Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tìm hiểu tác động của văn hoá đến việc kinh doanh của một số công ty xuyên quốc gia (tncs) và bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.5 KB, 20 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

-------------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
TÌM HIỂU TÁC ĐỘNG CỦA VĂN HOÁ ĐẾN VIỆC KINH
DOANH CỦA MỘT SỐ CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
(TNCS) VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM

Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Thu Hoài

Lớp

: Anh 8

Khóa
Giáo viên hướng dẫn

: 44B
: TS. Nguyễn Hoàng Ánh

Hà Nội - 05/2009


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ VĂN HOÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA VĂN
HOÁ TỚI KINH DOANH ........................................................................... 3
I. Tổng quan về văn hoá ............................................................................ 3
1. Khái niệm ........................................................................................... 3
2. Các yếu tố cấu thành ........................................................................... 5
II. Tác động của văn hoá tới kinh doanh ................................................ 15
1. Văn hoá ảnh hưởng đến tư duy trong kinh doanh .............................. 16
2. Văn hoá ảnh hưởng đến giao tiếp trong kinh doanh .......................... 18
3. Văn hoá ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng ........................................ 21
CHƢƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA VĂN HOÁ ĐẾN VIỆC KINH DOANH
CỦA CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA (TNCs) ........................................ 23
I. Tổng quan về công ty xuyên quốc gia .................................................. 23
1. Lịch sử ra đời của các công ty xuyên quốc gia .................................. 23
2. Khái niệm công ty xuyên quốc gia .................................................... 24
3. Đặc trưng của TNCs ......................................................................... 26
II. Vai trò của TNCs trong nền kinh tế thế giới ...................................... 28
1. Thúc đẩy thương mại đầu tư quốc tế và phát triển nguồn nhân lực ... 29
2. Nghiên cứu, phát triển và chính sách chuyển giao công nghệ ........... 32
III. Tác động của văn hoá đến việc kinh doanh của một số TNCs ......... 33
1. McDonald’s ...................................................................................... 34
2. Unilever ............................................................................................ 43
3. PepsiCo ............................................................................................ 51


CHƢƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM ................................................................................................. 58
I. Vai trò của TNCs ở Việt Nam .............................................................. 58
1. Tổng quan tì nh hì nh hoạt động của TNCs tại Việt Nam ................... 58

2. Vai trò của TNCs trong nền kinh tế Việt Nam .................................. 61
II. Sự cần thiết phải tìm hiểu vai trò của văn hoá trong kinh doanh đối
với doanh nghiệp Việt Nam ..................................................................... 66
1. Đòi hỏi của tiến trì nh hội nhập vào nền kinh tế quốc tế .................... 66
2. Nhu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam ........ 67
3. Tạo sự tăng trưởng bền vững trong kinh doanh ................................ 68
4. Quảng bá văn hoá Việt Nam ............................................................. 69
III. Bài học kinh nghiệm của TNCs cho các doanh nghiệp Việt Nam ... 69
1. Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường nội
đị a ........................................................................................................ 70
2. Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường
nước ngoài ............................................................................................ 71
KẾT LUẬN ................................................................................................. 75

TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Sự phân bố ngôn ngữ trên thế giới..................................................... 7
Bảng 2: Số TNCs tại Việt Nam phân theo vùng lãnh thổ (1988-2004) ........ 59
Bảng 3: Tỷ trọng FDI do

106 TNCs hàng đ ầu đầu tư vào Việt Nam

đến

30/4/2006 ..................................................................................................... 63
Biểu đồ 1: Doanh thu của McDonald's giai đoạn 1997-2007 ........................ 37
Biểu đồ 2: Doanh thu của Unilever giai đoạn 2004-2008 ............................. 46



LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay , toàn cầu hoá đang trở thành một xu thế tất yếu

. Hội nhập

kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới với hàng loạt liên kết kinh
tế ra đời như EU , ASEAN, WTO… Đây là điều kiện thuận lợi để các nước
mở rộng thị trường , tham gia vào nền kinh tế toàn cầu .
Trên thực tế , sản phẩm của một số công ty xuyên quốc gia (TNCs) như
McDonald’s, Unilever đã gặt hái được rất nhiều thành công trên hàng trăm thị
trường trên thế giới với ngôn ngữ , tôn giáo , phong tục tập quán… khác nhau .
Một trong những nguyên nhân cơ bản cho thành công đó là k

hả năng thích

ứng của sả n phẩm theo từng nền văn hoá của các quốc gia mà TNCs kinh
doanh. Nếu như bánh hamburger có nhân được làm từ thị t bò trên hầu khắp
các quốc gia mà McDonald’s có mặt thì riêng trên thị trường Ấn Độ , nơi phần
lớn dân cư là tí n đồ của Hồi giáo , người ta có thể thưởng thức những chiếc
hamburger nhân thị t cừu hay thị t gà . Cũng như vậy , chắc hẳn ngoài Việt Nam
ra thì người tiêu dùng không thể tì m kiếm được các sản phẩm như P

