Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Trao đổi với cô Thu Hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.38 KB, 9 trang )


 !"#$% &'()*+,-
. /$  01
Trong cuộc sống, nhận thức của con người, theo thời gian ngày càng tiếp cận dần chân
lý. Tuỳ theo mỗi người, mỗi hoàn cảnh khác nhau, mà nhận thức đời sống cũng khác
nhau. Chính điều này làm nên cái muôn màu muôn vẻ của thơ ca.
Thời gian, tuổi tác, trường đời từng trải... và sự điềm tĩnh tiếp cận chân lý là những quá
trình xảy ra song song trong nhận thức con người. Quy luật khách quan này ngẫu nhiên
có mặt trong tư duy thơ và xúc cảm thơ. Tuy nhiên, cũng có người vô tình hay không
nghĩ tới điều đó. Và vì thế, sản phẩm tinh thần được sinh ra trong những phút ấy, người
ta hay ví là "xuất thần". Cũng có người nhận thức rất rõ ràng quy luật ấy, nhưng đạt ở
đỉnh cao tư duy nên họ có thể quên đi dưới dạng Thiền, mà vẫn không hề ảnh hưởng
đến cảm xúc khi sáng tác.
Thơ được sinh ra trong những thời khắc mà nhận thức khách quan của con người cao
trào nhất, thì sản phẩm của nhận thức ấy là những vần thơ đầy triết lý. Và ngược lại, nó
sẽ cho ra đời những vần thơ rất tự nhiên, lãng mạn và mượt mà.
Con đường đến với thơ là con đường vô cùng dễ đi nhưng ít người về đích. Ai cũng có
thể làm thơ, viết ra những suy nghĩ diễn tả tâm trạng dưới dạng văn vần, có thể xem đó
là thơ. Tuy nhiên như thế, nó chưa phải là cột cờ trong bó đũa và đương nhiên không
thể xếp chung với những thi phẩm giá trị cả về nội dung và nghệ thuật.
Không sao cả. Người đời vẫn viết, viết cho mình, cho bạn tâm giao... khi nào hay hơn,
được nhiều người đánh giá thì gửi đài, gửi báo. Sơ khởi của nghiệp thơ bắt đầu từ đó.
Ngay từ khi loài người phát minh ra chữ viết, thì thơ dưới hình thức những câu ca dao
truyền miệng đã có tự lâu rồi. Song hành với sự phát triển của chữ viết và cách thức
viết (Calligraphy) thơ không ngừng được chau truốt. Từ công nghệ sơ khởi như dùng
ngón tay viết lên cát, đất sét; viết trên mảnh tre (Trung Hoa); bút lửa viết trên phiến lá
bối, da dê (Balamon); rồi khi có giấy viết bằng bút lông, bút cây, bút chì, bút sắt, bút bi;
công nghệ tin học ra đời thì tạo hình bằng "bit". Thơ theo đó mà hiện diện dưới những
tấm áo vỏ ngôn ngữ trang trọng hơn, đẹp đẽ và hấp dẫn nhiều hơn. Chẳng hạn như gần
đây, ông Chính Văn đã thể hiện Truyện Kiều bằng hình thức Calligraphy (Thư pháp)
trên giấy dó cỡ lớn, triển lãm tại festival Huế... Dù ở bất cứ hình thức nào, trong tủ kính


