Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Chùa chiền trong thơ Hồ Xuân Hương và Phạm Thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.27 KB, 31 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ
KHOA NGỮ VĂN
……….……….

TIỂU LUẬN VĂN HỌC
CHÙA CHIỀN TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ PHẠM THÁI

Giáo viên hướng dẫn:
Trần Thị Thanh Nhị

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị KimTuyến
Mã SV: 12S6011227
Lớp: văn 2C

Huế tháng 4/2014

1


Lời cảm ơn

Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Trần Thị Thanh Nhị, người đã trực
tiếp giảng dạy và hướng dẫn tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong suốt
quá trình thực hiện đề tài.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn tiểu luận của em còn có rất
nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn !

……………..……………..



2


PHẦN MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài:
Nhìn vào lịch sử văn học của dân tộc ta thấy một hiện tượng rất mới lạ. Đó là
khi nào xã hội rối ren, loạn lạc nhất thì văn học lại đạt được những thành tựu rực rỡ
nhất. Văn học Việt Nam nữa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX ra đời trong giai đoạn
chế độ phong kiến tranh giành quyền lợi, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, đói
kém. Đặc biệt giai đoạn này đã xuất hiện trào lưu nhân đạo chủ nghĩa với nội dung
chủ yếu là nhân đạo chủ nghĩa với nội dung là giải phóng tình cảm, đấu tranh để
được tự do yêu đương và hàng loạt những cây bút đậm dấu ấn cá nhân như Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Phạm Thái…
Chính trong bối cảnh xã hội ấy, xã hội mà mọi giá trị bị đảo lộn, các nhà văn
nhà thơ đã thực hiện rất tốt chức năng của mình, đó là phản ánh kịp thời cuộc sống
xã hội lúc bấy giờ. Trong đó, có Hồ Xuân Hương và Phạm Thái.
Về Hồ Xuân Hương, cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, người con gái họ Hồ
quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ An ấy đã xuất hiện trên thi đàn văn học như một cơn gió lạ,
thổi tung lớp rêu phong cổ kính của chế độ phong kiến già nua và rải khắp nhân gian
một mùi hương kì diệu: mùi hương của đất nước, của gió trăng, của đá, của rêu, của
lạch, của khe, của những hội hè đình đám, của những sinh hoạt đời thường….Đó là
mùi hương của sự sống, của khát khao,cháy bỏng, của nhựa sống…
Và, cũng chính con người đầy sức sống ấy đã ném vào mặt xã hội phong kiến,
“vạch rõ cái chân tướng của cả những kẻ hiền nhân quân tử, những bậc trượng phu,
anh hùng và đã thẳng thắn đặt họ lại những chổ ngồi mà họ xứng đáng giữa lúc cả
bọn đang múa may quay cuồng, tâng bốc bợ đỡ nhau” (Nguyễn Đức Bính-người cổ
nguyệt, chuyện Xuân Hương). Bà dám nhìn thẳng vào bản chất của cái xã hội thối
nát và lên án một cách mạnh mẽ…Đối tượng chế giễu của Hồ Xuân Hương chủ yếu
là bọn vua chúa, quan lại, nho sĩ nói chung và đặc biệt là giới sư sãi. Ta bắt gặp trong

thơ bà sự phản kháng, sự không đồng tình, sự đả phá đối với những nhà sư “dởm”
làm mất vẻ tôn kính của nhà chùa.
Phạm Thái là người cùng thời với Hồ Xuân Hương, ông cũng sống trong cái
oi bức của xã hội thời cuối Lê đầu Nguyễn. Nơi mà các trật tự, kỉ cương, đạo đức và
lễ giáo phong kiến đều bị đảo lộn. Phạm Thái là người đã tìm đến nơi chùa chiền để
lảnh tránh sự đời, lẩn tránh những đau khổ của tình ái cho nên, ông hiểu rõ hơn ai hết
sự suy thoái của đạo Phật vào cái thời điểm ấy. Trong số ít những sáng tác của ông ta
bắt gặp khá nhiều hình ảnh của những cảnh chùa, những nhà sư…
Hồ Xuân Hương và Phạm Thái là những người cùng thời. Cùng sống trong
một bối cảnh xã hội. Và cùng có những tiếng nói chung đối với vấn đề suy thoái,
biến chất của các sư sãi trong các nhà chùa. Đó là tiếng nói “đả phá” không đồng
tình.
1.

3


Trên cơ sở tiếp thu các công trình nghiên cứu, phê bình và các tài liệu có liên
quan tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài “chùa chiền trong thơ Hồ Xuân Hương và
Phạm Thái” với hy vọng được tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về bối cảnh xã hội, sự
suy thoái của Phật giáo trong xã hội cuối XVIII đầu XIX dưới góc nhìn của Hồ Xuân
Hương và Phạm Thái.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
2.1.
Đối tượng nghiên cứu:
Mảng thơ chùa chiền trong thơ Hồ Xuân Hương và Phạm Thái.
2.2. Phạm vi nghiên cứu:
2.2.1.Các bình diện nghiên cứu của đề tài:
Nghiên cứu mảng thơ chùa chiền của Hồ Xuân Hương và Phạm Thái, em tập
trung nghiên cứu các nội dung sau:

-Những biểu hiện của chùa chiền trong tác phẩm của hai tác giả.
-Trong quá trình phân tích kết hợp so sánh điểm giống và khác nhau về đề tài
chùa chiền của Hồ Xuân Hương với Phạm Thái.
2.2.2.Về văn bản:
Các tác phẩm của Hồ Xuân Hương và Phạm Thái đã được công bố.
3. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu về chùa chiền trong thơ Hồ Xuân Hương và Phạm Thái.
4. Lịch sử nghiên cứu:
4.1. Hướng nghiên cứu về Hồ Xuân Hương có liên quan đến đề tài.
Cuộc đời Hồ Xuân Hương là một chuỗi những vấn đề gây tranh cãi trong giới
nghiên cứu.Đến với Hồ Xuân Hương mỗi người đều có những đánh giá khác nhau
song chưa có cách giải quyết nào thỏa đáng. Điều đó chứng tỏ Hồ Xuân Hương là
một hiện tượng độc đáo, bí ẩn nên có rất nhiều công trình nghiên cứu về thân thế,
con người và thơ văn của bà, song vẫn chưa đi đến kết luận cuối cùng.
Về sau vấn đề thân thế và sự nghiệp của bà càng được nhiều sự quan tâm của
đọc giả. Việc đi tìm chân tướng của “ người đàn bà bí ẩn”, “ người lạ mặt” này là
một cuộc hành trình không biên giới, là một đề tài mở cho những ai muốn tìm hiểu
về cuộc đời và sự nghiệp của bà.
Đề tài chùa chiền trong trong thơ Hồ Xuân Hương là một đề tài có rất ít các
công trình nghiên cứu. Chủ yếu là các bản phân tích ròi rạc, chưa có hệ thống. Có lẽ
các nhà nghiên cứu muốn tìm rõ lai lịch, thân thế hơn là đi sâu khai thác cái nhìn và
cảm nhận của Hồ Xuân Hương đối với giới giới sư sãi, chùa chiền trong bối cảnh xã
hội cuối XVIII đầu XIX.
Đề cập đến vấn đề đả phá chùa chiền trong thơ Hồ Xuân Hương, Đỗ Lai Thúy
trong Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực cho rằng: “ Bà đả kích họ là đả kích cái
sự trái với sự sống, trái với tự nhiên này, chứ không phải đả kích đạo Phật, đả kích
tôn giáo”.
Ông Trần Thanh Mại xem các tác phẩm của Hồ Xuân Hương là sự bôi nhọ
danh lam thắng cảnh của đất nước. Trái ngược với quan điểm của Trần Thanh Mại
4



ông Nguyễn Lộc cho rằng “Hồ Xuân Hương không phải đem cái lăng loàn bôi nhọ
cảnh đẹp đất nước, mà thực tế bà có ý bôi nhọ những cảnh chùa chiền góp phần làm
mê hoặc con người”.
Cũng có những ý kiến cho rằng những bài thơ nhạo báng, lên án chùa chiền
đó không phải là thơ của Xuân Hương mà là thơ truyền tụng của các tác giả dân gian
gán cho Xuân Hương. Vì Xuân Hương là người am hiểu Phật giáo, thường xuyên đi
chùa và trong nhà còn có thờ Phật nên không thể viết những lời thơ châm biếm, đả
phá chùa chiền như vậy.
Còn rất nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề chùa chiền trong thơ Hồ Xuân Hương
với nhiều ý kiến trái ngược nhau. Song tất cả đều cho rằng Hồ Xuân Hương viết về
chùa chiền với tinh thần dả phá mạnh mẽ.
4.2. Hướng nghiên cứu về Phạm Thái có liên quan đến đề tài:
Phạm Thái là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong nền văn học cổ điển
rực rỡ của dân tộc. những thành tựu mà Phạm Thái gặt hái được là những bông hoa
đẹp trong vườn hoa văn học cổ điển đang nở rộ dưới ánh nắng trời xuân của trào lưu
nhân đạo chủ nghĩa, của chủ nghĩa nhân văn Việt Nam đương thời.
Tự bản thân cuộc đời Phạm Thái là một bài ca đẹp mà buồn cong thơ văn
Phạm Thái là mảng đề tài có sức hút lớn. Thế nhưng người ta còn ngại viết về Phạm
Thái và những tác phẩm của ông vì những “bảo thủ”, “phản động” trong thiên kiến
chính trị của ông.
Các công trình nghiên cứu về Phạm Thái không phải là hiếm hoi, tuy nhiên
các công trình nghiên cứu về tác phảm cũng như cuộc đời Phạm Thái còn rời rạc,
chủ yếu đi nghiên cứu riêng về từng tác phẩm.
Trong lời giới thiệu “Sơ kính tân trang” của Nhà xuất bản Hà Nội năm 2002
có đoạn viết: “Cùng với bút pháp tả tình, tả cảnh, Phạm Thái đã sử dụng khá sắc sải
bút pháp trào phúng trong “Sơ kính tân trang. Ông viết tác phẩm trong những năm
tháng loạn ly, rối ren của thời đại bấy giờ. Sự suy thoái của xã họi làm nảy sinh lắm
nghịch cảnh. Dưới hình thức trào lộng, châm biếm ông đã dựng lên được khá nhiều

