãi bày tâm sự, để trao duyên tình tứ, để thể hiện
ước mơ, để hăng say lao động làm cho bản làng ngày càng giàu đẹp hơn. Vì
thế nó phù hợp với mọi lứa tuổi, mọi đối tượng. Các già làng dùng lời ca nghi
lễ để bày tỏ niềm tôn kính đối với các vị thần linh, các em nhỏ mượn lời hát
đồng dao để vui chơi, giải trí, các chàng trai cô gái dùng lời hát giao duyên để
bày tỏ nỗi niềm với nhau. Đó là nhu cầu thiết yếu của con người. Đúng như
Gorki đã từng nhận định: “Con ngƣời không thể sống mà không vui sƣớng
đƣợc, họ phải biết cƣời đùa, họ sáng tạo nên những bài hát vui tƣơi, họ thích
nhảy múa” [69, tr.8]. Trong kho tàng thơ ca các dân tộc Việt Nam, đã có
không ít các lời thơ thể hiện nhu cầu thiết yếu đó. Đây là khúc hát giao duyên
của người Dao:

lạc, do bị bóc lột ức hiếp hoặc do cuộc sống làm ăn khó khăn mà họ đã di cư
đến Việt Nam. Thư ca thiên di người Dao Tuyển ở Lào Cai đã phản ánh rõ nét
quá trình thiên di của tộc người này đến Lào Cai sinh sống với thời gian, niên
đại, các địa danh đi qua, lưu trú… rất cụ thể. Người Dao từ Quảng Tây (

Trung Quốc ) đến Vân Nam rồi theo hướng sông Hồng vào Việt Nam, định cư
ở Châu Thuỷ Vĩ ( Lào Cai ):
Năm Giáp Thân triều Minh kết thúc
Ngƣời Dao li tán khắp nơi nơi
Một đƣờng là núi Nam bộ Quý Châu
Đƣờng thứ hai là đất Giao Chỉ của Việt Nam
Toạ lạc ở núi phƣơng Bắc của Việt Nam
Đƣờng thứ ba trôi theo hƣớng Hải Nam
Đƣờng thứ tƣ đến Vân Nam phân thành hai ngả
Một ngả ở phủ giám biên sông Hồng
Sinh sống theo hƣớng châu Mộng Tự
Cho đến năm Tân Dậu triều Thanh

Bốn bề các bạn hát đều hay
Thua đƣợc cần gì ta cứ say [69, tr.198].
Hay trong thơ ca M.Nông:

Đến Hà Khẩu, đến Quỳnh Sơn [51, tr.57].
Đến Lào Cai, người Dao Tuyển mong muốn có một cuộc sống ổn định
ấm no và hạnh phúc. Nhưng là những người đến sau, thiếu đất, thiếu ruộng

Thiếu tiếng đàn tiếng hát
Nhƣ thiếu muối thiếu cơm [18, tr.708].
Thơ ca dân gian người Dao Tuyển có nội dung khá đa dạng, phản ánh
một cách sinh động hiện thực đời sống, thể hiện sâu sắc tư tưởng tình cảm,
tâm hồn, tính cách, phong tục tập quán, đời sống tín ngưỡng, tình yêu lứa đôi
của con người.
27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


từ Trung Quốc. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau như chiến tranh, loạn

nên họ phải cư trú ở những vùng núi cao. Thiên nhiên hùng vĩ nhưng cũng
không kém phần dữ dằn và khắc nhiệt bởi gió mưa, thác lũ, nắng hạn… thêm
vào đó là thú rừng tàn phá nương rẫy, làm cho cuộc sống của họ hết sức vất
vả và khó khăn. Trai gái người Dao Tuyển vẫn thường nhắc lại hình ảnh
những năm trời hạn kéo dài trong khúc hát giao duyên của mình:

28


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Trời hạn ba năm hoa khô rụng

Chỉ bởi nhà nghèo đau thƣơng lòng

Nông dân cày cấy chẳng đƣợc mùa

Vì em không lấy đời anh khổ

Chợt nghe sấm rền mƣa gió đến

Trăm nhớ ngàn thƣơng nƣớc mặt rơi [51, tr.267].

Chín năm ao tù thấy nƣớc trôi [51, tr.177].


Những lời thơ ấy không chỉ phản ánh hiện thực xã hội của người Dao

Cuộc sống khắc nghiệt khiến cho con người phải đối mặt với trăm bề

xưa mà còn là tiếng lòng đầy ai oán, tủi hờn của những con người bất hạnh.

thiếu thốn. Thế nhưng với bản tính cần cù chịu khó, với lòng lạc quan yêu

Tiếng hát than thân của người Dao Tuyển là một mảng nội dung đáng được

đời, trong sâu thẳm con người vẫn ấp ủ một niềm tin tưởng và hi vọng vào

quan tâm, bởi nó thể hiện ý thức của người Dao về thân phận của mình.

tương lai tốt đẹp:

2.2. Thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển là tiếng ca ai oán của những
Suốt đời làng bản không ánh sáng

ngƣời mồ côi bất hạnh

Chờ đợi nắng trời soi khắp nơi [51, tr.165].