/S muối ,

Sunsilk bồ kết , nước mắm Phú Quốc Knorr… tại một nước nào khác trên thế
giới. Những thành công trên của McDonald’s hay Unilever có được là nhờ
việc dày công nghiên cứu văn hoá của các thị trường khác nhau .
Tuy nhiên , các công ty khi kinh doan h vượt ra khỏi biên giới quốc gia
nhiều khi cũng không tránh khỏi những sơ suất liên quan đến khí a cạnh văn

hoá, dẫn đến phá hỏng mối quan hệ kinh doanh hoặc sụt giảm doanh thu trên
một thị trường . Chúng ta đã từng nghe đến nh ững giai thoại như sản phẩm
máy uốn tóc “Mist Stick” của công ty Manure Stick thất bại trên thị trường
Đức do trong tiếng Đức thì “mist” có nghĩa là “phân bón” , hay việc Nike phải
thu hồi tất cả các đôi giày có biểu tượng cách điệ u của từ “Air” ở phí a gót trên
thị trường Ả Rập bởi trông nó giống với chữ Allah vốn là tên thánh của người
Ả Rập.

1


Như vậy văn hoá có tác động rất lớn đến việc kinh doanh của các công
ty xuyên quốc gia . Nếu có sự tì m hiểu kỹ lưỡng và vận dụng hợp lý yếu tố
văn hoá trên các thị trường , công ty có thể đi đến thành công . Tuy nhiên thất
bại là hoàn toàn khó tránh khỏi nếu công ty phạm phải những điều cấm kỵ khi
kinh doanh sản phẩm trên mộ t nền văn hoá xa lạ . Nhận thức được điều đó , em
đã nghiên cứu đề tài : “Tìm hiểu tác động của văn hoá đến việc kinh doanh
của một số công ty xuyên quốc gia (TNCs) và bài học kinh nghiệm cho doanh
nghiệp Việt Nam”. Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền
kinh tế thế giới , khi mà ngày càng nhiều công ty xuyên quốc gia có mặt trên
thị trường Việt Nam cũng như ngày càng nhiều sản phẩm của Việt Nam được
đem xuất khẩu ra nước ngoài , việc nghiên cứu đề tài này là thực sự cần thiết .
Ngoài phần mở đầu , kết luận và tài liệu tham khảo

, khoá luận có ba

phần chí nh :
- Chương 1: Khái quát về văn hoá và tác động của văn hoá đến
kinh doanh
- Chương 2: Tác động của văn hoá đến việc kinh doanh của TNCs

- Chương 3: Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
Em xin chân thành cảm ơn TS . Nguyễn Hoàng Ánh , mặc dù rất bận với
công tác chuyên môn của mì nh , đã tận tì nh hướng dẫn và g iúp đỡ em hoàn
thành khoá luận này .

2


CHƢƠNG I

KHÁI QUÁT VỀ VĂN HOÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA VĂN HOÁ
TỚI KINH DOANH
I. Tổng quan về văn hoá
1. Khái niệm
Văn hoá gắn liền với sự ra đời của nhân loại, nó có từ thuở bình minh
của xã hội loài người. Về ngôn từ, thuật ngữ văn hoá bắt nguồn từ châu Âu,
trong tiếng Anh và tiếng Pháp được gọi là “culture”, trong tiếng Đức được gọi
là kultur còn tiếng Nga gọi là kultura. Những chữ này có chung gốc Latin là
chữ cultus animi nghĩa là trồng trọt tinh thần. Vậy chữ cultus là văn hoá với
hai khía cạnh: trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và giáo
dục đào tạo cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên và họ
có những phẩm chất tốt đẹp.
Tuy văn hoá ra đời từ rất sớm nhưng mãi đến thế kỷ XVII, nhất là nửa
cuối thế kỷ XIX trở đi, các nhà khoa học trên thế giới mới tập trung vào tìm
hiểu nghiên cứu sâu về lĩnh vực này. Đây là một vấn đề rất phức tạp và đa
dạng, do đó có rất nhiều quan niệm khác nhau về văn hoá. Năm 1952, trong
cuốn Culture:A critical review of concepts and definitions, Alfred Kroeber và
Clyde Kluckhohn đưa ra một danh sách gồm tới 164 khái niệm về văn hoá.1
Từ nửa sau thế kỷ XIX, các nhà nghiên cứu bắt đầu quan tâm nghiên
cứu văn hoá. Được coi là mở đường cho những hiểu biết hiện đại về văn hoá

là định nghĩa về văn hoá của nhà nhân chủng học người Anh Edward B.Tylor.
Theo ông, “Văn hoá là một tổng thể phức tạp bao gồm các kiến thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục và tất cả những khả năng, tập
quán mà con người đạt được với tư cách là thành viên của một xã hội”.2

Wikipedia, “Culture”, />Charles W.L.Hill, International Business: Competing in the global marketplace, 3rd edition, McGraw Hill,
2001, tr89
1
2

3


Định nghĩa này nêu lên khá đầy đủ các khía cạnh của văn hoá tinh thần,
nhưng lại ít quan tâm đến văn hoá vật chất (như các di tích lịch sử, các tác
phẩm nghệ thuật, ẩm thực…) – vốn là một bộ phận không kém phần quan
trọng của văn hoá nhân loại. Sau Edward B.Tylor, hàng trăm định nghĩa khác
về văn hoá được ra đời. Triết học Mac -Lênin cho rằng : “Văn hoá là tổng hợp
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra

, là phương thức ,

phương pháp mà con người sử dụng nhằm cải tạo tự nhiên

, xã hội và giáo

dục con người”.1 Quan điểm này đã nhấn mạnh v ăn hoá không phải tự nhiên
mà có mà nó do con người tạo ra, chính quá trình con người chống trọi với
thiên nhiên, thích nghi với thiên nhiên và môi trường sống xung quanh mình
mà văn hoá của họ được hì nh thành . Cách tiếp cận về văn hoá này khá giống

với cách tiếp cận của Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá”. 2 Tuy nhiên có lẽ đị n h nghĩ a
rộng nhất về văn hoá là của E

.Heriot, theo ông: “Cái gì còn lại khi tất cả

những cái khác bị quên lãng đi , đó là văn hoá” . Đị nh nghĩ a này khẳng đị nh
mức độ bao trùm của văn hoá , nhưng lại thiếu tí nh cụ thể .3
Trên khí a cạnh kinh tế cũng lại có cách đánh giá khác về văn hoá . Theo
Geert Hofstede, một chuyên gia trong lĩnh vực giao lưu văn hoá và quản lý
thì: “Văn hoá là sự chương trình hoá chung của tinh thần, giúp phân biệt các
thành viên của nhóm người này với thành viên của nhóm người khác, theo
nghĩa này, văn hoá bao gồm hệ thống các tiêu chuẩn và các tiêu chuẩn là một
trong số các nền tảng của văn hoá”.4 Quan niệm này nhấn mạnh tới cách ứng
Nguyễn Hoàng Ánh, “Ảnh hưởng của văn hoá đến thương mại quốc tế trên thế giới và ở Việt Nam”, Luận
văn thạc sĩ , Đại học Ngoại thương, 1996, tr10
2
Hồ Chí Minh toàn tập, in lần 2, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr431
3
Nguyễn Hoàng Ánh, “Ảnh hưởng của văn hoá đến thương mại quốc tế trên thế giới và ở Việt Nam”, Luận
văn thạc sĩ , Đại học Ngoại thương, 1996, tr10
4
Charles W.L.Hill, International Business: Competing in the global marketplace, 3rd edition, McGraw Hill,
2001, tr89
1

4



xử của con người. Những nhóm người khác nhau sẽ cư xử theo những chuẩn
mực khác nhau đã được hình thành sẵn trong đầu họ bởi các áp lực và xu thế
của xã hội - theo một chương trì nh tư duy tập thể .
Như vậy có thể nói văn hoá bao gồm những sản phẩm vật chất và tinh
thần do con người sáng tạ o ra, nó luôn luôn thay đổi và có tí nh kế thừa . Trong
số các đị nh nghĩ a trên , có thể nói định nghĩa của Hồ Chí Minh là định nghĩa
cụ thể nhất , nêu bật được cả bản chất và đặc trưng của văn hoá . Do vậy trong
phạm vi khoá luận này , tác giả xin thống nhất với cách hiểu về văn hoá của
Hồ Chí Minh.
2. Các yếu tố cấu thành
Có nhiều cách để phân loại các yếu tố cấu thành văn hoá. Chẳng hạn như
theo quan điểm của UNESCO thì có hai loại văn hoá là văn hoá hữu hình
(tangible) như đình, đền, chùa, miếu, lăng, mộ… và văn hoá vô hình (intangible)
gồm các biểu hiện tượng trưng và “không sờ thấy được” của văn hoá được lưu
truyền và biến đổi theo thời gian như âm nhạc, múa, truyền thống, văn chương
truyền miệng, ngôn ngữ, huyền thoại, nghi thức... Tuy nhiên cách chia này vẫn
còn khái quát, chưa cụ thể. Văn hoá có thể được chia thành các yếu tố cấu thành
nhỏ hơn như sau:1
-Ngôn ngữ
-Tôn giáo
-Các giá trị và quan điểm
-Phong tục tập quán và thói quen
-Đời sống vật chất
-Thẩm mỹ
-Giáo dục
-Cấu trúc xã hội

Nguyễn Hoàng Ánh, “Ảnh hưởng của văn hoá đến thương mại quốc tế trên thế giới và ở Việt Nam”, Luận

văn thạc sĩ , Đại học Ngoại thương, 1996, tr14
1

5


2.1. Ngôn ngữ
Một trong những yếu tố rõ rệt và dễ thấy nhất làm nên sự khác biệt
giữa các quốc gia là ngôn ngữ, ngôn ngữ là yếu tố hết sức quan trọng của
văn hoá bởi thông qua giao tiếp và các tác phẩm văn học, nghệ thuật, nó
giúp con người xây dựng và duy trì văn hoá của mình. Trên thế giới hiện
nay có khoảng gần 7000 ngôn ngữ khác nhau, hơn 2000 trong số đó được
sử dụng ở châu Phi và châu Á .1 Ngôn ngữ có thể được chia làm hai loại là
ngôn ngữ có lời và ngôn ngữ không lời.
Ngôn ngữ có lời bao gồm lời nói và chữ viết . Đây là sự khác biệt đầu
tiên mà người ta có thể nhận thấy khi sang một quốc gia khác. Tuy nhiên
ngôn ngữ không chỉ đơn thuần là công cụ giao tiếp mà nó còn có vai trò
như một tấm gương phản ánh văn hoá, nó chịu ảnh hưởng bởi điều kiện tự
nhiên và cả nhận thức của người dân về thế giới, do đó dẫn tới việc một từ
có thể tồn tại ở ngôn ngữ này nhưng lại không tồn tại ở một ngôn ngữ khác.
Vào đầu thế kỷ 20, nhà ngôn ngữ học người Mỹ