bức ký họa hiếm có. Những bức biếm họa bằng thơ về một tân đó đốc kệch cởm, về
những cậu ấm cô chiêu bắng nhắng vô tích sự…Riêng về nhà chùa. Ông để lại một
bộ tranh đắt giá, có thể sếp ngang hay cùng một phòng tranh biếm họa về đề tài này
của Hồ Xuân Hương.”
Về chùa chiền trong thơ Phạm Thái vẫn còn ít các công trình nghiên cứu,
song với mảng thơ chùa chiền Phạm Thái đã để lại những ấn tượng khó phai trong
dòng văn học Việt Nam.
5.
Phương pháp nghiên cứu:
5.1.
So sánh, đối chiếu:
So sánh các sáng tác của Hồ Xuân Hương với những sáng tác của Phạm
Thái để thấy những điểm chung cũng như thành công riêng của mỗi người.
5.2.
Phân tích-tổng hợp:
5


Trên cơ sở phân tích, nhận xét, đánh giá những biểu hiện cụ thể của mảng
thơ chùa chiền của mỗi người để rút ra các kết luận cần thiết.
5.3.
Thống kê, phân loại:
Trích ra một số bài thơ tiêu biểu theo từng giai đoạn và phân loại theo từng
mốc thời gian nhất định.
6.
Cấu trúc đề tài:
Ngoài phần mở đầu, tiểu luận gồm nội dung chính có 3 chương, trong đó:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung.
1. Bối cảnh thời đại.
2. Thân thế của Hồ Xuân Hương và Phạm Thái chi phối đến mảng thơ chùa

chiền.
3. Mảng thơ chùa chiền trong văn học Việt Nam.
Chương 2: Khảo sát mảng thơ chùa chiền trong thơ Hồ Xuân Hương và
Phạm Thái. Trong chương này gồm có những vấn đề sau:
1. Thiên nhiên chùa chiền trong thơ Hồ Xuân Hương và Phạm Thái.
2. Đả phá chùa chiền trong thơ Hồ Xuân Hương và Phạm Thái.
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện mảng thơ chùa chiền trong thơ Hồ Xuân
Hương và Phạm Thái.
Cuối cùng là kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.

6


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1.
Bối cảnh thời đại:
Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV chế độ phong kiến Việt Nam phát triển thịnh
vượng. từ thế kỉ XVI nó bắt đầu suy vi, xã hội trở nên bất ổn. Đến giai đoạn nữa cuối
thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX nhiều mâu thuẫn trở nên gay gắt, xã hội Việt Nam
trở nên rối ren, chiến tranh loạn lạc chưa từng có trong lịch sử trước đó. Đó là mâu
thuẫn giữa các tập đoàn phong kiến như vua Lê – chúa Trịnh và nhà Nguyễn. Trong
thế kỉ thứ XVIII nước Đại Việt nằm dưới sự cai trị tượng trưng của vua Lê, có danh
mà không có quyền hành chính trị. Quyền lực thực sự nằm trong tay hai phe phái
phong kiến, đó là các chúa Trịnh ở phía Bắc kiểm soát nhà vua và điều khiển triều
đình ở Thăng Long và các chúa Nguyễn ở phía Nam đóng đô tại thành Phú Xuân
(Huế), chia đất nước thành Đàng Trong, Đàng Ngoài.
Mặt khác, xã hội Việt Nam giai đoạn nữa cuối thế kỉ XVIII – nữa đầu thế kỉ
XIX còn có mâu thuẫn giữa các tập đoàn phong kiến và phong trào nông dân cụ thể
là vua Lê – chúa Trịnh, nhà Nguyễn và phong trào nông dân. Phong trào nông ân

tiêu biểu và đạt được thành tựu to lớn nhất là phong trào Tây Sơn. Chính vì vậy thế
kỉ XVIII được giới sử học mệnh danh là thế kỉ của chiến tranh nông dân. Đây cũng
là giai đoạn mà con đường chính trị của các tầng lớp nho sĩ có sự phân hóa chưa
từng có trong lịch sử trung đại Việt Nam. Họ phải đắn đo lựa chọn xenm theo Tây
Sơn hay trung thành với vua Lê – chúa Trịnh, chúa Nguyễn. Đến khi Nguyễn Ánh
thắng lợi một lần nữa họ phải lựa chọn con đường chính trị cho riêng mình.
Nền kinh tế, ngoại nội thương trong nước khá phát triển. Tuy nhiên đời sống
nhân dân lại vô cùng khổ cực, điêu đứng do kỷ cương xã hội rối bời. Đất nước điêu
linh nhưng giai cấp thống trị Đàng Ngoài lúc bấy giờ lại ra sức vơ vét của cải để lo
ăn chơi xa xỉ. Cũng chính vì vậy mà phong trào khởi nghĩa của nông dân diễn ra
khắp nơi, mãnh liệt và dai dẳng. Chiến tranh, bắt lính, trưng sưu, tăng thuế, quan lại
tham nhũng, đê vỡ, mất mùa, đói kém…bấy nhiêu ta họa thúc đẩy họ họ lao động để
mong đạt tới một chế độ sống dễ thở hơn. Nhìn chung, có thể khẳng định sự khốn
khổ của người dân là tình trạng chung trong giai đoạn này, ở các vùng miền, dưới
các chính thể khác nhau, bất kể thời Lê – Trịnh, Tây Sơn hay Nguyễn trong những
thời điểm nhất định.
Nói tóm lại, tình hình xã hội nước ta cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX nổi lên
ba hiện tượng lớn. Đó là tập đoàn phong kiến suy vi đến cùng cực và lần lượt sụp đổ,
là nông dân bạo động thường xuyên, mạnh mẻ đã từng thắng lợi vẻ vang, là nền kinh
tế hàng hóa bước đầu phát triển và tạo ra một tầng lớp thị dân khá đông đảo.
1.2. Thân thế Hồ Xuân Hương và Phạm Thái chi phối đến mảng thơ
1.2.1.Phạm Thái

7


Phạm Thái(1777-1813) tự là Đan Phượng, hiệu là Chiêu Lì, đạo hiệu là Phổ
Chiếu thiền sư, quê tại huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc(Bắc Ninh).
Ông xuất thân trong một gia đình quý tộc. Cha của Phạm Thái là một tôi trung của
chúa Trịnh, được chúa cho giữ chức nội san bình phiên (một chức quan võ cao cấp)

trong phủ chúa và được phong tước Trạch Trung Hầu. Vì cha làm võ tướng nên từ
nhỏ Phạm Thái đã được học võ, sau ông mới học văn và trở thành một thanh niên
văn võ song toàn.
Sau khi triều Lê Trịnh sụp đổ, Trạch Trung Hầu dấy nghĩa Cần Vương nhưng
thất bại và qua đời. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến Phạm Thái.
Bị nhà Tây Sơn truy nã, Phạm Thái cắt tóc đi tu và ở chùa Tiêu Sơn(Kinh
Bắc) với đạo hiệu Phổ Chiếu thiền sư.
Trốn tránh ở chùa Tiêu Sơn mấy năm, Phạm Thái được Thanh Xuyên hầu
mời lên Lạng Sơn bàn kế đánh Tây Sơn. Ở với Thanh Xuyên hầu một thời gian thì
Phạm Thái về quê thăm mẹ. Trong thời gian ở quê nhà, nhân được tin Thanh Xuyên
hầu mất, Phạm Thái lập tức xuôi nam đến nhà thân phụ của Thanh Xuyên hầu là
Kiến Xuyên hầu để viếng bạn. Trong thời gian nán lại ử nhà Kiến Xuyên hầu, Phạm
Thái và Trương Quỳnh Như – em gái của Thanh Xuyên hầu, đã yêu nhau say đắm.
Mối tình trong sáng, tao nhã ấy đã được cha Quỳnh NHư ủng hộ hết lòng nhưng mẹ
nàng thì phản đối gawy gắt. Quỳnh Như bị mẹ ép duyên với một người giàu có tên là
Trịnh Nhị. Đau khổ, uất ức tạn cùng, nàng tìm đến cái chết để bảo toàn mộng đẹp
với Phạm Thái. Cái chết của người yêu khiến Phạm Thái tan nát, đau đớn khôn cùng,
cộng với nỗi đau thân phận, nỗi buồn trong sự nghiệp đã làm tâm hồn ông thêm đau
thương.
Năm 1802, đất nước lại một lần nữa thay đổi. Chính quyền Tây Sơn bị diệt
vong trước sự phản công quyết liệt của Gia Long. Giấc mơ phù Lê của Phạm Thái
cũng tan theo mây khói:
“Ngày tháng trôi như bóng thoảng nhanh
Công lao, sự nghiệp phút tan tành”
(Phạm Thái Quỳnh Như – Nghiêm Phái, Thư Linh, 1994)
Từ đấy, nỗi u buồn thất cơ ,ỡ vận và nhất là nỗi đau tình luôn đau đáu trong
hồn ông. Ông tìm quyên trên những ngã đường giong ruổi lãng du. Ông thường “đi
đây đi đó trú ngụ trong các chùa chiền, có dịp tai nghe mắt thấy nhiều sự thực về
đời sống các sư sãi trong thời cuối Lê đầu Nguyễn”.
“Chẳng ưa Tây Sơn định ẩn non cao