Hầu hết các tộc người thiểu số ở Lào Cai đều có tiếng hát than thân
như: Người H.Mông có tiếng hát làm dâu nói về nỗi khổ của người làm dâu

Mong cho thời tiết đƣợc thuận hoà

(chủ yếu là do bị ép duyên) và tiếng hát mồ côi kể, than về những nhọc nhằn,


Năm năm cày cấy, mùa bội thu

cơ cực của kiếp người mồ côi, không nơi nương tựa, với những ước mơ cháy

Vạn vật sinh sôi, ngƣời vui vẻ

bỏng có cuộc sống bình thường như bao người bình thường khác; Người Dao

Nam nữ gọi tình chẳng nghỉ ngơi [51, tr.177].

Tuyển có thơ ca than thân (Thằn thỉm chắn), chủ yếu là những tiếng hát than

Trong cuộc sống, mỗi khi gặp khó khăn khắc trở, gặp cảnh ngộ éo le,

dành cho những kẻ mồ côi, không nơi nương tựa; Tiếng hát than thân dân tộc

con người lại dùng lời ca tiếng hát của mình để bộc bạch tâm sự, để chia sẻ

Giáy thể hiện nỗi khổ cực của người con gái bị ép duyên, những người mồ côi

bớt nỗi niềm, để mọi người thấu hiểu và cảm thông với hoàn cảnh éo le. Khi

hoặc những người phải chịu cảnh khổ cực khác trong cuộc sống.

xã hội cộng đồng bị phá vỡ thì sự phân hoá giai cấp, phân hoá giàu nghèo

Trong phần này, chúng tôi xin được đề cập đến thơ ca than thân của tộc

diễn ra. Những kẻ giàu có coi khinh người nghèo không bằng con vật nuôi


người Dao Tuyển. Tuy nhiên, trong khuôn khổ hạn hẹp, người viết chỉ đề cập

trong nhà chúng. Đây là lời bộc bạch của một người nghèo:

đến một dạng bài ca - tiếng hát than thân của những kẻ mồ côi.

Con chó đến làng đƣợc ăn cơm

Tiếng hát mồ côi bao gồm những những bài ca miêu tả nỗi khổ đau, cơ

Ngƣời nghèo đến nhà ngồi ngoài cửa [51, tr. 268].

cực, đa số mang tính chất tự thán của những người mồ côi bất hạnh. Tiếng hát

Cái nghèo đã dẫn đến cảnh bao chàng trai cô gái phải chia lìa đôi lứa.

mồ côi có thể được diễn xướng trong những ngày thường, khi kẻ mồ côi cảm

Bởi tục lệ của người Dao vẫn còn nặng nề với tính chất mua bán rất rõ. Đây là

nhận nỗi buồn khổ, trống vắng, đơn côi mà cất lên tiếng hát than, cũng có khi

lời của chàng trai nghèo trước tình yêu lỡ dở:

được cất lên trong một cuộc hát giao duyên nào đó. Tiếng hát mồ côi không

Phúc mạng không có đời buồn tâm

chỉ có người mồ côi hát mà tất cả mọi người đều có thể hát như là một tiếng


Bàn tay không tiền là vì số

lòng chung vậy, cho nên nó có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

30


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Về nội dung tiếng hát mồ côi của tộc người Dao Tuyển ở Lào Cai khá

Từ đó, người mồ côi nhận thấy những nghịch cảnh của cuộc sống: mình

phong phú, tuy nhiên có thể khái quát thành những vẫn đề chủ yếu sau:

thì không cha, không mẹ, người đời thì có mẹ có cha; cùng trang lứa nhưng

2.2.1. Nghịch cảnh của những thân phận mồ côi

thân phận mồ côi hoàn toàn khác với con người bình thường khác:

Tiếng hát mồ côi thường nêu lên nghịch cảnh của người mồ côi qua đó tố

Ngƣời cùng tuổi sƣớng sao tôi khổ [51, tr. 262].


cáo những ngang trái, bất công trong xã hội cũ. Đây chủ yếu là những bài tự
thán của người mồ côi kể về nỗi khổ của mình. Người thì khi sinh ra không có

Đƣợc thấy anh em có thành đôi

cha mẹ hoặc cha mẹ chết sớm :

Tôi lại cô đơn ve sầu thƣơng [51, tr264].

Khi sinh ra không còn bố mẹ

Mẹ ngƣời nuôi đƣợc nam nữ vui

Bố mẹ chết lúc bò tập lẫy

Những ngƣời sinh, đẹp ai cũng thích

Khi tập nói gọi bố không thƣa

Tôi sinh, không đẹp bằng ngƣời khác

Khi đói lòng không dòng sữa mẹ [51, tr.263].
Kẻ thì mất cha từ khi còn bé, mẹ đi lấy chồng khác, bỏ lại con bơ vơ
một mình:

Thân thể không lành thấy xấu hổ [51, tr. 266].
Từ những nhận thức so sánh ấy, dẫn đến những nhận thức về cuộc đời
của kiếp người mồ côi cơ cực, bi thương và tạo nên tiếng hát than. Tiếng hát