Benjamin Lee Whorf đã

nghiên cứu ngôn ngữ của người Hopi ở phía Tây Nam nước Mỹ và đã cho
ra những khám phá cực kỳ thú vị. Vì ở khu vực có người Hopi sinh sống
thời tiết rất lạnh nên ngôn ngữ của họ có nhiều từ ngữ để chỉ tuyết hơn là
tiếng Anh. Thú vị hơn nữa, người Hopi nhìn thời gian như một chuỗi liên
tục không thể chia nhỏ, vì thế mà họ không có khái niệm đếm thời gian
theo giờ như của chúng ta, cũng không có các từ chỉ bốn mùa xuân hạ thu

đông, ngôn ngữ của họ cũng không có thì quá khứ và tương lai như trong
tiếng Anh.

1

S.Tamer Cavusgil, International Business: Strategy, management and the new realities, Pearson Prentice
Hall, 2008, tr144

6


Bảng 1: Sự phân bố ngôn ngữ trên thế giới
Tiếng

Tỷ lệ dân số trên thế giới có ngôn ngữ
này là tiếng mẹ đẻ (phần trăm)

Trung Quốc

20

Anh

6

Ấn Độ

4,5

Nga


3,5

Tây Ban Nha

3

Bồ Đào Nha

2

Nhật Bản

2

Ả rập

2

Pháp

1,5

Đức

1,5

Các thứ tiếng khác

54


(Nguồn: Charles W.L.Hill, International Business: Competing in the Global
marketplace, 3rd edition, McGraw Hill, 2001, tr95)

Nhìn vào bảng 1 ta thấy t rên thế giới hiện nay, tiếng Trung Quốc là
tiếng mẹ đẻ của một số lượng người đông nhất thế giới, tiếp theo là tiếng Anh
và tiếng Ấ n Độ (tiếng Hindu là ngôn ngữ được dùng ở Ấn Độ). Tuy vậy, ngôn
ngữ được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới lại là tiếng Anh, tiếp theo là tiếng
Pháp, Tây Ban Nha và Trung Quốc.
Ngôn ngữ không lời là những tín hiệu dùng để giao tiếp như cử chỉ, nét
mặt, ánh mắt. Có thể nói ngôn ngữ không lời có tính biểu cảm cao hơn rất
nhiều so với ngôn ngữ có lời . Chính vì thế, các nền văn hoá khác nhau có thể
hiểu về cùng một cử chỉ theo hai hướng hoàn toàn đối lập nhau. Ví dụ như
người Mỹ dùng ngón tay cái giơ lên để bộc lộ rằng mọi việc đã ổn còn với
người Hy Lạp thì đây là một cử chỉ tục tĩu. Một ví dụ khác là khoảng cách
giữa hai người trong giao tiếp. Nếu bạn ngồi quá gần đối phương, bạn có thể
7


bị cho là quá xuồng xã, còn ngồi quá xa có thể gây cho đối phương cảm giác
bạn không đáng tin cậy. Tuy nhiên gần là bao nhiêu và xa là bao nhiêu thì
cũng tuỳ thuộc vào quan điểm của từng quốc gia. Thường thì khoảng cách
trong giao tiếp có thể chấp nhận được ở châu Mỹ Latin là gần hơn so với Bắc
Âu và Mỹ. Hậu quả là người Bắc Âu và Mỹ có thể có cảm giác người châu
Mỹ Latin xâm phạm không gian riêng của họ, điều này có thể gây ra việc
không thiết lập được mối quan hệ kinh doanh giữa những danh nhân ở các
châu lục khác nhau này.
2.2. Tôn giáo
Tôn giáo có thể được định nghĩa là niềm tin vào những gì thiêng liêng,
siêu nhiên hay thần thánh, cũng như những đạo lý, lễ nghi, tục lệ liên quan

đến niềm tin đó. Tôn giáo không những là một bộ phận của xã hội, là một
thành tố của văn hoá mà còn là một bộ phận của đời sống con người. Trên thế
giới hiện nay có hàng nghìn tôn giáo, nhưng có 5 tôn giáo có vai trò quan
trọng nhất là: đạo Thiên chúa, đạo Hồi, đạo Hindu, đạo Phật và đạo Khổng
trong đó đạo Thiên Chúa là phổ biến nhất với số lượng tín đồ chiếm khoảng
20% dân số thế giới.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có ảnh hưởng khá sâu sắc
đến mọi mặt của đời sống xã hội. Một khía cạnh nổi bật chịu ảnh hưởng
không nhỏ của tôn giáo đó là vai trò của nam giới và nữ giới trong xã hội.
Hầu hết các tôn giáo đều hạn chế vai trò của nữ giới trong xã hội, đặc biệt là
đạo Hồi. Trên thế giới có khoảng 44 quốc gia theo đạo Hồi. Tại các nước này,
nam và nữ tuyệt đối không được gần gũi nhau ở nơi công cộng, ngay cả khi
họ là vợ chồng thì bất kỳ cử chỉ âu yếm nào ở nơi công cộng cũng bị cấm.
Thêm vào đó, người phụ nữ phải ăn mặc rất kín đáo khi ra đường, và đặc biệt
là phải giữ trinh tiết của mình cho đến khi kết hôn. Người đàn ông đạo Hồi có
thể lấy nhiều vợ, trong khi người đàn bà chỉ được phép có một chồng; đàn
ông có thể yêu cầu ly dị nhưng đàn bà thì không . Ở các quốc gia xem thường
8