trang trọng hay bên kệ sách ven đường bụi bặm, thì cái hồn trong thơ vẫn không hề mai
một. Dù giá cả có được tính bằng USD/quyển hay VND/kg, thì thơ vẫn không mất đi giá
trị nội dung. Có lẽ tất cả điều này làm cho thơ luôn tồn tại song hành với tâm hồn con
người.
Nói con đường đến với thơ là con đường rộng mở, bởi thơ hiển diện ở mọi nơi mọi chỗ.
Nó phản ánh khách quan đời sống lao động của con người và ghi lại những biến động
xã hội dưới dạng hình tượng. Chức năng này là cơ sở để lí luận rằng xã hội nào văn
học ấy. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng thừa nhận điều đó qua việc nhấn mạnh vai trò của
thơ ca trong đời sống xã hội loài người.
Xét riêng ở khía cạnh tiếp cận, thơ có lẽ là phương tiện con người sử dụng nhiều nhất
so với bảy loại hình nghệ thuật còn lại. Và vì thế, đến một chừng mực nào đó nó bùng
nổ về số lượng. (Về chất lượng xin bàn ở một bài viết khác). Như cách đây vài năm,
ông Bùi Vợi, một nhà thơ và cũng là nhà phê bình cho rằng, thập niên cuối của thế kỷ
XX, ở Việt Nam đang bị loạn thơ.
Chúng ta phải thừa nhận một điều là, chưa bao giờ thơ nhiều như bây giờ; chưa bao
giờ người làm thơ và thơ xuất bản nhiều như bây giờ, chưa kể thơ được hiện đại hoá
bằng công nghệ "bit" trên các trang web nghệ thuật... Điều đó cho thấy người ta đến với
thơ ngày càng nhiều, tức nhu cầu thưởng thức và khả năng tiếp ứng ngày càng đạt ở
trình độ cao hơn rõ rệt. Tuy nhiên có người đến với thơ ở mục đích này hay mục đích
khác, thì bản chất thơ vẫn không hề thay đổi.
Ở một bài viết khác, có lần tôi đã mượn lời một nhà phê bình văn học Trung Quốc rằng,
thơ không phải là Bồ Tát cứu thế, cũng không phải là gian hùng loạn thế. Tuy nhiên, thơ
đã góp phần làm cho đời sống con người trở nên phong phú, ít chai sạn. Và đặc biệt là
nó không hề từ chối một ai đến với nó, nếu không quay lưng lại với nó hoặc không quay
lưng lại với cuộc đời, thì thơ luôn tồn tại một giá trị nhất định.
Con đường đến với thơ tuy chẳng có chông gai nhưng nhiều chênh vênh bất định. Bởi
người nào đó dành cả cuộc đời cho thơ, mà chưa được Nàng Thơ âu yếm, thì số mệnh
đã bắt buộc phải ra đi khi câu vần đang còn dang dở. Tuy nhiên, như ý nhạc của chàng
trai họ Trịnh đã cho rằng, trần gian chỉ là quán trọ. Vì vậy mà, rất nhiều người tình
nguyện theo đuổi Nàng Thơ, cả trong lịch sử lẫn hôm nay. Họ được gì thì chúng ta

không biết, duy một điều ta thấy rõ nét là, tên tuổi của họ cùng Nàng Thơ của họ sống
lâu hơn tuổi thọ của họ rất nhiều.
Vâng, hình như cái duy nhất không bị phủ mờ bởi thời gian khắc nghiệt là điều vừa nói
đó chăng? Câu trả lời có cần thiết hay không thì mỗi người cầm bút chúng ta đều cảm
được. Có lẽ chỉ giản đơn có vậy, mà kẻ bạn đường của đêm đen như tôi, luôn phải cau
mày để họa lên con đường thơ đi và con đường để tiếp cận cùng thơ.
(Trích Tiểu luận phê bình thơ)
#2%$34( 0564
Thơ Trần Kim Hoa trong 789: bàng hoàng lắm. Chị âm thầm viết, sâu sắc và
kín đáo lạ lùng. Nhưng quyết liệt cũng lạ lùng. Và những câu thơ dịu dàng, đoan trang
bỗng trở thành ám ảnh:
Trầu xanh như linh hồn trinh nữ
Chẳng chịu nguôi quên duyên kiếp trời ban
Yêu đến cạn lòng vẫn bao ngờ nghệch
Được thắm đỏ một lần dẫu chết cũng đành cam
(Trầu cau)
Có được một lời nguyền như thế, nhận được một lời nguyền như thế thì sống ở trên đời
cũng không vô ích vậy. Thơ ấy là thơ của hiến dâng và ban tặng. Thơ ấy làm cho con
người tự hào và tự tin ! Thơ ấy là thơ của một tâm hồn dịu dàng, tinh tế. Ngọn gió thiếu
nữ còn thổi dọc đời người, dầu mong manh như một tiếng thở dài:
Ngọn gió thiếu nữ
Vẫn thổi về khe khẽ
Những đêm trời biếc
Nụ tầm xuân lớn thở dài
…Lối vu vơ rơi lối thu phai…
Thơ Trần Kim Hoa như lạt mềm buộc chặt, hồn nhiên và thanh khiết lạ lùng. Có những
khi chị tự thú chân thành và dễ thương làm sao: "Có một thời, em trẻ trung, em là bông
hoa mang tên hờn dỗi. Bông hoa nở bốn cánh, một cánh còn như dấu hỏi giữ gìn
hương… Để bây giờ, bây giờ không quên, dầu chẳng còn đôi bím tóc cho em tết lại,
trăm nghìn thương nhớ gửi về đâu?" (Bông hoa năm cánh)