Trƣớc kia còn bé bố đã chết

mồ côi nêu lên nghịch cảnh của người mồ côi không chỉ có trong thơ ca dân

Mẹ lấy chồng khác con bơ vơ

gian người Dao Tuyển ở Lào Cai mà dường như nó là tiếng lòng chung của

Mẹ vui vẻ đâu biết con đau [51, tr.258].

những người mồ côi trong thơ ca than thân của các tộc người thiểu số. Trong

Sống không nơi nương tựa, thiếu thốn tình thương yêu của mẹ cha,

dân ca Giáy cũng thường xuyên xuất hiện những lời thơ nói lên nghịch cảnh

người mồ côi bị mọi người đối xử tồi tệ, bị anh em xa lánh, thậm chí bị coi

này. Cũng là con trẻ nhưng thân phận mồ côi hoàn toàn khác với những đứa

thường, khinh rẻ không bằng những con vật nuôi trong nhà:

trẻ kia:

Con chó đến làng đƣợc ăn cơm

Trẻ ngƣời dùng bát hoa

Ngƣời nghèo đến nhà ngồi ngoài cửa


Cho mình dùng bát đất

Trên đời ăn mày thật khổ sở

Trẻ ngƣời ăn xôi lá múng

Anh em mọi ngƣời cũng chia rẽ [51, tr.268].

Còn mình hai tay bốc
Bữa ăn không khác lợn

Ăn xin ăn mày đâu cũng tới

Bữa ăn chẳng khác chó [56, tr.69].

Anh em xa cách chẳng hiểu nhau [51, tr. 257].

Cũng là con người nhưng:
Đời ngƣời sinh ra
Số may gặp đƣợc toàn điều tốt lành

31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

32


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





Đời ta sinh ra

Vì em không lấy đời anh khổ

Số không may sao khổ vậy [18, tr.729].

Trăm nhớ ngàn thƣơng nƣớc mắt rơi [51, tr.267].
Những lời ca thực sự là những tiếng khóc than của những cuộc đời đầy

2.2.2. Tâm trạng đau thƣơng của kẻ mồ côi
Hầu hết tiếng hát mồ côi đều bộc lộ tâm sự đau thương, đôi khi là những

khổ đau, đoạ đầy:

lời than vãn đến nao lòng của người mồ côi. Đây chính là cảm hứng chủ đạo

Một năm ba trăm sau mƣơi ngày

trong tiếng hát mồ côi của tộc người Dao Tuyển ở Lào Cai. Tự thân những bài

Mọi ngày trầm luôn chẳng thấy sáng [51, tr.274].

hát đó đã có sức lay động lòng người, gợi lên trong lòng người đọc những
tình cảm nhân văn, xót thương cho những thân phận bất hạnh.
Cái khổ của người mồ côi được thơ ca dân gian miêu tả là nỗi khổ đương
nhiên, vốn có của những con người vô thừa nhận, những con người không nơi
bấu víu, lang thang nay đây mai đó, ở đợ hết nhà này đến nhà khác để kiếm
miếng ăn, làm những công việc nặng nhọc vất vả, đầu tắt mặt tối nhưng cuộc

đời rốt cục vẫn cô quạnh:

Nƣớc mắt lăn dài qua ngày tháng [51, tr.272].
Tình cảnh này, chúng ta cũng thường thấy trong dân ca H.Mông:
Mặt trời mọc, mồ côi theo mặt trời mà khóc
Mặt trời lặn, mồ côi theo mặt trăng mà than [18, tr.728].
Những lời ca không chỉ thể hiện tình cảnh khổ đau triền miên của kẻ
mồ côi, mà nhiều khi còn làm cho chúng ta thấy “nhân vật mồ côi đã nảy sinh

Tôi là kẻ lang thang cơ nhỡ

những tâm trạng khác nhau nhƣ thế nào trƣớc tình cảnh đó. Đứng trƣớc cuộc

Đợ hết mọi nhà kiếm miếng ăn

đời tăm tối, khổ đau đó, chƣa đƣợc ánh sáng chân lí nào soi rọi, chỉ đƣờng, ta

Phải làm vất vả đầu mặt tối

dễ cảm thông với những tâm lí tiêu cực nảy sinh trong những con ngƣời bất

Cuộc đời cô quạnh số mệnh tôi [51, tr.262].

hạnh đó”[ Dẫn theo 18, tr.729].

Đây là lời khóc than của một kẻ mồ côi về già mà ai cũng phải chạnh
lòng nước mắt:

Tiếng hát mồ côi không đơn thuần chỉ là sự ca thán cho cảnh khổ cực
vì phải đi làm thuê, làm mướn… mà hơn tất cả những điều đó là những cảm


Già rồi trong ngƣời trăm thứ bệnh

nhận xót xa về cảnh cô đơn. Đó chính là sự mất mát, thiệt thòi của thân phận

Tối ngủ đến trƣa không dậy đƣợc

con người trước cuộc đời, không chỉ là mồ côi bố mẹ mà là cảm nhận về sự

Lúc khát nƣớc không có con lấy

mồ côi trước cuộc đời:

Chống gậy bò lo hết cả đời

Cuộc đời cô quạnh số mệnh tôi

Giờ lang thang nhƣ con ma đói

Tôi không có nụ cƣời ánh mắt

Chỗ nào cũng bò đi tìm ăn [51, tr.260].
Còn đây là lời khóc than của một chàng trai mồ côi, vì nghèo mà lỡ dở
trong tình yêu:

Bởi nƣớc mắt nó đã cạn dòng [51, tr.263].
Không chỉ có người Dao Tuyển mà tiếng hát mồ côi của dân tộc khác
cũng bộc lộ sự cảm nhận về sự mồ côi trước cuộc đời như bài hát chàng Dăm

Chỉ bởi nhà nghèo đau thƣơng lòng


33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Tông của người Xơ Đăng:

34


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Mẹ ta đã đi

Ngƣời nghèo không tiền tiếc mà thôi

Cha ta đã khuất

Chỉ đợi ngày đến gặp Diêm Vƣơng

Cậu ta đã đi lấy vợ

Mới vay tiền cho đời phú quý [51, tr.261].

Chị ta mải lo trông con

Hay:


Ta còn biết bám vào đâu

Ngƣời già sống đời khổ thế nào?

Ta còn biết bấu níu vào ai.

Chắc là đời sau tôi mới sƣớng [51, tr.262].

Hay tiếng khóc than trong dân ca H.Mông:

Tuy vậy, đâu đó vẫn lóe lên những ý nghĩ đúng đắn, vốn có trong ý thức

Mẹ cha chết mồ côi không gia đình

của con người lao động, khẳng định tinh thần tự tin, tự cường của con người,

Nhƣ ve sầu rên rỉ trời xanh [18, tr.728].

có thể vượt qua được số mệnh khắc nghiệt như lời của người Dao:

Nếu như nhận vật mồ côi trong các truyện cổ tích thường được những
lực lượng thần kì trợ giúp chiến đấu và giành được chiến thắng trở thành
những anh hùng trong ước mơ của nhân dân thì trong tiếng hát mồ côi, tộc
người Dao Tuyển đã bổ sung thêm một phần quan trọng mà cổ tích không đề

Cây cải chịu sƣơng còn nảy lộc
Con ngƣời hẳn vƣợt vận khổ đau [18, tr.729].
Họ tin vào sức lực của mình có thể vượt qua được gian khổ để xây dựng
cuộc sống ấm no hạnh phúc như những người bình thường khác:


cập hết được. Đó là việc đi sâu vào khai thác đời sống nội tâm, đi sâu vào

Con chim côi chịu rét vẫn bay cao

khai khác những diễn biến tình cảm trong chiều sâu tâm hồn con người,

Mồ côi chăm chỉ vẫn bằng ngƣời [51, tr.55].

những mặc cảm, những day dứt, những đau đớn xót xa của những thân phận

Thì cố chịu cực, đợi lớn khoẻ

mồ côi bất hạnh.

Làm ăn, gắng sức khắc bằng ngƣời [18, tr.730].

2.2.3. Tinh thần tự chủ, ƣớc mơ về một tƣơng lai tƣơi sáng

Niềm tin đó, ước mơ đó, không chỉ có trong tiếng hát mồ côi người Dao,

Đứng trước những cuộc đời tăm tối, khổ đau của kiếp mồ côi, ta dễ cảm

mà hầu như ta bắt gặp nó, nhận thấy nó trong tiếng hát mồ côi của các tộc

thông với những tâm lí tiêu cực nảy sinh trong những con người bất hạnh đó.

người thiểu ở Việt Nam. Đây là ước mơ của người H.Mông về một cuộc sống

Họ nghĩ quẩn quanh theo cách suy nghĩ thông thường thủa xưa:


tương lai tươi sáng, được sung sướng hạnh phúc:

Ngƣời đã ăn mày khổ suốt đời

Ƣớc chi ngày sau đây, gái mồ côi yêu trai mồ côi

Sớm sớm đêm đêm khổ thân tôi [51, tr.268].

Trai mồ côi yêu gái mồ côi

Người mồ côi cố tìm nguyên nhân của cuộc sống khổ cực, đôi khi quy
cho số phận cay đắng:

Gái mồ côi lấy đƣợc trai mồ côi
Trai mồ côi lấy đƣợc gái mồ côi

Số sinh ngày khổ em không biết

Trai mồ côi sẽ cày xong ba đƣờng

Biết nhờ cùng ai đƣợc cùng em [51, tr.55].

Gái mồ côi sẽ cai quản gia đình đông vui tấp nập [59.].