vai trò của nữ giới như vậy thì vai trò của phụ nữ trong gia đình chỉ gói gọn
trong 2 chữ người vợ và người mẹ, không hơn không kém.
Tôn giáo cũng ảnh hưởng tới cả lối sống. Nó tạo ra trách nhiệm và bổn
phận của mỗi cá nhân trong xã hội. Chẳng hạn như đạo Phật thì cấm sát sinh,
còn đạo Thiên chúa giáo thì cấm sử dụng các biện pháp tránh thai. 1
Kinh doanh cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ tôn giáo. Nếu bạn có ý định
kinh doanh các sản phẩm làm từ thịt lợn trên một đất nước Hồi giáo thì sẽ
cầm chắc thất bại trong tay vì người đạo Hồi không ăn thịt lợn.
2.3. Các giá trị và quan điểm
Mỗi nền văn hoá đều có một hệ thống các giá trị và quan điểm, đó là

những gì mà qua đó thành viên của một nền văn hoá xác định là đáng mong
muốn hay không đáng mong muốn, tốt hay không tốt, đẹp hay xấu. Trong quá
trình trưởng thành, mỗi cá nhân được giáo dục thông qua các kênh

gia đình,

nhà trường, tôn giáo, giao tiếp xã hội… và qua đó xác định xem suy nghĩ và
hành động thế nào cho đúng với giá trị của nền văn hoá nơi mình sinh sống.
Những giá trị được coi trọng ở Bắc Mỹ, Bắc Âu bao gồm sự chăm chỉ trong
công việc, sự đúng giờ, và sự tích luỹ của cải. Chính vì thế, cư dân ở các nền
văn hoá này có thể sẽ rất ngạc nhiên khi đến những nền văn hoá mà những giá
trị trên không được ưu tiên hàng đầu.
Một ví dụ khác là quan điểm về công việc và thành tích ở các nề n văn
hoá khác nhau. Trong khi một số nền văn hoá nhấn mạnh tầm quan trọng của
công việc thì một số nền văn hoá khác lại ưa chuộng hơn sự cân bằng giữa
công việc và giải trí. Người Pháp thường nói: “Chúng tôi làm việc để sống,
trong khi người Mỹ sống để làm việc” . Ở phía Nam của nước Pháp, mọi
người sống với một phong cách rất chậm rãi, họ có xu hướng tập trung kiếm
1

Nguyễn Hoàng Ánh, “Ảnh hưởng của văn hoá đến thương mại quốc tế trên thế giới và ở Việt Nam”, Luận
văn thạc sĩ , Đại học Ngoại thương, 1996, tr18

9


đủ tiền để tận hưởng một cuộc sống thư thái . Ở vùng này, các doanh nghiệp
đóng cửa vào tháng 8 để cho nhân viên đi du lịch, thường là du lịch nước
ngoài. Nhưng lại có một phong cách làm việc đối lập hẳn, đó là phong cách
làm việc của người Nhật. Người Nhật rất yêu công việc, và chính vì thế từ

rất lâu nay người Nhật đã được coi là những “workaholic” (người nghiện
công việc). Làm việc 12 tiếng/ngày là khá phổ biến ở nhiều công ty Nhật,
thậm chí có những nhân viên công ty còn phải ngủ lại tại nơi làm việc vì
không có đủ thời gian để về nhà.
2.4. Phong tục tập quán và chuẩn mực đạo đức
Phong tục tập quán là những thói quen thường lệ trong cuộc sống
hàng ngày, nhìn chung nó ít mang tính đạo đức. Nó bao gồm những quy
ước như cách ăn mặc sao cho phù hợp trong những bối cảnh cụ thể, cách cư
xử đúng đắn, cách sử dụng đồ dùng ăn uống trong bữa ăn, cách cư xử với
những người xung quanh… Phong tục tập quán định hình cho con người
cách cư xử phù hợp, nhưng cư xử trái với phong tục tập quán cũng không
phải là một vấn đề quá nghiêm trọng, những người như thế chỉ bị coi là lập
dị hoặc không biết cách cư xử chứ ít khi bị coi là người xấu. Chẳng hạn
như nếu một người mặc quần áo ngủ vào siêu thị mua hàng thì những
người xung quanh sẽ dị nghị chứ không bị đánh giá về mặt đạo đức.1
Chuẩn mực đạo đức là những quy tắc được coi là trọng tâm trong
việc thực hiện các chức năng xã hội. Do tầm quan trọng của nó nên các
chuẩn mực đạo đức thường được luật pháp hỗ trợ để định hướng hành vi
của các cá nhân. Ví dụ hành vi ăn cắp là vi phạm chuẩn mực đạo đức,
ngoài việc bị xã hội phản ứng một cách mạnh mẽ, luật pháp còn quy định
những hình phạt có tính chất cưỡng chế.