Khoác cà sa lánh đời phức tạp”
(Phạm Thái Quỳnh Như – Nghiêm Phái, Thư Linh, 1994)
Phạm Thái trong “sơ kính tân trang” đã dựng cảnh chùa chiền thành những bức
tranh sinh động. Phạm Thái đã từng khoác ào cà sa, lấy hiệu là Phổ Chiếu thiền sư
nhưng ông không phải là “sư hổ mang” nên không chấp nhận những cảnh bệ rạc xảy
ra trong nhà chùa.
8


1.2.2. Hồ Xuân Hương:

Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi. Tuy
nhiên giới nghiên cứu đã thống nhất một số ý kiến sau:
Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu,
tỉnh Nghệ An. Đây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến
đời Hồ Phi Diễn, thân sinh của bà thì dòng họ này đã suy tàn.
Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn Hữu Tiến,
Dương Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn (1704) ở làng Quỳnh Ðôi, huyện
Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông thi đậu Tú Tài năm 24 tuổi dưới triều Lê Bảo Thái. Nhà
nghèo không thể tiếp tục học, ông ra dạy học ở Hải Hưng, Hà Bắc để kiếm sống. Tại
đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh, họ Hà, làm vợ lẽ. Hồ Xuân Hương ra đời là kết quả
của mối tình duyên đó.
Bà sống vào thời cuối Lê, đầu Nguyễn. Do đó bà có điều kiện tiếp thi ảnh
hưởng của phong trào đấu tranh quần chúng và chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà
nước phong kiến, đặc biệt là giới vua quan và sư sãi.
Theo một số công trình nghiên cứu về cuộc đời của Hồ Xuân Hương thì Hồ
Xuân Hương là một phụ nữ học rộng, đi nhiều, biết nhiều. Như lời của Tốn Phong
viết bài tựa Lưu Hương Ký thì bà tinh thông cả Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo, đặc
biệt là về Phật Giáo bà có một kiến thức khá rộng và uyên bác.
Tương truyền Hồ Xuân Hương là người thường đi chùa, cuối đời có đi tu một

thời gian, nhưng trong thơ bà ta lại thấy bà “ghét” sư đến mức thậm tệ. Bà gọi sư là
“lũ trọc đầu”, “phúc đức như ông được mấy bồ ?”, “hỏi thăm sư cụ đáo nơi
neo ?”, sư “chái gió cho nên phải lộn lèo” ,“một sư đầu trọc ngồi khua mõ, hai tiểu
lưng tròn đứng giữ am”.Thậm chí Hồ Xuân Hương còn mắng bọn dốt đến cửa thiền,
là “phường lòi tói”, đề thơ dở làm dơ bẩn nhà chùa: “muốn sống đem vôi quét trả
đền”.
Hồ Xuân Hương đi chùa nhiều và thường xuyên đi chùa, cho nên Hồ Xuân
Hương hiểu rã và thấy rõ thực trạng tha hóa, biến chất của giới sư tăng lúc bấy giờ.
Tất cả được phản ánh một cách chân thực trong thơ văn của bà.
1.3.
Đề tài chùa chiền trong văn học:
Trong bối cảnh “tình hình xã hội ngày càng đi vào khủng hoảng bế tắc, đời
sống chính trị ngày càng rối ren thì con người không có cánh nào khác là đi tìm tính
ngưỡng tôn giáo để cứu cánh”(Nguyễn Đăng Duy – Đạo giáo với văn hóa Việt
Nam). Đạo Phật có chân đế vững chắc ở đất nước ta từ thế kỉ thứ X. Chùa chiền
được xây dựng khá nhiều, đó là nơi thờ Phật đồng thời là danh thắng, nơi vãn cảnh
của du khách thập phương. Các vị thiền sư, cao tăng, thiện nam, tín nữ thu hút sự
ngưỡng mộ của mọi người cho nên người tu hành không phải là ít. Với quan niệm
cửa chùa luôn rộng mở, đón người sảy bước lỡ đường…nên người tá túc, nương náu
của chùa ngày thêm nhiều hơn. Khi đất nước nhiễu nhương, mấy thế kỉ chiến tranh
nội chiến xảy ra liên miên, cảnh người chết, cháy nhà diễn ra nhan nhản khắp nơi.
9


Người vô gia cư, không nghề nghiệp…trôi nổi đầy đường. Vì thế nhà chùa ngày
càng mất tính chất tôn nghiêm do bọn bất lương, kẻ trộm cắp có thể trà trộn vào.
Người chân tu thì ít mà kẻ gian xảo lọc lừa lại nhiều, nhà chùa trở nên lộn xôn mất
trật tự. Đặc biệt thời cuối Lê đầu Nguyễn mâu thuẫn xã hội gay gắt, sự tan rã của chế
độ phong kiến làm cho không ít chùa chiền đương thời không còn là nơi hành đạo
của các bậc chân tu. Nhiều cảnh chướng tai gai mắt diễn ra trước đài Phật. Thơ văn

viết về đề tài chùa chiền thường mang sắc thái trào phúng rất sắc sảo. Trong nhân
gian có rất nhiều câu ca dao châm chọc các bậc tu hành “dởm” trong xã hội cuối Lê
đầu Nguyễn ấy:
“Nam mô bồ tát bồ hòn
Ông sư bà vãi cuộn tròn lấy nhau”
“Hôm nay mười bốn trăng rằm
Ai muốn ăn oản thì nằm với sư”
“Nam mô hai chũ từ bi
Phật còn ve gái huống chi thầy chùa”
“A Di đà Phật
Chùa chật cho nên
Hai cô nằm ngủ hai bên
Thầy chen vào giữa trùm mên cho vui”
“Cái trống sắc đỏ
Cái mỏ sơn son
Ông sư bà vãi có con rõ ràng”
Không có lửa làm sao có khói. Dân gian đã nói rõ như thế, không ai đặt điều.
Các nhà thơ đương thời cũng nhận thấy sự tha hóa, biến chất của các nhà sư thời đại
bấy giờ. Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…là những nhà
thơ trào phúng lớn, nội dung trào phúng của những họ đều đã đạt tới mức sâu sắc,
đớn đau. Lời thơ cứ chan chát như búa tạ nện vào tất cả các tầng lớp xã hội mà
không thém kiêng kị một ai, kể cả các bậc tu hành. Hiện thực trong nhà chùa khiến
các thầy tu cũng vô phương cải chính. Hòa thượng Giả Ngu trong tuồng Sơn Hậu
cũng đã thừa nhận:
“Tuy chẳng phải như ông thầy cả
Song cũng đà dựa cốt Phật bà
Bốn mùa mặc những áo già
Tám tiết ăn ròng rau muống
Đi tu có giới cấm:
Nhất giới sát sinh

Nhị giới ẩm tửu
Tam giới hoặc ngôn
Ngũ giới tà dâm
Cấm thì cấm vậy mà thôi, thương hại cho tôi
10


Giở bình tương nghĩ tới thịt hầm
Gắp rau muống nhớ mùi mắm ruốc!
Gái mười bảy lịch nên quá lịch
Cúng bữa rằm làm sãi ngẩn ngơ…”
(Sơn Hậu)
Phê phán xã hội Phật giáo lúc bấy giờ Nguyễn Khuyến cũng có những câu thơ
rất đắt giá mà chủ yếu là “chế” chứ không tới mức là “giểu”:
“Đầu trọc lóc bình vôi
Nhảy tót lên chùa ngồi.
Y a kinh một bộ
Lóc cóc mõ ba hồi.
Cơm chẳng cần cá, thịt
Ăn rặt oản chuối xôi.
Không biết câu tình dục
Đành chịu tiếng mồ côi”
Ta thấy bài ngụ ngôn bát cú này có hai bút pháp: bốn câu đầu đều là trào
phúng, nhưng bốn câu sau chỉ nói bộ thế thôi, thấy thế nào nói thế ấy, rất mực bình
thường không thêm ý tình của tác giả, như cốt cho xong bài. Nhưng, câu thứ hai
“Nhảy tót lên chùa ngồi” có chiều sâu của sự đả kích. Chẳng có tư cách gì, học vấn
gì, đạo đức đặc biệt gì, chỉ cạo trọc lọc cái đầu mà lên chùa. Là chiếm lấy cái địa vị
thầy sư, ông sư, nhà sư. Lời phê bình khá nặng, nhưng một mình câu ấy không đủ
sức để gánh hộ các câu khác, cho nên mức chế giễu của bài thơ chưa đến mức sâu
sắc như Tú Xương.