Có khi nảy sinh tâm trạng tuyệt vọng ở cõi trần:

35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

36



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Tiếng hát mồ côi toát lên tinh thần nhân đạo sâu sắc. Đó là tinh thần

Gõ cửa? Đôi lời cùng cất cao ngây ngất

“thƣơng ngƣời nhƣ thể thƣơng thân”. Đó là tình thương yêu, đùm bọc lẫn

Đón gió tình xuân đêm nay vui [51, tr.48].

nhau giữa con người với con người. Tiếng hát mồ côi đã giúp ta cảm nhận

Lời hát diễn tả thật sinh động niềm vui sướng, niềm khát khao được gặp

được sự gần gũi giữa các dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt

gỡ để bộc bạch nỗi lòng của các chàng trai, cô gái. Có chứng kiến những cuộc

Nam. Phải chăng, vì vậy mà các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết

hát giao duyên như hát hội đầu xuân, hát qua làng, hát xin cốm, chúng ta mới

gắn bó, tương thân tương ái trong suốt thời kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước.

hiểu rõ tâm hồn của những con người sống trong môi trường khép kín, vốn ít


2.3. Thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển thể hiện một quan niệm đẹp về

nói kiệm lời, vậy mà lúc gặp gỡ nhau họ lại say sưa hết mình với một tâm hồn

tình yêu và hôn nhân của con ngƣời

rộng mở, chân thành:

Cuộc sống của người Dao Tuyển xưa rất bấp bênh, thiếu đói triền miên,

Nếu có sấm kêu thì vui vẻ

xã hội đầy rẫy những bất công, ngang trái khiến cho muôn vàn thân phận phải
chịu cảnh cơ cực, éo le, trắc trở. Thế nhưng, trong cuộc sống cùng cực, tăm
tối đó, con người vẫn luôn toả sáng những nét đẹp về tư tưởng, tình cảm, tâm

Nhộn nhịp phóng liêng hát đêm nay [51, tr.164].
Khi đã bước vào cuộc vui, họ hăng say hát hết mình mà không nghĩ đến
chuyện thắng thua, hát hay hay hát dở:

hồn đáng được trân trọng, ngợi ca. Vẻ đẹp ấy, trước hết được thể hiện trong

Một hai ba bài chƣa nhƣ ý

quan niệm về tình yêu và hôn nhân của con người.

Lại hát thêm nhiều đừng thắc mắc [51, tr.166].

2.3.1. Những cung bậc tình cảm trong tình yêu của ngƣời Dao Tuyển

Câu nào phạm lỗi thông cảm cho

2.3.1.1. Niềm vui buổi đầu gặp gỡ
Ngay từ những buổi đầu gặp gỡ, trai gái người DaoTuyển đã bộc lộ niềm
vui, khát vọng giao lưu tình cảm, giãi bày tâm sự của mình qua câu hát. Đây
là lời hát mời các chàng trai vào hội của cô gái:

Câu nào đáng yêu anh nhớ lòng [51, tr.168].
Đó là một cách ứng xử phù hợp với điều kiện xã hội dân cư thưa thớt,
phù hợp với cách sống của con người miền núi. Mỗi năm mở hội một lần như

Đƣợc thấy các anh đã đến đây

vậy cũng đủ để họ bước vào cuộc sống lao động mới vui vẻ, tự tin hơn.

Cả làng trai gái đều vui vẻ [51, tr.172].
Còn đây là lời hát hỏi của chàng trai:

Ngay từ những buổi đầu gặp gỡ, khát vọng tình yêu trong tâm hồn nam
nữ đã ăm ắp tràn đầy. Bởi cuộc hát giao duyên không chỉ là nơi để những

Xin chào!

người bạn cũ gặp nhau tâm tình, những người có đôi có lứa được sống trong

Đi theo hƣớng gió thổi đƣờng đƣa đến

những ngày tự do, vui vẻ ca hát mà nó còn có ý nghĩa nhân văn sâu sắc - cuộc

Làng trù phú, gái làng đẹp có cho vào.


hát là nơi để trai gái bày tỏ tình yêu lứa đôi. Câu hát dưới đây bộc lộ rõ khát

Bên nữ hồ hởi hát đáp:

vọng ấy:

Vƣờn xuân! Ông chủ đƣa hoa hƣơng thơm nức

Nếu gọi đƣợc tình thoả ý nguyện

Cửa làng rộng mở. Hƣơng bay cao

Chẳng quên nghĩa sâu nơi Đông Viên [51, tr.175].

37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

38


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Ngƣời muốn gặp ngƣời bởi tình riêng

Nhìn chung những câu hát giao duyên buổi đầu gặp thường mang âm


Nếu trời không phụ lòng lƣơng thiện

hưởng sôi nổi, vui tươi. Nhưng đối với mỗi dân tộc trong từng câu hát âý, bản

Tơ duyên đêm nay mong thoả ý [51, tr.176].

sắc vẫn được thể hiện. Nếu các chàng trai, cô gái Vân Kiều sôi nổi, thiết tha

Hay:

ngay từ buổi đầu gặp gỡ; trai gái Thái biểu hiện tình cảm một cách vòng vo
Thật thoả đôi lòng uổng nhớ mong

tình tứ, thì các chàng trai, cô gái người Dao Tuyển lại bộc lộ tình cảm một

Làm cho đêm thâu nghĩ quẩn quanh

cách bộc bạch chân thành nhưng cũng không kém phần tinh tế, thiết tha.

Ta nhƣ mặt trời phơi cỏ mới…

Những câu hát thể hiện niềm vui trong buổi đầu gặp gỡ của các chàng

Quyết không thể rời nơi lâm ngọc

trai, cô gái người Dao Tuyển đã phần nào nói lên vẻ đẹp tâm hồn của họ -

Mong cho cha mẹ kết cho ta [51, tr.163].

luôn lạc quan, yêu đời và tràn đầy khát vọng tình yêu.