1

Wikipedia, “Văn hoá”, />
10


2.5. Đời sống vật chất
Đời sống vật chất phản ánh tất cả những sản phẩm do con người tạo ra,

nó phản ánh mức sống và trình độ công nghệ của một quốc gia. Một nước có
tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp lớn thì trình độ công nghệ không cao

,

hoạt động sản xuất ở dạng thô sơ

.

, hoạt động thương mại không phát triển

Ngược lại , đời sống nhân dân rất đủ đầy và hiện đại đồng thời thương mại
phát triển mạnh ở những nước có đa số lực lượng lao động tập trung ở ngành
công nghiệp .
Trình độ công nghệ là một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với các nước
đang phát triển trong việc nâng cao mức sống của người dân. Nếu một quốc
gia sở hữu được những công nghệ hiện đại thì không những nền kinh tế của
họ đạt hiệu quả hơn nhiều mà họ còn tiết kiệm được rất nhiều chi phí (như chi
phí thuê, mua công nghệ từ nước ngoài). Tuy nhiên trình độ công nghệ không
chỉ đơn thuần phản ánh việc áp dụng khoa học vào sản xuất mà nó có quan hệ
chặt chẽ với yếu tố văn hoá. Nhiều khi người dân sẽ cần một thời gian nhất
định để thích ứng với những thay đổi về văn hoá mà trình độ công nghệ mới
đem lại. Một người nông dân đã quen làm việc độc lập trên thửa ruộng của
mình sẽ cảm thấy thật khó khăn để học cách làm việc trong nhà máy. Một
phương pháp sản xuất hoặc một sản phẩm mới chắc chắn sẽ ảnh hưởng ít hay
nhiều đến thói quen hay cách nghĩ của người dân trong nước. Ví dụ điển hình
là hệ thống các cửa hàng bán đồ ăn nhanh như BBQ, KFC, Lotteria ở Việt
Nam dần dần sẽ làm thui chột đi thói quen nấu ăn ở nhà của người dân.
2.6. Thẩm mỹ
Thẩm mỹ là quan điểm về cái đẹp của một nền văn hoá. Nó bao gồm

hội hoạ, âm nhạc, văn hoá dân gian, kiến trúc… Quan niệm khác nhau về cái
đẹp của những nền văn hoá khác nhau dẫn đến việc một thứ được cho là đẹp ở
một nền văn hoá này có thể phải nhận những cái nhìn rất phản cảm khi nó
xuất hiện ở một nền văn hoá khác. Sự khác nhau về quan niệm về vẻ đẹp ở
11


phương Tây và phương Đông là minh chứng. Trong khi thiếu nữ châu Á nói
chung và Việt Nam nói riêng luôn giữ gìn để có một làn da trắng thì nước da
rám nắng được coi là một nước da lý tưởng với không ít phụ nữ phương Tây,
thậm chí họ phải tốn rất nhiều công sức phơi nắng hoặc đi đến các Beauty
Salon để có được nước da “sôcôla”.
Trong kinh doanh quốc tế thì thẩm mỹ là một yếu tố quan trọng mà các
hãng phải để ý tới. Việc lựa chọn màu sắc, kiểu dáng đóng gói, thậm chí đồng
phục trong công ty đều phải được thực hiện cẩn thận dựa trên sự hiểu biết về
những quan điểm thẩm mỹ của nước mà mình đang kinh doanh. Chẳng hạn
như xanh lá cây là màu được yêu thích ở các nước đạo Hồi và có thể tìm thấy
ở màu cờ rất nhiều nước như Jordan, Pakistan, Ả Rập Xê Út. Chính vì thế mà
hầu hết các bao bì sản phẩm ở các quốc gia này đều có màu xanh lá cây. 1
2.7. Giáo dục
Giáo dục là nhân tố cốt yếu trong việc truyền bá và duy trì văn hoá.
Mỗi cá thể của một nền văn hoá sẽ được giáo dục thông qua nhà trường, cha
mẹ, các bài học về tôn giáo hay các tổ chức đoàn thể, câu lạc bộ... Trong hầu
hết các nền văn hoá, trẻ em đều được dạy các kĩ năng tối thiểu là đọc, viết, và
toán học, đồng thời nhà trường cũng giáo dục cho học sinh những nghĩa vụ cơ
bản của công dân và những chuẩn mực của xã hội như tôn trọng người khác,
tuân thủ luật pháp, trung thực, gọn gàng, ngăn nắp, đúng giờ…
Khi nhìn vào nền giáo dục của một quốc gia, người ta thường quan tâm
đến trình độ học vấn của dân cư. Bên cạnh các tiêu chí đánh giá như tỷ lệ
người tốt nghiệp phổ thông, trung học hay đại học thì tỷ lệ người biết chữ là

một thước đo cơ bản cho trình độ học vấn. Quan tâm đến trình độ học vấn của
dân cư trước khi tung sản phẩm vào một thị trường là rất cần thiết bởi từ đó ta
có thể xác định được phương tiện quảng cáo, nhãn mác, cách tuyển nhân