Trong một bài thơ Tú Xương có lần nói: “Đức tu hành sư có lọng”, đã gọi là
đi tu, mà cũng thích hư vinh. Trong bài “Ông sư và mấy ả lên đồng” ông viết:
“Chẳng khốn gì hơn cái nợ chồng,
Thà rằng bạn quách với sư xong!
Một thằng trọc tếch ngồi khua mõ,
Hai ả tròn xoe đúng múa bông,
Thấp thoáng bên đènlên bóng cậu,
Thướt tha dưới án nguýt sư ông
Chị en thủ thỉ đêm canh vắng:
Chẳng sướng gì hơn lúc thượng đồng”
Tú Xương đã vẽ hẳn một hoạt họa nhỏ rất sinh động: cặp mắt của chị em lên
đồng “nguýt sư ông”, đưa ngang mới làm sao! Và sư ông có lẽ nào chịu để người ta
nguýt mãi mình không ăn ý. Tú Xương gọi sự vật bằng tên của nó, gọi đúng phẩm
giá của con người cụ thể này: “Một thằng trọc tếch ngồi khua mõ”, nó là một thằng,
chứ không lôi thôi vẽ vời gí cả, đối với “Hai ả tròn xoe đứng múa bông”.

11


Và Tú Xương còn có một bài tứ tuyệt nhân việc sư cụ chùa Cuối ở nam Định
bị bắt để tra hỏi về vụ tên sĩ quan Pháp đang chỉ huy việc xây trại lính ở Nam Định,
trụ tại chùa ấy, bị lấy trộm hòm lương phát lính:
“Quảng đại từ bi cũng phải tù
Hay là sư cụ vụng đường tu?
Tụng kinh cứu khổ ba trăm quyển
Ý hẳn còn quên một phép phù”
Giọng thơ châm biếm khá chua cay, sư bao nhiêu kinh nhưng chưa học phù
thủy để cứu mình ra khỏi tù!
Sư ông, sư tiên, chú tiểu, vãi giác…Chân dung của họ dần hiện ra dưới con
mắt của các nhà trào phúng với một vẻ khệnh khạng, khập khiểng, không giống ai,

và không hiện kên theo một trật tự, kỉ cương nào.
Như vậy, ta có thể thấy trong văn học Trung đại đã có rất nhiều tác giả cũng
viết về chùa chiền với tiếng nói đả phá, nhưng chỉ với Xuân Hương và Phạm Thái thì
tiếng nói ấy mới thực sự mạnh mẽ.
CHƯƠNG II: KHẢO SÁT MẢNG THƠ CHÙA CHIỀN TRONG THƠ HỒ
XUÂN HƯƠNG VÀ PHẠM THÁI
2.1.Thiên nhiên chùa chiền trong thơ Phạm Thái và Hồ Xuân Hương
2.1.1. Thiên nhiên chùa chiền trong thơ Phạm Thái
Trong các sáng tác của Phạm Thái, ta thấy cảnh trí non sông đất nước hiện lên rất
đa dạng, phong phú. Những bức tranh thiên hiên mĩ miều thường gắn liền với bước
chân của khách “lãng tử” nhàn du. Đó là những bức tranh thiên nhiên non sông tươi
đẹp hoặc là những bức tranh thanh khiết hữu tình đậm màu sắc Phật giáo.
Những cảnh đẹp ấy có thể là cảnh một vùng sông nước với:
“Chèo hoa dẫm nhịp ca màu thương lang
Xanh xanh bãi biếc sông vàng
Xôn hồng đón khách, nỗi hương đưa người”
(Sơ kính tân trang)
Hay cảnh đẹp khi đạo sĩ(Thụy Châu) từ biệt sơn tăng(Phạm Kim) ra đi, có “nước
xanh lần chở, gió vàng thẳng đưa”. Cảnh ẩn hiện trong mấy khói, như hư như thực,
thỉnh thoảng vang lên tiếng chuông ngân dài:
“Tạ sơn tăng, lại thảnh thơi lên đường,
Thênh thênh thuyền bách nhẹ nhàng.
Nước xanh lần chở, gió vàng thẳng đưa.
Kìa đâu chiền sớm, chợ trưa,
Chày boong boong nện, khói mờ mờ bay.
Kìa đâu doành nguyệt, am mây,
Cô giong chỉ thắm, chị lay đóa vàng.”
(Sơ kính tân trang)

12



Thơ Phạm Thái có những bức tranh tuyệt đẹp về cảnh chùa chiền ẩn hiện trong
mây trời, đá núi, cây cối, hoa cỏ…đó là những cảnh sơn thủy hữu tình. Cảnh nao nao
một trời mộng và thực. Cảnh là cảnh thực vì nước ta nơi chùa chiền, cảnh thường
nhưthế. Cảnh là tâm cảnh bởi vì có những cây ưa quý đậm tính ước lệ trong bức
tranh tứ bình “tùng, cúc, trúc, đào (mai). Thiên nhiên được điểm xuyết với những
hình ảnh rất đẹp: liễu buông cành, trúc gãy đàn, trăng soi tỏ mặt hoa. Khi ấy lại vang
lên tiếng nhạc của núi rừng, tiếng phách của đại ngàn, tiếng gió thổi vào cửa hang,
tiếng chim hót, gà gáy, suối tuôn:
“Hoa đưa chén trúc, hương từng án thông
Mành rủ liễu, tán giương tùng
Trúc khua phách đá, lan lồng áo tiêu
Đèn trăng tỏa đóa hoa đào
Cửa hang gió thổi, tiếng khua dập dìu
Đầu non vượn hót khỉ trèo
Cây kề cửa động, hoa leo mái già
Chim, gà gióng dõi tiếng ca
Nước tuôn khe biếc, khói pha lá vàng”
(Sơ kính tân trang)
Phạm Thái miêu tả con đường đi tu của Phạm Kim giống như đang miêu tả hành
trình đến với cái đẹp, đến với vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên. Cảnh quen thuộc mà
thanh tao, gần gũi với thiên nhiên trong sạch, thoát phàm:
“Ca chim, đàn suối, phách rừng
Chiếu mây rải đá, đèn trăng treo tùng
Phong quang mấy vẻ não nùng
Đem miền Tây Trúc, về vùng Nam Giao”
(Sơ kính tân trang)
Cảnh không chỉ đẹp mà còn thanh như cảnh sắc của cõi Phật. Đó là bức tranh
tinh xảo của Hóa công, là tuyệt tác của vũtrụ! Cảnh không phải chỉlà một lát cắt của

thiên nhiên mà phải là “Một bầu thếgiới thu vào” (Sơkính tân trang)! Ở đó, chim
chóc có đôi có bạn chuyền cành thật tình tứ, vui tươi. Cảnh đẹp một cách hoang sơ,
tựnhiên, không cắt tỉa, uốn nắn, giảtạo. Cảnh nơi chùa chiền thường đẹp một cách
thâm trầm, huyền diệu gần nhưthoát tục. Chim chóc, vạn vật cũng say sưa mùi thiền:
“Cỏhoa ngào ngạt nức hương trời, thưa nhặt véo von chim lắng kệ;
Non nước rỡràng thêu vẻ đất, thấp cao chan chứa đá nghe kinh”
(Tờphảkhuyến làm tam quan chùa Tam Thanh),
“Gió từhây hẩy đưa buồm gấm,
Trăng tuệlàu làu rạng tán hoa”
(Sơn âm cổtự).
Cảnh chùa Tiêu Sơn đẹp như “bức liễn” treo ở bàn thờ gia tiên:
“Gió thổi hiu hiu vàng cửa động,
Gấm thêu san sát thắm sườn non.
13


Đá xây chan chứa, kinh dài ngắn,
Hoa phấn xôn xao, nhạn véo von”
(Đềchùa Tiêu Sơn).
Với bút pháp tả cảnh giàu hình ảnh, màu sắc, âm thanh, Phạm Thái để lại cho
chúng ta một bức tranh khắc họa khác:
“Sang Quỳnh Lâm cũng xa xa,
Năm năm công việc, ba toà Phạm cung.
Vào Yên tử rất non cùng,
Đàn xô nước suối, phách giong cây rừng.
Mây giăng thượng điện ngất chừng,
Cây lồng tán rợp, hoa lừng hương xông.
Dần dần ra tới Thành Công,
Cây ngang Kính Chủ bên dòng nước tuôn.
Đá sực sực, nước cồn cồn,