Trai gái gặp nhau để thoả lòng mong nhớ, họ gặp nhau với niềm vui phơi

2.3.1.2. Nỗi nhớ khi xa cách

phới như mặt trời phơi cỏ mới và họ quyết không rời xa nhau. Những hình

Trong thơ ca giao duyên của tộc người Dao Tuyển các sắc thái tình cảm

ảnh đêm thâu nghĩ quẩn quanh, mặt trời phơi cỏ mới đã diễn tả thật sâu sắc,

diễn ra khá tinh tế đa dạng, song có lẽ, sắc thái tình cảm đọng lại sâu lắng

thấm thía tâm trạng của con người.

nhất trong tâm khảm những người đương cuộc là những lời hát thắm thiết

Niềm vui trong buổi đầu gặp gỡ, khi tình yêu mới chớm nở không chỉ
có trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển mà nó còn khá quen thuộc trong
thơ ca dân gian của các tộc người anh em khác. Đây là tâm trạng xao xuyến
và thiết tha trìu mến của chàng trai người Vân Kiều trên đường đến gặp
người yêu:

trong chặng dặn dò chia tay. Đây là tâm trạng đau như dứt lòng của chàng trai
khi sắp phải chia tay cô gái trong đêm hát qua làng:
Lời qua ý lại câu câu đẹp
Câu đến câu đi nhƣ dứt lòng [51, tr.196].
Và đây là tâm trạng của chàng trai trong hát hội đầu xuân:

Bóng em lấp loáng nhƣ sao mới mọc


Nƣớc mắt tuôn rơi cũng phải về

Dáng em lấp loáng nhƣ vành trăng non

Chỉ mang thân khô về đất cũ

Hình em vằng vặc nhƣ trăng đêm mƣời bảy, ngƣời ơi!

Đêm về hồn đơn chẳng nơi yên [51, tr.184].

Ta đi tìm gặp , ngƣời ơi!
Chàng trai người Thái từ xa nhác thấy cô gái, lòng đã rạo rực hẳn lên
nhưng còn ý tứ vòng vo:

Đêm ngắn ngày dài sao đau ý
Một tiếng gà gáy lệ mƣời dòng [51, tr.179].

Thấy má đỏ hồng muốn hỏi

Khi chia tay nhau, họ dùng dằng chẳng muốn rời nhau. Tình yêu gặp gỡ

Thấy đôi mắt liếc muốn say

một lần nhưng nỗi nhớ đã khắc sâu trong tâm khảm của kẻ ở người đi:

Rau ai đây, xin mƣợn hái

Quay chân lui bƣớc nƣớc mắt rơi


Bạn tình ai, xin mƣợn trò chuyện [18, tr.720].

Chẳng biết khi nào lại gặp gỡ

39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

40


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Gặp gỡ một lần nhớ vạn lần [51, tr.198].
Khi xa cách, họ luôn hướng về nhau, luôn lo lắng cho nhau, có những lời

tâm trạng oán trách, tủi cực. Đây là nỗi lòng cay đắng của chàng trai khi tình
yêu lỡ dở:

thơ nói lên nỗi thương nhớ của những con người vốn ít nói, kiệm lời nhưng

Em ơi em!

tình cảm thì không ai dám nói là không sâu sắc mãnh liệt:

Con tim ta có ai nhìn thấy

Chẳng thấy đƣợc em não não lòng


Dƣới bóng cây hoa nở tin vui

Chƣa gặp đƣợc em lòng lo lắng

Cây quả rồi đôi ta xa cách

Thƣơng hoa, hoa nở ở chốn nào [51, tr.219].

Sao đối cho nhau để mãi lâu

Nỗi nhớ đã ăn sâu vào trong tâm thức, in đậm trong từng giấc mộng đẹp:
Đêm đêm ngủ mơ đƣợc cùng em

Chẳng dám chê trách lòng u sầu [51, tr.222].
Hay:

Tỉnh giấc dậy rồi đâu có phải

Đi đến rừng sâu, cảnh thê lƣơng

Xuân ơi xuân! [51, tr.219].

Hoa nở không hƣơng, không quả vị
Ngƣời ngƣời tuyệt tình biết làm sao [51, tr.180].

Anh ơi anh?

Đứng trước cảnh ngộ đó, ta dễ thông cảm với những tâm lí tiêu cực nảy


Nằm mơ đƣợc thấy ở bên anh [51, tr.221].
Sự xa cách với nỗi niềm nhớ nhung còn được thể hiện qua nhiều câu
hát nữa. Đây là sự bộc bạch nỗi lòng của chàng trai:

sinh trong những con người bất hạnh ấy. Họ thường suy nghĩ quẩn quanh theo
cách suy nghĩ thông thường, đổ cho số mệnh của mình:
Uyên ƣơng kết nghĩa thành tình riêng

Mặt trời chẳng mọc đời lạnh tanh

Mệnh chẳng xe duyên cho hợp lại

Chƣa từng gặp gỡ chƣa biết nhớ

Chỉ lợi nhân duyên kẻ khác đƣợc [51, tr.208].