Cũng có lúc, tự ý thức về mình, chị viết những câu thơ đầy tự hào, tự trọng: Em cười
bên bếp như men rượu, rồi ngay sau đó là một nỗi buồn thẳm sâu:
Đêm ấy đi về cổ tích
Áo khăn em đến bên người
Chân không bước vào đêm ấy
Bén đất chiêm bao đến giờ
Những nuối tiếc và hoang mang ấy có lẽ sẽ đi theo suốt một đời, bởi vì Em giấu đâu
nồng nàn, một thời yêu như bão?, và cũng bởi vì Người dứt áo ra đi từ buổi ấy, màu áo
xưa phiêu dạt nơi nào, hoa tím đợi gốc vườn thơ ấu, bốn mùa dâng sương khói cồn
cào! (Thơ viết trên bờ cát). Rồi cũng trong tâm cảm ấy, chị kêu lên thảng thốt:
Ôi tường lan, tường lan
Một đời bao thề thốt
Một đời bao phân ly
Màu hoa kia có biết?
(Hoa Tương Lan)
Là phụ nữ, dẫu là người phụ nữ làm thơ, Kim Hoa vẫn hiểu rằng "có tiềng vọng quá
khứ, nhắc nhớ em bổn phận", và tự ý thức rằng: "Em chỉ là giọt nắng, phiêu diêu trên
vai anh, em chỉ là ngọn gió mong manh trên tay anh" rồi hồi hộp đợi chờ một phán
quyết kinh hoàng:
Em chỉ là
Điều anh sắp nói
Yêu hay không yêu
(Em chỉ là…)
Trong cái ngõ nhỏ tâm tình của Lối tầm xuân này, người thơ cứ đi mải miết trong phấp
phỏng âu lo, trong một ngoái nhìn hoài niệm, rằng "giá cứ mãi em là em ngày ấy", rằng
"giá cứ mãi anh là anh ngày ấy", để rồi thức ngộ:
Xuân thiếu phụ những hoàng hôn cháy đỏ
Mỗi sợi tóc em một sợi khói lam chiều
(Lối tầm xuân)
để rồi tự cảm như vầng trăng trung trinh:

Hết một thời lòng yêu như thác trắng
Nẻo đường xưa về lại chỉ mình em
Người như gió, như mây, như ánh sáng
Ta như vầng trăng lặng lẽ đứng bên ghềnh
(Nẻo đường xưa)
Vầng trăng ấy cứ mãi mãi như vầng trăng mười bảy tuổi, mãi mãi như trái tim mười bảy
tuổi. Và khi ấy, thơ vang lên trong thổn thức bồi hồi: "Có một trái tim, khắc ghi mùa xuân
đầu tiên, lá hoa ngập ngừng trên lối hẹn. Bao gió mưa qua, bao tháng năm trôi, mùa
xuân vẫn mười bảy tuổi, tình yêu vẫn mười bảy tuổi. Có một trái tim đinh ninh chín nhớ
mười thương, suối sâu nào cũng lội, núi cao nào cũng qua. Lời yêu bắc cầu giải yếm
ánh mắt níu những chân trời…" (Có một trái tim). Tuy nhiên đó chỉ là mơ mộng mà thôi,
cuộc đời đâu phải thế. Có khi thơ Kim Hoa già dặn và từng trải lạ lùng, ấy là khi nhà thơ
đối mặt với đời thường nghiệt ngã và chợt nhận ra phía trái của vầng trăng:
Ta với người gần như không mà muôn vàn xa cách
Ánh mắt đốt cháy ruột gan
Nụ cười như gió thoảng
Lời mơ mơ đi giữa nhân gian
… Tóc thôi xanh cuối nẻo đường rừng
(Ta với người)
và cả phía sau của ngôi nhà hạnh phúc:
Sự lầm lạc hiện diện trong ngôi nhà tình yêu
Nỗi bẽ bàng trong giấc mơ
Chỉ thuộc về riêng em
… Có những giọt mưa sám hối
Chảy xuống tự trời cao
(Những cơn mưa không tạnh)
Thơ Trần Kim Hoa không nói nhiều về những điều cao xa mà tập trung suy tưởng về
những nỗi đời, nỗi ngưòi, về thân phận người phụ nữ và hạnh phúc lứa đôi. Nhiều khi
chị tự dằn vặt mình bởi những cớ không đâu mà nghe xa xót lạ lùng:
Và em sẽ quên rằng, em đã