Chông chênh cửa động, chon chon mái chùa.”
(Sơkính tân trang)
Với hai câu thơ cuối ta thấy hình như tạo hóa cố ra tay xếp đặt cái thế chênh
vênh với những “đá sực sực, nước cồn cồn” dưới chân ngôi chùa để làm giảm bớt sự
u tịch, trầm mặc của cảnh quan hay làm tăng uy cho đức Phật?
Chùa lẫn vào mây núi, thiên nhiên huyền diệu tạo nên khúc nhạc trầm hùng và
mùi thơm sực nức…quyến rủ. Nhà thơ như say theo cả bầu trời và cảnh Bụt!
Từ mạn Đông Bắc, Phạm Thái trở vào phía Nam, ông chọn ngôi chùa Kim Sơn
trên đất kim Sơn để khoác áo thiền tăng và ông đã phác thảo một bức danh họa đặc
sắc:
“Kim Sơn phong cảnh đâu bằng,
Hoa đua chén cúc, hương lồng án thung.
Mành liễu rủ, tán dương tùng,
Trúc khua phách đá, lan lồng áo tiêu.
Đèn trăng tỏa đóa hoa đào,
Cửa hang gió thổi, tiếng điêu dập dìu.”
Tranh cảnh chùa của Phạm Thái tuy chưa thoát khỏi bút pháp hội họa sơn
thủy, dấu ấn của thời đại nhưng đã có ít nhiều nét cách tân về hình khối, màu sắc, âm
thanh, hương vị…
Có thể nói tầm nhìn của nhà thơ – du khách Phạm Thái – thật rộng, thật tinh
tế. Ông bao quát cả một vùng non nước Tổ quốc Việt Nam, để rồi dệt nên một bức
tranh giang sơn tuyệt mỹ, có đường nét thấp cao uyển chuyển, có màu sắc xanh tươi,
có âm thanh rộn ràng, khi thánh thót ngân nga, có cảhương vịnhẹnhàng, thanh
thoát… Cảnh thiên tạo (núi non, rừng suối) xen với cảnh nhân tạo (tòa nhà, mái
chùa) cứdần dần hiện ra trong một niềm say mê, một tình yêu đằm thắm.
Qua bức tranh phong cảnh của những vùng đất với những ngôi chùa nổi tiếng
như chùa Quỳnh Lâm, chùa yên Tử “rất non cùng”, cho đến chùa Thành Công, chùa
14



Kính Chủ…ông bộc lộrõ một tình yêu thiên nhiên, tình yêu Tổquốc đằm thắm, thiết
tha, rất đáng kính trọng…
Đối lập với những bức tranh thiên nhiên mĩ miều, trong thơ Phạm Thái còn có
những bức tranh chùa chiền rất ảm đạm. Những bức tranh ảm đạm, tối tăm, nhếch
nhác đó thường gắn liền với xã hội dưới sự thống trị của kẻ thù. Đó là những bức
tranh xấu xí, bẩn thỉu. Nó là tấm gương phản chiếu diện mạo, bản chất xấu xa của kẻ
thù. Dưới sự thống trị của kẻ thù, quang cảnh của đất nước mới hoá ra nhưthế.
Những di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh đã đổ nát: “…tan bình xá lị; …nát dấu
chôn bùa”, “…nát mất cả giềng, …trơ những sống…”
Cảnh vật không gây một chút thiện cảm nào mà làm cho con người cảm thấy
chán ghét nó vì sựtàn tạ, thô kệch, sống sượng, giả dối, gây cảm giác khó chịu:
“Chùa Châu Long hương cúng khét mù, nghe mõ cá đã rúc vang cầu Trúc;
Hồ Bạch Mã sen bay mất cả, làm giấy hoa đem bán giả sông Tô.”
(Chiến tụng Tây Hồphú).
Cảnh thiên nhiên không có gì là thơ mộng lãng mạn lại càng không giống
cảnh ở dương thế: “Khói viễn thôn khi ngọn gió ra vào, trông thoáng ngỡ nhà ma
cửa lấp;…” (Chiến tụng Tây Hồphú).
Hai bức tranh trong thơ Phạm Thái: một bức thì mĩ miều; một bức thì ảm
đạm. Hai bức tranh ấy thực ra không hề mâu thuẫn mà thống nhất trong con người
Phạm Thái. Ông là con người phong lưu lãng mạn đi ngao du đây đó. Những bức
tranh đẹp thường là những bức tranh Phạm Thái vẽ trong lúc đang yêu hay lúc ông
đã hoàn toàn chán ngán sự nghiệp mà tìm vui trong cảnh. Đó là những lúc ông đã
“quên” mục đích chính trị của mình. Đó là những bức tranh vẽ cảnh đẹp khách quan
bằng bút pháp hiện thực nhất, những bức tranh buồn bã, đen tối là những bức tranh
ông vẽ trong đau đớn, bực tức, hằn học khi thất bại trên chính trường.
2.1.2. Thiên nhiên chùa chiền trong thơ Hồ Xuân Hương
Trong “Sơ kính tân trang” Phạm Kim không phải là chân tu nhưng ít nhất chùa
chiền nơi Phạm Kim tu hành cũng khuất xa trần tục và có nếp sinh hoạt “khổ hạnh”.
Nhà sư say sưa trong cảnh:
“Hoa chểnh mảng, nguyệt ơ hờ,

Tuyết e ấp vẻ, gió ngơ ngẩn chiều.
Cỏ hoa kết bạn dập dìu,
Nhiều bên tĩnh thú, ít liều trần gian”
Phải chăng đó mới là cảnh chùa chiền thực sự trong con mắt Phạm Thái?
Ngược lại, đứng trước cảnh chùa “HồXuân Hương không tìm vẻ đẹp của thiên nhiên
mà chỉ chú ý đến cảnh ngược đời của bọn sùng đạo”.
Hồ Xuân Hương yêu đời, yêu thiên nhiên nên bà luôn mang đến cho thiên
nhiên trong thơ mình một chất sống tràn trề. Thiên nhiên có lúc hiện lên thật bình dị
mà không kếm phần sinh động:
“Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
15


Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo”
(Đèo Ba Dội)
Có khi lại thật hùng vĩ, vui tươi:
“Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo”
(Đèo Ba Dội)
Hai câu thơ như cho ta cảm giác đứng trước một đèo có ba đợt dốc, giữa
là núi non hiểm trở.Khung cảnh ấy được nhìn từ trên cao:
“Tình cảnh ấy, nước non này
Dẫu không Bồng Đảo cũng Tiên đây.
Hành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn,
Thứu Lĩnh đen trùm một thức mây.
Lấp ló đầu non vừng nguyệt chếch,
Phất phơ sườn núi lá thu bay.”
(Một cảnh chùa)
Đây là bài thơ duy nhất của Hồ Xuân Hương mở đầu bằng câu thơ 6 chữ.
Nhưng vấn đề ở đây là vịnh cảnh chùa nhưng lại xuất hiện Bồng Đảo, rồi Tiên.

“Bồng Đảo” ở đây khiến ta liên tưởng đến hình ảnh “Đôi gò Bồng Đảo sương
còn ngậm” (Thiếu nữ ngủ ngày). Tả xảnh núi non chùa Thầy từ trên cao, chỉ Xuân
Hương mới ví cảnh núi non “Hành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn, Thứu Lĩnh đen
trùm một thức mây” ngực núi điểm hai hàng nhạn như hai chấm mực, rồi ở dưới là
đen trùm một thức mây. Câu thơ tưởng nặng nề bổng chốc thanh thoát với ánh sáng
của vầng trăng từ phía dưới trời dọi lên. Và, những chiếc lá bay nhẹ nhàng “Lấp ló
đầu non vầng nguyệt chếch. Phất phơ sườn núi lá thu bay”. Với góc nhìn thiên lệch,
không giống ai của mình Hồ Xuân Hương đã ví cảnh chùa ở đây giống như thân thể
thiên nhiên của người phụ nữ. Xuân Hương yêu thiên nhiên, vì vậy bà lên án những
kẻ không biết cảm nhận cái đẹp. Những kẻ chỉ biết “đứng lượm tay”. Tuy nhiên, vấn
đề ở đây là, cảnh chùa lại được ví như thân thể của người phụ nữ, của bà mẹ tạo
hóa?.
Cảnh chùa Thầy trong mắt Hồ Xuân Hương luôn được nhìn dưới con mắt cá
tính hóa, dị biệt hóa, nhìn bằng con mắt tục.
“Khen thay con tạo khéo khôn phàm:
Một đố giương ra biết mấy ngoàm!
Lườm đá cỏ leo sờ rậm rạp
Lách khe nước rỉ nó lam nham.”
(Hang Thanh Hóa)
Bằng con mắt tục Hồ Xuân Hương đã gán cho Hang Thánh hoá Chùa Thầy,
thánh tích thiêng liêng của đồng bào Phật tử Việt Nam, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh
cởi bỏ nhục thân để đầu thai thành Vua Lý Thần Tông là cái dương vật: “một đố
dương ra biết mấy ngoàm”.
16