Gặp rồi nhớ mặt lòng chẳng quên [51, tr.180].
Mặt trời chẳng mọc ấy chính là những ngày đôi lứa phải xa cách nhưng
lòng thì bồi hồi nhớ mong bởi Gặp rồi nhớ mặt lòng chẳng quên.

Còn đây là lời oán trách của cô gái khi bị phụ tình:
Nếu không có lòng đừng có hẹn
Bỏ thân núi Bắc chết hận sầu [51, tr.200].

2.3.1.3. Nỗi buồn đau, cay đắng khi tình yêu tan vỡ
Tình yêu nơi trần thế có lắm nỗi éo le, cay đắng. Đâu phải cứ yêu nhau là

Trách kẻ khác nghe giết hại sầu

lấy được nhau và được sống bên nhau đến trọn đời. Đó là vấn đề muôn thủa


Nếu không có lòng đừng giả dối

của tình yêu loài người. Con người khi yêu, họ có thể vượt qua muôn vàn gian

Nếu nhớ ngƣời khác đừng đoạn ngôn [51, tr.202].

khó để đến với nhau nhưng chẳng may duyên bạc, phận rủi mà không kết

Mỗi cuộc hát giao duyên ngoài mục đích giao lưu còn có ý nghĩa nhân

duyên thành đôi lứa thì nỗi buồn đau, cay đắng ấy kể sao cho xiết. Những câu

văn sâu sắc - để thanh niên nam nữ tìm hiểu, yêu đương mà từ đó nên vợ, nên

hát của những con người trong cảnh ngộ này thấm đẫm nước mắt khổ đau với

chồng. Thế nhưng, trong nhiều cuộc gắp gỡ có những chàng trai, cô gái không

41
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

42


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





thể tâm đầu ý hợp vì một lí do nào đó, cho nên những lời hát này của họ

và bị đuổi đi nơi khác. Trong câu hát giao duyên của người Dao, truyền thống

thường bộc lộ nỗi buồn:

ấy thể hiện rất rõ:

Mẫu đơn hoa nở không kết trái

Cầu hôn đừng cầu cùng dòng họ

Vân đầu ra quả chẳng nở hoa

Cùng họ lấy nhau ngƣời trách cƣời

Hoà hoả thêm tâm qua một đời

Cùng họ lấy nhau nên chuyện xấu

Gạch ngang lƣng nguyệt chẳng thành đôi [51, tr.211].

Con cháu đời sau nát cửa nhà [6, tr.205].

Như vậy, thơ ca giao duyên của đồng bào Dao Tuyển ở Lào Cai biểu

Rõ ràng quan niệm hôn nhân ấy đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của

hiện khá đầy đủ những cung bậc tình cảm của con người khi yêu: có niềm


người Dao Tuyển và kết thành những nguyên tắc rất cụ thể, chi phối hôn

vui trong buổi đầu gặp gỡ, có nỗi nhớ khi xa cách, có nỗi buồn đau, cay

nhân, biểu hiện qua từng câu hát.

đắng khi tình yêu tan vỡ. Những cung bậc tình cảm ấy vốn là vẻ đẹp chung

Trong các cuộc hát giao duyên, trai gái khi đã ưng ý nhau thường bày

trong tình yêu của con người. Song điều đáng nói ở đây là thơ ca giao duyên

tỏ ước mơ xây dựng hạnh phúc gia đình với nhau một cách thẳng thắn hồn

người Dao Tuyển không chỉ chú trọng đến việc miêu tả trực tiếp các trạng

nhiên. Có chứng kiến tận mắt những đêm hát như hát hội đầu xuân, hát qua

thái tâm hồn, tình cảm của nhân vật trữ tình, mà còn chú trọng đến việc lấy

làng, hát xin cốm… chúng ta mới thấy rõ khát vọng ấy. Cách tìm hiểu bằng

thiên nhiên, lấy những đối tượng trong giới tự nhiên rất gần gũi với cuộc

lời ca tiếng hát đã để lại bao lời ca say đắm với những ước mơ cháy bỏng của

sống của đồng bào để thể hiện sự phong phú của tư tưởng, tình cảm và trạng

đôi lứa yêu nhau. Thế nhưng khi lứa đôi đã có lời ước hẹn thì vấn đề thuỷ


thái tâm hồn nhân vật.

chung gắn bó được đặt lên trên hết. Trong các cuộc hát giao duyên các cô gái

2.3.2. Tình yêu gắn liền với hôn nhân và sự thuỷ chung

vẫn thường hát:

Sinh sống ở những vùng rừng núi xa xôi cách trở, người Dao Tuyển có

Cùng anh nhƣ đôi chim cùng cây

truyền thống khép kín tộc người một cách khá vững chắc. Tính chất cố kết

Vạn niên đời đời ta chung sống [51, tr.223].

cộng đồng của tộc người Dao Tuyển rất chặt chẽ. Điều này được thể hiện qua
việc người Dao Tuyển xưa ít xây dựng gia đình với người thuộc các dân tộc

Hay:

khác. Họ có những quy định chặt chẽ trong hôn nhân. Trong dòng họ, các
thành viên tuyệt đối không được kết hôn với nhau. Khi nam giới đến tuổi
trưởng thành muốn kết hôn với một cô gái, ông trưởng họ phải tra gia phả