John J.Will, International Business: The challenges of Globalization, 4th edition, Pearson Prentice Hall,
2008, tr5
1

12


công… cho phù hợp. Chẳng hạn như với những thị trường mà trình độ học
vấn của người dân không cao thì chỉ có thể tuyển dụng họ vào các vị trí lao
động chân tay chứ khó có thể tuyển họ vào các vị trí quản lý.
2.8. Cấu trúc xã hội
Cấu trúc xã hội là cách thức tổ chức cơ bản của xã hội đó, bao gồm các
tổ chức đoàn thể, các địa vị xã hội và mối quan hệ giữa chúng. Có hai yếu tố
làm nên sự khác biệt về cấu trúc xã hội giữa các nền văn hoá là mức độ coi
trọng tính cá nhân (hoặc tập thể) và mức độ phân chia giai cấp hoặc đẳng cấp
trong xã hội.
2.8.1. Tính cá nhân và tính tập thể

Trong khi ở một số xã hội như Mỹ, Canada, Mexico, những thành tựu
của cá nhân được coi trọng hơn là tư cách thành viên của họ trong tập thể thì
ở một số xã hội khác như Nhật, Việt Nam người ta lại có thể chứng kiến điều
ngược lại. Thực tế cho thấy những xã hội đánh giá cao tính cá nhân có nền
kinh tế rất phát triển do tất cả mọi người đều cố gắng làm việc hết công suất,
tận dụng hết khả năng của mình, có tinh thần sáng tạo cao. Tuy nhiên việc
nhấn mạnh vào thành tích cá nhân cũng có mặt trái. Nó không giúp các cá
nhân gây dựng được mối quan hệ với các cá nhân khác, từ đó các cá nhân

không nhận được sự tương trợ từ các đồng nghiệp. Ngoài ra điều đó làm cho
các công việc đòi hỏi sự hợp tác giữa các cá nhân trong tập thể trở nên khó
khăn hơn.
2.8.2. Phân chia giai cấp trong xã hội

Mỗi xã hội đều được phân cấp theo một trật tự nhất định. Sự phân cấp
này thường được dựa trên các tiêu chí là gia đình, thu nhập và nghề nghiệp . Ở
hầu hết các nước công nghiệp thì những người thuộc hoàng gia, các quan
chức chính phủ và các nhà lãnh đạo thuộc các khối ngành công nghiệp hùng
mạnh sẽ được xếp ở tầng lớp xã hội cao nhất. Nhà khoa học, bác sĩ, và những
người khác có trình độ đại học sẽ được xếp ở tầng lớp thứ hai. Tầng lớp dưới
13


cùng là những cá nhân chỉ được đào tạo nghề hoặc chỉ tốt nghiệp phổ thông,
họ làm việc chân tay và công việc văn phòng. Việc phân cấp như trên là khá
ổn định, tuy nhiên đôi khi cũng có sự thay đổi theo thời gian. Ví dụ như đạo
Khổng ở Trung Quốc đã từng đề cao những người có học thức và coi khinh
nghề kinh doanh trong hàng mấy thế kỷ nhưng trong xã hội Trung Quốc hiện
đại thì những người giàu có nhờ làm kinh doanh giỏi lại rất được giới trẻ
trọng vọng.
Một khái niệm khá quan trọng cần được chú ý khác đó là tính linh hoạt
trong việc chuyển đổi giữa các tầng lớp xã hội (social mobility). Thuật ngữ
này chỉ mức độ khó dễ để một cá nhân chuyển từ tầng lớp xã hội này sang
một tầng lớp xã hội khác. Trên thế giới có hai hệ thống chính chi phối tính
linh hoạt trong việc chuyển đổi giữa các tầng lớp xã hội, đó là:
Hệ thống đẳng cấp là một hệ thống phân chia rất cứng nhắc, trong đó ai
sinh ra thuộc tầng lớp nào thì mãi mãi về sau sẽ thuộc tầng lớp đó, không có
cơ hội thay đổi. Ấn Độ là một nước đặc trưng cho hệ thống này. Ở Ấn Độ, kết
hôn với những người không cùng đẳng cấp là một điều cấm kỵ. Không những

thế, cơ hội nghề nghiệp cho những người thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau
cũng được phân chia một cách rõ rệt. Những nghề được cho là cao quý chỉ
dành cho người ở tầng lớp cao, người ở tầng lớp xã hội thấp hơn không được
quản lý người ở tầng lớp xã hội cao hơn. Trong thời đại toàn cầu hoá như hiện
nay, đặc điểm này ở Ấn Độ sẽ gây không ít khó khăn cho các nhà đầu tư nước
ngoài thâm nhập vào thị trường này trong việc phân bổ nguồn nhân lực do đôi
khi họ sẽ không thể phân cấp cao cho những người thuộc đẳng cấp thấp, ngay
cả khi anh ta có năng lực thực sự.
Hệ thống giai cấp ít cứng nhắc hơn, chủ yếu phụ thuộc vào nghề
nghiệp của các cá nhân và mọi người có thể chuyển đổi từ giai cấp này sang
giai cấp khác. Đây là hệ thống phân cấp khá phổ biến hiện nay trên thế giới.
Tuy nhiên hệ thống này ở các quốc gia khác nhau có tính linh hoạt không
14