Từng ở đây cười nói vu vơ
Từng say đắm, vụng về, ngốc nghếch
Từng lạnh băng, tan nát, thẫn thờ…
Đọc những dòng thơ ấy, ta bỗng dưng nhớ đến thơ của nữ thi sĩ Nga Ônga Bécgôn. Thì
ra. Những thi sĩ đàn bà trên thế gian này đều có chung một điểm, ấy là sự rộng lượng
và cả tin đáng nể phục và kinh hãi:
Năm tháng đắng cay hơn, năm tháng ngọt ngào hơn
Em mới hiểu bây giờ anh có lý
Dù chuyện xong rồi
Anh đã xa cách thế
Em hát khác xưa rồi, khóc cũng khác xưa theo…
(Gửi Bôrix Goócnilốp)
Có phải vì vậy mà Kim Hoa thề nguyền "Được thắm đỏ một lần dẫu chết cũng cam".
;$<=>/$?@

Đọc tập thơ Muộn của Đoàn Ngọc Thu
A B?#%$
C;$DE 81
(Tặng Đoàn Ngọc Thu và Tháng Ba)
Tôi miên man trong dòng thơ “Muộn”, ở đó tôi thấy Trịnh đang du ca với cung la thứ hoài niệm,
đau đáu, da diết: “Đời xin có nhau dài cho mãi sau nắng xưa gọi sầu, áo xưa dù nhàu cũng xin
bạc đầu gọi mãi tên nhau”.
“Muộn” là tập thơ thứ ba của Đoàn Ngọc Thu được chia thành ba khúc: Khúc đời; Khúc người;
Khúc định mệnh. Mỗi khúc này như tiếng nhạc lòng cất lên từ một trái tim trẻ trung, biết yêu, biết
sống, biết đau khổ và để rồi trái tim ấy nhận ra mình, nhận ra nỗi đau dưới nhân gian.
Ơ kìa, nhân gian lụy chữ tình, ấy là điều thường. Với 51 bài thơ trong tập này, người đọc sẽ rơi
vào dòng buồn miên man của ký ức, dòng buồn lãng du, rong rêu lơ đãng của người phụ nữ khi
yêu. Một tình yêu ngỡ như vô vọng, ngỡ như thảng thốt. Tình yêu cứ cho đi, rồi nhận về nỗi đau
khổ, ồ thì nhân gian là thế, có ai yêu là trọn vẹn được chữ tình. Ấy thế nên người ta với nói:
“Tình chỉ đẹp khi còn dang dở”. Nỗi đau tình yêu trong “Muộn” như lạc đường tìm về với khổ

chủ. Nỗi đau tung tẩy vui mừng, chảy thành những nốt thơ, nốt nhạc lòng, nốt máu nơi tim.
Tôi, kẻ ngơ ngẩn lạc vào những dòng thơ của Đoàn Ngọc Thu cảm thấy như mình là tên tội đồ,
phạm điều cấm kị, xin sẻ chia nỗi lòng.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×