Vợ chồng hứa hẹn lòng thuỷ chung [51, tr.207].
Khát vọng thuỷ chung đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi con người
đương cuộc, có khi trở thành lời thề nguyền thuỷ chung:

dòng họ. Cô gái đó không thuộc con cháu trong dòng họ, chàng trai mới được


Hôm nay gặp gỡ cùng ở hội

kết hôn. Ở Lào Cai, trong phạm vi 6 đời con cháu không được kết hôn với

Hai bên cùng nguyền chẳng phân li [51, tr.194].

nhau. Nếu vi phạm nguyên tắc đó thì sẽ bị coi là loạn luân, bị xử phạt rất nặng

Để thề nguyền chung thuỷ, người ta còn đi xa hơn nữa. Đó là hẹn ước
đến kiếp sau :

43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

44


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Đời này chẳng đƣợc ở cùng làng

Rửa mặt cũng mong rửa cùng chậu

Đời sau có duyên chung một nhà [51, tr.197].

Đêm ngủ cũng mong chung một gối [51, tr.188].

Vì khi đã nên vợ nên chồng thì phải thương yêu, phải đồng cam cộng

Đời này sinh không đƣợc ở đất này
Đời sau ắt phải ở phủ đƣờng này [51, tr.182].
Khát vọng tình yêu thuỷ chung, gắn bó được thể hiện vừa tế nhị vừa sâu
sắc mà không kém phần bay bổng trong những câu hát giao duyên. Đây là
cách nói của chàng trai trong hát hội đầu xuân ở trong làng:

khổ trước mọi hoàn cảnh của cuộc sống:
Đắng cay cả hai cùng cam chịu
Phúc thì cùng hƣởng, hoạ cùng cam [51, tr.194].
Quan niệm tình yêu gắn liền với hôn nhân và sự thuỷ chung đã trở
thành ước nguyện không chỉ của thanh niên nam nữ mà của cả cộng đồng

Ƣớc gì hoá thân thành lá dong

người Dao Tuyển. Điều này có ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Đạo giáo.

Cho nàng gói muối ngọt bốn mùa [51, tr.182].

Mặt khác, tính chất phụ hệ là một đặc điểm nổi trội trong truyền thống gia

Còn đây là cách nói của một chàng trai khác:

đình người Dao Tuyển xưa: Người vợ bao giờ cũng thuộc hẳn về người

Ƣớc gì đƣợc hoá dây thắt lƣng

chồng, việc vợ li hôn chồng dường như không bao giờ đặt ra trong xã hội.


Đƣợc cuốn lƣng rồng chẳng oán gì [51, tr.84].

Họ xem việc li hôn là tội lỗi. Hơn nữa, các chàng trai người Dao Tuyển vẫn

Mong ước tình yêu gắn bó, thuỷ chung cũng được thể hiện qua câu hát
của cô gái:

thường nhắc nhở nhau câu nói: “ Nhà có hai vợ nhà chẳng vui – Nƣớc có hai
vua nƣớc chẳng an”. Với truyền thống tư tưởng ấy người Dao Tuyển quan

Ƣớc gì đƣợc hoá hộp đựng thuốc

niệm rằng: Tình yêu phải gắn liền với hôn nhân và sự thuỷ chung. Đã yêu

Lúc ở trƣớc mặt, lúc kề bên

nhau thì phải cùng vượt qua mọi gian khó để đến với nhau trong niềm vui

Khi ở trƣớc mặt lòng vui vẻ

hạnh phúc. Đó chính là một trong những nét đẹp của tâm hồn con người

Khi ở đằng sau lòng lại sầu [51, tr.85].

đáng được trân trọng ngợi ca.

Những con người trong cuộc luôn ao ước mình biến thành, hoá thành
những vật dụng dường như nhỏ bé, tầm thường nhưng rất cần thiết cho cuộc

2.3.3. Tình yêu gắn liền với lao động sản xuất, xây dựng gia đình hạnh

phúc ấm no, bản làng giàu đẹp

sống. Ước thành lá dong, dây lƣng, hộp đựng thuốc. Hay đó chính là ước

Tình yêu gắn liền với lao động, xây dựng gia đình thực chất là quan niệm

nguyện có được một tình yêu gắn bó, thuỷ chung. Khát vọng tình yêu gắn bó

thẩm mĩ của đồng bào Dao Tuyển về bản chất cái Đẹp gắn với con người và

nên duyên vợ chồng được thể hiện chân thành, thẳng thắn, hồn nhiên qua

bản chất các quan hệ của con người trong cộng đồng người Dao Tuyển. Nói

nhiều câu hát nữa:

cách khác, con người đẹp ngoài những phẩm chất như có tình yêu thương
Tra hạt hai ta thành một đôi

chung thuỷ còn phải biết lao động để xây dựng cuộc sống cho bản thân và gia

Xuống nƣớc lên non tay dắt tay

đình, nói rộng ra là để bảo tồn cộng đồng.

Khổ đau cùng nhau chẳng oán trời

45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


46


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




×