Hay tả cảnh trí đột ngột của hang Cắc Cớ:
“Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt ra đôi mảnh hỏm hòm hom
Kẻ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn

Luồng gió thông reo vỗ phập phòm”
Hay trong bài “Động Hương Tích”:
“Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm:
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom
Người quen cõi Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót
Con thuyền vô trạo cúi lom khom”
Động Hương Tích là một địa danh nổi tiếng của Việt Nam. Hằng năm tới
tháng giêng hàng trăm du khách tới trẩy hội chùa. Dưới sự miêu tả của Hồ Xuân
Hương, người đọc có cảm giác như khi vào động thì phải leo ngược lên mới bắt gặp
hang động “khéo khéo phòm”, thanh bằng ở cuối câu thơ giống như tiếng thở phào
khi đến nơi. Và chỉ thấy “nứt ra một lỗ hỏm hòm hom”. Từ cảnh thực Xuân Hương
đưa ta đến với những cảnh phi thực, chỉ có trong tưởng tượng: “Giọt nước hữu tình
rơi thánh thót. Con thuyền vô trạo cúi lom khom”.
Với tạo vần “eo” một thiên nhiên nghèo nàn, xơ xác dần hiện ra. Một cảnh thu
cô quạnh đìu hiu, con đường đi xiên vẹo, cái quán tiêu điều, cột xiêu vách nát, một
dòng nước lăn tăn…Một cảm giác thật buồn tẻ và hình ảnh cũng thật rõ rệt. Đó là
hình ảnh con đường đi thăm thú cảnh chùa:
“Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo
Lợp liều mái cỏ tranh xơ xác
Xỏ kẻ kèo tre đốt khẳng kheo
Ba chạc cây xanh hình uốn éo
Một dòng nước biếc cảnh cheo leo”
(Quán khánh)
Nghệ thuật tả cảnh trong thơ Hồ Xuân Hương rất độc đáo và thiên nhiên
ấy cũng rất gần gũi với cuộc sống của người dân, đó là cảnh chùa Hương,
Hang Thanh Hóa, Động Hương Tích…Bằng ngôn ngữ của nhân dân, nôm na,
giản dị bức tranh thiên nhiên bà vẽ nên rất sinh động và đầy chất sống. Và, thơ

bà bao giờ cũng vậy, tả thiên nhiên nhưng qua đó còn để đả kích, phê phán, lên
án giới sư tăng, vãi già…
2.2. Đả phá chùa chiền trong thơ Hồ Xuân Hương và Phạm Thái
2.2.1. Đả phá chùa chiền trong thơ Phạm Thái
Trong bối cảnh “tình hình xã hộingày càng đi vào khủng hoảng bế tắc, đời
sống chính trị ngày càng rối ren thì con người không có cách nào khác là đi tìm tín
17


ngưỡng tôn giáo để cứu cánh”( Đạo giáo với văn hóa Việt Nam) Phạm Thái tìm đến tôn
giáo vì phải lẩn trốn sự truy nã của Tây Sơn. Ông “thường đi đây đi đó trú ngụ trong
các chùa chiền, có dịp tai nghe mắt thấy nhiều sự thực về đời sống các sư sãi trong
thời cuối Lê đầu Nguyễn”(Mấy vấn đềphương pháp dạy thơvăn cổViệt Nam)
Phạm Thái tuy phải chuốc nhiều thất bại trên đường đời và ông muốn lẩn
tránh cuộc đời nhưng con người nghệ sĩ nơi ông vẫn ràng buộc với non sông đất
nước, với con người và cuộc đời muôn mặt. Ông luôn nhìn cảnh sắc non sông đầy vẻ
mến mộ, ông luôn hòa mình vào những sinh hoạt của nhân dân. Cũng chính vì thế
mà Phạm Thái đã lên tiếng phê phán, thậm chí chế giễu, đả kích không thương tiếc
những mặt xấu của xã hội, những cảnh ngược đời, nhố nhăng, chướng tai gai mắt
diễn ra nham nhảm trong cuộc sống hằng ngày, đặc biệt là giới sư sãi, chùa chiền.
Phạm Thái trong “Sơ kính tân trang” đã dựng “cảnh chùa chiền” thành những
bức tranh sinh động. Phạm Thái đã từng khoác áo cà sa, lấy đạo hiệu là Phổ Chiêu
thiền sư nhưng ông không phải “sư hổ mang” nên không chấp nhận những cảnh bệ
rạc xảy ra trong nhà chùa.
Đến với chùa Thầy ở Sài Sơn và chùa Phật Tích, Phạm Thái không chú trọng
cảnh quan chung hẳn là có nhiều nét hấp dẫn mà tập trung quan sát kĩ và tinh tế cảnh
sinh hoạt ở đây. Phải chăng ẩn ý của ông là: chính bọn “sư sãi hẩu lốn” ở chốn này
đã xóa mờ, thậm chí bôi nhọ danh lam thắng cảnh đó? Hãy xem Phạm Thái điểm
mặt: “Sư huynh chải chuốt, vãi già đong đưa”. Họ thuộc hàng chức sắc, sống nhiều
năm trong nhà chùa nhưng hình như chỉ lo trau chuốt, làm dáng hay đưa đẩy, lả lơi!

Còn “tiểu gái”thì “Ra vào (...) lẳng lơ, Long lanh mắt liếc, say sưa miệng cười”.
Chắc chắn điều mà chúng “đốn ngộ”là “Chẳng sướng gì hơn lúc thượng đồng” (Ông
sư và mấy ả lên đồng - Tú Xương).
Còn “sưtiên”? Phạm Thái đã dành hẳn sáu dòng thơ đặc tảtrang phục,
mũmãng, xe pháo và cây gậy thiền trượng của ông ta: “xe thêu kim tuyến”, “hoa sen
da lợn”, “gậy mun bạc bít”, “mũvàng gấm căng”… Ông ta “mơ màng tràng hạt”
làm chúng ta liên tưởng đến bài ca dao “Sư đang tụng niệm nam mô...” thấy gái bỏ
cả kinh, kệ “ra vào băn khoăn”! Cái xã hội nhà chùa Sài Sơn lôi thôi và bê tha quá!
Chùa Phật Tích nơi quê hương của nhà thơ Kinh Bắc, “mới gọi là”nơi thực sự tụng
kinh niệm Phật chăng? Phạm Thái sử dụng sở trường của từ láy âm và lối đảo từ
“mềm mại điệu”, “tha thiết chiều”, “bẻ bai chiều lịch”, “dập dìu dạng thanh”…để
xếp Phật Tích cũng là Sài Sơn không hơn không kém.
Không giữ nổi thái độ bình tĩnh, với giọng mỉa mai, Phạm Thái đã phải kêu:
“Ối nao ôi! Khổ tu hành!”. HồXuân Hương cũng đã nhận thấy: “Cái kiếp tu hành
nặng đá đeo” (kiếp tu hành). Phạm Thái dùng câu hỏi tu từ “Biết Tây phương có
dạng hình này không?”có ý nghĩa như một sự phủ định. Đến thơ văn Phạm Thái thì
thấy đâu đâu bọn sư sãi cũng yểu điệu, thướt tha, chốn tu hành chẳng khác gì nơi
“hội chợ phù hoa”, mặc sức “lăng nhăng lít nhít”, “đỏng đảnh”, “làm trò Phạm
Vũ” (Chiến tụng Tây Hồ phú). Đối với Phạm Thái chốn tu hành phải thật sự thanh
18


tao, thoát tục chứ nhiều chùa “thấp ụp”, Bụt “đen sì”… tiểu “phềnh bụng gạo”, sãi,
vãi “má đen chó đá”, “mắt sâu sấu sành” (Sơkính tân trang), hương cúng “khét mù”
càng làm cho cảnh chùa chiền trở nên trần tục mất vẻ thanh thoát: “...hương cúng
khét mù, nghe mõ cá đã rúc vang...” (Chiến tụng Tây Hồphú).
Thơvăn Phạm Thái đã tô đậm thêm và là nét vẽtruyền thần về “cảnh chùa
chiền”làm cho người đọc tưởng tượng ra cảnh tan hoang tiêu điều và cái suy đồi nơi
chùa chiền vào cái thời mà chiến tranh loạn lạc, không ai thèm cúng bái nên sưsãi
phải tựxoay xởvà sinh hoạt có phần trần tục như đang sinh hoạt xã hội bình thường.