giống nhau. Anh đại diện cho một quốc gia khá cứng nhắc trong việc chuyển
đổi về mặt giai cấp của cá nhân. Tại đây, những người sinh ra ở các tầng lớp
thấp rất khó có cơ hội vươn lên những tầng lớp cao hơn do thành kiến xã hội,
do các quy định về giọng nói, cách cư xử... Trong khi đó, ở Mỹ thì vị thế xã
hội của một cá nhân có thể dễ dàng được nâng lên nhờ nỗ lực phấn đấu của
chính bản thân họ.
Như vậy qua nghiên cứu các yếu tố cấu thành của văn hoá ta thấy văn
hoá ở các quốc gia, nhóm người khác nhau là rất khác nhau. Vì thế, khi tiếp
cận với một nền văn hoá mới, ta không nên áp đặt những giá trị và quan điểm
của nền văn hoá mình vào để đánh giá về các thói quen, phong tục tập quán
của nền văn hoá đó mà cần có cái nhìn thoáng hơn để dần dần hiểu và thích
nghi. Điều đó sẽ giúp cho ta có thể làm việc hiệu quả ngay cả với những
người thuộc một nền văn hoá hoàn toàn khác, nhất là trong thời đại toàn cầu
hoá hiện nay khi mà mọi hoạt động kinh tế thương mại không chỉ dừng lại
trong phạm vi biên giới quốc gia.


II. Tác động của văn hoá tới kinh doanh
Văn hoá và kinh doanh tưởng chừng như hai lĩnh vực không liên quan
gì đến nhau, nhưng thực chất chúng có mối quan hệ cực kỳ mật thiết, tác động
qua lại lẫn nhau. Khi kinh doanh trên nền văn hoá nào thì các doanh nghiệp
phải thay đổi sản phẩm và chiến lược của mình cho phù hợp với các quy tắc,
chuẩn mực xã hội của nền văn hoá đó , nếu không sẽ rất dễ mắc phải sai lầm
dẫn tới không tiêu thụ được sản phẩm hoặc phá hỏng mối quan hệ k inh doanh.
Đồng thời kinh doanh cũng tác động trở lại văn hoá. Kinh doanh có thể làm
thay đổi văn hoá tiêu dùng trên một thị trường

, cũng có thể phá vỡ một số

chuẩn mực đạo đức trong một nền văn hoá do mục tiêu của kinh doanh là l

ợi

nhuận. Trong khuôn khổ khoá luận này, chúng ta chỉ đi vào tìm hiểu những
tác động của văn hoá đến kinh doanh quốc tế. Văn hoá tác động đến rất nhiều
khía cạnh của kinh doanh quốc tế, tuy nhiên chúng ta đi sâu vào ba khía cạnh
15


chính: Ảnh hưởng của văn hoá đến tư duy kinh doanh, đến giao tiếp trong
kinh doanh và đến hành vi tiêu dùng.
1. Văn hoá ảnh hưởng đến tư duy trong kinh doanh
Văn hoá ảnh hưởng đến tư duy trong kinh doanh thông qua hai bình
diện chính là tôn giáo và giáo dục.
1.1. Ảnh hưởng của tôn giáo đến tư duy trong kinh doanh
Như đã được nhắc đến ở phần trên, trên thế giới hiện nay có năm tôn

giáo chính. Ta đi vào xét ảnh hưởng của từng loại tôn giáo này đến tư duy
trong kinh doanh.
Thiên chúa giáo: Với khoảng hơn 1 tỷ tín đồ trên khắp thế giới mà phổ biến
nhất là ở các nước châu Âu và châu Mỹ, Thiên chúa giáo là tôn giáo lớn nhất
thế giới. Đạo thiên chúa có hai nhánh chính là Thiên chúa giáo La Mã
(Catholicism) và Tin lành (Protestantism), trong đó đạo Tin lành ảnh hưởng
đến kinh tế nhiều hơn theo quan điểm của một số nhà xã hội học. Nhà xã hội
học người Đức Weber đã chỉ ra mối quan hệ giữa đạo Tin lành và sự ra đời
của chủ nghĩa tư bản. Ông cho rằng đạo Tin lành đề cao vai trò của làm việc
chăm chỉ, tạo ra của cải vật chất và tiết kiệm - đây cũng là những điều kiện
cần thiết cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Hơn nữa, đạo Tin lành dành cho
các tín đồ của họ nhiều quyền tự do và bình đẳng hơn, do đó có thể đã mở
đường cho sự tự do về kinh tế chính trị và mở đường cho sự phát triển của
chủ nghĩa cá nhân về sau này. Đó chính là cơ sở lý luận cho nền kinh tế tự do
tư bản chủ nghĩa.
Đạo Khổng: Ra đời từ khoảng thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, hiện nay đạo
Khổng có khoảng 150 triệu tín đồ tập trung hầu hết ở Trung Quốc, Triều Tiên
và Nhật Bản. Đạo Khổng nhấn mạnh vào lòng trung thành, sự tương thân
tương ái và sự trung thực – cũng chính những đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn
đến tư duy kinh doanh. Ở các quốc gia theo đạo Khổng thì tư tưởng về lòng
16



×