Tiếng kệkinh “ỳà” chen lẫn tiếng cười của các sưcô đã làmcho “khách tang hải giật
mình” (Hương Sơn phong cảnh - Chu Mạnh Trinh) trong cõi thực!
Gắn liền chùa chiền là tiếng chuông chùa, tiếng chày, tiếng mõ, tiếng kệkinh.
Chùa chiền mà không có chúng thì không còn “không khí” chùa chiền nữa: “Bà
Đanh vắng ngắt tiếng chuông chùa” (Chiến tụng Tây Hồphú). Trong thơPhạm Thái,
những âm thanh này được cảm nhận bằng những tâm trạng rất khác nhau. Có khi nó
có sức quyến rũlớn: “Tiếng kình réo rắt giục lòng son, Đưa khách tầm thanh tới
phạm môn” (Đềchùa Tiêu Sơn). Có khi tiếng chuông làm thức tỉnh những vọngtâm
mê lầm: “….nện chuông vàng cho vang tiếng đạo tâm,...” (Tờphảkhuyến làm tam
quan chùa Tam Thanh). Tuy nhiên, cũng có lúc những âm thanh vang lên từnhững
mái chùa ấy càng gây thêm cảm giác khó chịu, bực bội:“Chày cổtựmới đâm sương
chểnh choảng,…” hay: “...nghe mõ cá đã rúc vang…” (Chiến tụng Tây Hồphú). Đó
là những lúc con người nhìn đời bằng con mắt chán chường, trần tục nhất vì đau khổ,
mất mát những tình cảnh to lớn. Đây là cảm nhận vềtiếng chuông chùa trong thời
khắc Phạm Kim mất cha mẹ: “Địch đâu thổi sớm, chuông đâu nện chiều?”.
Tiếng“Chày boong boong nện,...”, tiếng “...gào mõ cá...” (Sơkính tân trang) nghe
rất thực đối với người không “hằng tâm” nhưThụy Châu, Phạm Kim.
2.2.2. Đả phá chùa chiền trong thơ Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương đi chùa nhiều, việc đến với Phật giáo có thể mang đến cho con
người chỗ trú ngụ lẫn sự thực hiện tâm linh. Nhưng, sự thực khi đến với chùa chiền
bà lại thấy sự thối nát của các thể chế tôn giáo vào thời mình và bà ném ra những lời
nói kháy tinh quái nhất vào giới tăng lữ suy đồi, lười biếng và dễ bị hối lộ.Xuân
Hương lên tiếng đã kích, phê phán, đả phágiới giới sư sãi rất mạnh mẽ. Vì họ là một
trong hai thế lực tiêu biểu của xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Vua quan đại diện cho
cường quyền, sư sãi đại diện cho thần quyền. Họ đại diện cho luật pháp và tâm linh,
nhưng chính họ lại là những người vi phạm nghiêm trọng những giá trị văn hóa, đạo
đức. Đi ngược với mọi quy luật . Phê phán nhưng không phải vơ đũa cả nắm mà
Xuân Hương chỉ lên án, đả phá những kẻ làm đảo lộn các giá trị đạo đức, các ông sư,
bà vãi dởm đời mà thôi.
Tuy nhiên cách phê phán của Hồ Xuân Hương lại không giống người lao động

hoặc các nhà thơ, nhà văn khác, Hồ Xuân Hương chỉ nhẹ nhàng chỉ ra cái xấu, cái tệ
hại như vốn dĩ đã có để đùa bởn, châm biếm thậm chí chỉ gây cười, và có khi lại là
19


cái cười rộng lượng, thông cảm…nhẹ nhàng mà sâu cay. Bà không đòi chém đầu trị
tội hay tiêu diệt bất cứ một ai, mà chỉ nhẹ lách ngòi bút của mình về hướng hài hước,
có chút dung tục để trên nền chung đó các đối tượng hiện ra khập khiểng, khệnh
khạng, méo mó, luộm thuộm, không giống ai…và cái xấu cũng từ đó lộ diện. Từ cái
vỏ ngoài cao quý đạo đức bị bóc trần chỉ còn trơ lai con người bản năng trong sự ê
chề xấu hổ. Đó chính là cách mà Xuân Hương dùng để lật trần bộ mặt của các bậc tu
hành.
Bậc tu hành trong xã hội luôn luôn được mọi người kính nể, dù người đó có
theo đạo hay không. Người tu hành không chỉ tu trì trai giới cho chính bản thân mà
còn cầu độ cho tất cả chúng sinh. Đứng về mặt tính gưỡng mà nói thì đó cũng là một
hành động hy sinh cá nhân mình cho cuộc sống tốt đẹp của đông đảo mọi người. Vì
thế họ phải được kính nể, ra đường họ xứng đáng được mọi người trọng vọng ngã
mủ cúi chào…Thế nhưng, những thầy tu mà Hồ Xuân Hương trông thấy hình như
không ra dáng thầy tu:
“Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta
Dầu thì trọc lóc áo không tà”
( Sư hổ mang)
Hình dáng không giống ai, trọc đầu nhưng không có đuôi sam nên chẳng phải
Ngô, và không có tóc nên chẳng giống dân ta một chút nào vì ở nước ta nam nữ thời
ấy đều để tóc dài: “đầu thì trọc lốc, áo không tà”. Tất nhiên thầy tu phải như thế
nhưng trong cách nói của Hồ Xuân Hương cho thấy sự luộm thuộm, lôi thôi, không
tươm tất thông qua cách nói nhấn mạnh “trọc lốc, không tà”. Các vị sư này đều có
đủ “nào nón tu lờ”, nào “mũ thâm” thế nhưng đi ra đường lại không thích đội “ đi
đâu không đội để ong châm”. Đó là sự vụng trộm, là thái độ thiếu vẻ đường đường
chính chính của một nhà tu hành. Do vậy Hồ Xuân Hương không ngần ngại gọi

“kiếp tu hành”. Bởi vì kiếp sống ấy“nặng đá đeo” . Đó là cách ví von, thực nghĩa
của “đá đeo” đó là ở chỗ nói lái. Cái làm cho kiếp sống ấy nặng như “đeo đá” chính
bởi cái “chút tẻo tèo teo” kia. Cái “chút tẻo tèo teo” tưởng như không đáng kể gì
nhưng nó thực là to lớn, cản trở con người về với đất Phật, trở thành Phật.“Thuyền
từ cũng muốn về Tây trúc”. Mỗi bậc tu hành khi tu hành thì đều hướng đến một mục
đích nhất định. Mục đích cứu độ chúng sinh là mục đích tốt đẹp nhưng vị sư này
hình như chỉ muốn mau chóng được trở về cõi Phật. Muốn nhưng mà có được đâu,
hình như ham muốn ấy không phù hợp với thuyết diệt dục của nhà Phật nên nhà Phật
không cho: “trái gió cho nên phải lộn lèo”. Sự đối nghịch giữa bản năng sống và
cuộc sống khổ hạnh, duy lí khiến cho nhà sư mang hai bộ mặt: bộ mặt chính thức và
bộ mặt hàm ẩn. Ngược gió làm sao dây lèo không lộn lại cho được?. Phê phán nhẹ
nhàng mà thật sâu cay. Lại thêm hình thức chơi chữ: đá đeo, trái gió, lộn lèo…thì
những điều tuy không muốn nói vẫn hiện ra. Hé lộ, lật tẩy đời sống thực của kiếp tu
hành. Chùm thơ viết về các nhà sư của Hồ Xuân Hương nếu nói là đả kích giới sư sãi

20


cũng đúng, nhưng chủ yếu trên tư cách họ là những người đi ngược lại quy luật của
sự sống, phản tự nhiên chứ không phải tư cách tôn giáo.
“Nào nón tu lờ, nào mũ thâm,
Đi đâu chẳng đội để ông châm?
Đầu sư há phải gì…bà cốt,
Bá ngọ con ong bé cái nhầm!”
(Sư bị ong châm)
Bài “Sư bị ong châm” nối tiếp mạch suy nghĩ ấy của Hồ Xuân Hương. Trước
hết bài thơ mang giọng điệu hỏi thăm, y như Nguyễn Khuyến hỏi thăm một ông
tham quan nọ bị cướp đến “thăm hỏi”:
“Cướp của đánh người quân tệ nhỉ,
Xương gà, da cóc có đau không?”

Hỏi thăm một cách thóc mách, hỏi thăm để tố cáo: Không hiểu nhà sư đi đâu
mà dáng vẻ hấp tấp, vội vã, nấp lén…như sợ bị phát hiện. Nhà sư đang đi đâu kia rõ
ràng không phải đi làm việc đại sự, thậm chí chắc chắn là việc làm không lương
thiện. Cho nên mới bị ong châm. Nó châm vào đầu sư không đội nón vì nó tưởng đó
là cái gì…của bà cốt. Chỉ có Hồ Xuân Hương mới có thể tưởng tượng ra hình ảnh
như thế. Ngoài ra Hồ Xuân Hương còn dùng tiếng chửi của giới tu hành để chửi con
ong: “bá ngọ”. Nhưng đó chỉ là vờ mắng chửi thôi. Con ong bé cái nhầm hay con
ong cố tình nhầm để châm chích, và cũng để cho người có cái cớ mắng chửi. Đầu sư
giống “gì…bà cốt” nên đầu sư cũng ngang với gì bà cốt vậy. Hồ Xuân Hương mắng
con ong mà như chửi thẳng vào mặt của giới tu hành vậy.
Theo Đỗ Lai Thúy những bào thơ viết về chùa chiền của Hồ Xuân Hương
không phải để đả kích đạo Phật vì thời bà đạo Phạt suy vi như nhiều người đã viết.
Mà có chế giẫu đạo Phật cũng là vì sự phản tự nhiên đi ngược với sự sống của nó: sự
diệt dục. Bởi vậy, Hồ Xuân Hương thường nói đến chùa, đến sư trong cái mâu thuẫn
nội tại nan giải của nó: nơi (người) diệt dục mà lại để cho con dục ngự trị. Với “Sư
hổ mang” và “chùa quán sứ” Hồ Xuân Hương đã lật tẩy sự tình trạng này của nhà
chùa.
“Quán sứ sao mà cảnh vắng teo?
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình tiểu để suông không đấm
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẻ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo!
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo.”
(Chùa quán sứ)
Quán sứ là nơi rất đông người vào ra, nhưng lại “Quán sứ sao mà cảnh vắng
teo”. Nhà chùa vắng vẻ, tiểu thì để suông “chày kình không đấm”. Vãi thì hết “lần
21



tràng hạt”, lại “đếm”, lại “đeo”, “sáng banh không kẻ khua tang mít. Trưa trật nào
ai móc kẻ rêu”, “đường tu” lại “lắt léo”…, , sư cụ lại không có ở trong chùa. Cho
nên mới hỏi sư cụ “đi đâu, đáo nơi neo”?
Trong thơ văn Phạm Thái, cảnh chùa chiền vang tiếng cười của tiểu gái của
sư cô là nét phản ánh khá chân thực sự suy đồi diễn ra đây đó nơi chùa chiền đương
thời. Trong thơ Hồ Xuân Hương, dưới mái chùa, cũng vang lên tiếng cười ấy. Quán
sứ thì vắng vẻ, một nơi khác thì lại rất huyên náo, nhộn nhịp, lộn xộn:
“Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà
Khi cảnh khi tiu khi chũm chọe
Giọng hì giọng hỉ giọng hi ha”
(Sư hổ mang)
Hai cảnh này tưởng là đối lập nhau, thực ra chỉ khác nhau về thời điểm. Cảnh
chùa như thế này còn gì là nơi tôn nghiêm? Còn gì là nơi chúng sinh gửi gắm lòng
tin, là chỗ dựa về mặt tinh thần? Nơi thì vắng tanh chẳng ai buồn lên tiếng, cũng như
chẳng ai thiết tha gì đến kinh kệ. Chỗ thì ồn ào nhăng nhít, ngay cả âm thanh của lời
kinh tiếng kệ cũng cho thấy sự biếng nhác, uể oải. Trước mắt chỉ toàn những cái để
hưởng thụ: oản, sáu bảy bà…Đáng để Xuân Hương lên tiếng chửi:“cha kiếpđường
tu sao lắt léo”.
Nếu như ở bài “Sư bị ong châm” Hồ Xuân Hương mới chỉ phê phán nhẹ
nhàng với giọng giễu cợt, xách mé thì hai bài “sư hổ mang” và “chùa quán sứ” Xuân
Hương đã trực tiếp ném sự căm giận của mình vào các thầy tu giả nhân giả nghĩa.
Nhà chùa phơi bày lên cái xấu xa đồi bại đáng lên án, đáng phê phán. Những kẻ
khoác áo thầy tu chẳng qua cũng chỉ là những kẻ lường gạt những người cả tin mê
muội. Rồi cũng chính những kẻ đó tu lâu ngày sẻ trở thành sư cụ, rồi ngày một ngày
hai sẻ ngất nghiễu chốn tòa sen.
“Tu lâu có lẽ nên sư cụ,
Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà”
Hơn nữa Hồ Xuân Hương cũng nhằm vào sự giả trá hai mặt của bọn chúng.

Đã tu hành nhưng nợ trần ai chưa dứt nên chúng đã mang vào chốn tôn nghiêm
những sắc màu của tính dục. Bằng những tiếng lái: đáo nơi neo, suông không đấm,
đếm lại đeo…Hồ Xuân Hương muốn lên tiếng với những kẻ đội lốt sư rằng cõi trần
ai nhiều thú vui hấp dẫn, sao không tận hưởng thú vui ấy, vào chùa làm gì để làm trò
bịp bợm: “Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo”.
Hồ Xuân Hương không giống ai, cũng không ai bắt kịp chất sống tự nhiên,
dân dã, sâu sắc trong thơ của bà. Bà không ngần ngại cất lên tiếng cười sảng khoái:
cười thiên hạ, cười tầng lớp trên, cười bọn vô liêm sỉ, đặc biệt là cười bọn thầy tu, và
cười cả chính bản thân mình, giới của mình. Tiếng cười vừa ý nhị, đằm thắm vừa láu
lỉnh, thông minh.

22


Nhìn chung, các nhà chùa và các sư sãi là đề tài quen thuộc của văn học dân
gian và cũng là đề tài rất hấp dẫn trong thơ Hồ Xuân Hương. Bà quen chọn những gì
thân thuộc, gần gũi, để từ những cái quen thuộc gần gũi đó chỉ ra bản chất vấn đề
hay mặt trái của vấn đề. Và bằng những từ ngữ sắc nhọn Hồ Xuân Hương đã khắc
dấu lên sự vật, sự việc làm cho hình ảnh đó tồn tại lâu trong kí ức người đọc.
CHƯƠNG III: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CỦA MẢNG THƠ CHÙA
CHIỀN TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ PHẠM THÁI
3.1. Nhân vật
Đối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng con người luôn là trung tâm.
Đọc một tác phẩm cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc thường là số
phận, tình cảm, suy tư của những con người được nhà văn thể hiện. Nhân vật văn
học là con người hoặc ẩn dụ về con người được nhà văn thể hiện trong tác phẩm văn
học bằng phương tiện ngôn ngữ. Qua nhân vật nhà văn phản ánh được hiện thực đời
sống. Có nhiều biện pháp khác nhau trong việc xây dựng nhân vật. Trong đó có một
số biện pháp chung, chủ yếu như khắc họa nhân vật qua ngoại hình, nội tâm, ngôn
ngữ và hành động.Trước tiên Phạm Thái và Hồ Xuân Hương rất có ý thức trong việc

miêu tả nhân vật qua ngoại hình. Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật bao
gồm y phục, cử chỉ, tác phong, diện mạo…Ðây là yếu tốquan trọng góp phần cá tính
hóa nhân vật. Văn học cổthường xây dựng ngoại hình nhân vật với những chi tiết
ước lệ, tượng trưng. Phạm Thái cũng giống như bao nhiêu nhà thơ trung đại khác đã
dùng bút pháp ước lệ, tượng trưng để miêu tả hai tố nữ Quỳnh Thư, Thuỵ Châu (Sơ
kính tân trang). Nhưng đến các nhân vật phản diện thì Phạm Thái cũng giống như Hồ
Xuân Hương đều dùng bút pháp tảthực ngoại hình, phục sức và tác phong của nhân
vật. Đó chính là chân dung của những sư tăng, sư tiên, vãi già trong “cảnh chùa
chiền”. Nhưng người đại diện cho tâm linh, cho đạo đức mà lại luôn phản tự nhiên,
luôn đi ngược lại các giáo lí, theo lối sống vô sinh nhân tạo. Hồ Xuân Hương và
Phạm Thái đả kích kịch liệt giói sư sãi chính là vì vậy. Cuộc sống tu hành của họ
phản tự nhiên, từ áo quần đến lối sống diệt dục, một lối sống phản sự sống.
Phạm Thái có khi chỉ tổng quát về cách ăn mặc “chải chuốt…” của sư huynh,
có khi lại đặc tả trang phục, mũ mãng, xe pháo và cây gậy thiền trượng của sư tiên.
Từ dáng hình, cách phục sức, ăn diện ngất trời tự nó nói lên cái tâm của những vị
“chân tu” trong tấm áo ấy.
Và chân dung sư huynh, sư tiên… của Phạm Thái với Hồ Xuân Hương cũng
có sự khác nhau khá rõ nét, bởi các vị “chân tu” của Hồ Xuân Hương vẫn có ngoại
hình, cách ăn mặc như bao nhiêu vị sư khác, nào đầu“trọc lóc”,nào “nón tu lờ”, nào
“mũ thâm”...
Qua những nét phác họa đắt giá của Hồ Xuân Hương và phạm Thái người đọc
có thể nắm bắt được những đặc điểm chung của cả một “xã hội chùa chiền” đương
thời…
3.2. Kết cấu
23


Phần lớn thơ của Hồ Xuân Hương và Phạm Thái là thơ Đường luật như thể
thất ngôn bát cú Đường luật, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn tứ tuyệt. Tuy nhiên cả
Xuân Hương và Phạm Thái đều sử dụng rất ít hệ thống điển cố, điển tích, tư liệu văn

hóa Trung Quốc.
Về Hồ Xuân Hương, phần lớn các sáng tác của bà là thơ Đường luật nhưng
thơ Đường luật của Hồ Xuân Hương lại không giống thơ Bà Huyện Thanh Quan hay
nhà thơ nào khác. Nguyễn Lộc đã từng nhận định “Nhà nữ thi si này dường như
mượn của văn học bác học cái phần trang sức bên ngoài để trình làng, còn ném chặt
bên trong đến tràn ứ lại là cái phần hồn dân gian đầy sức sống của mình”. Có nghĩa
là thơ của bà đúng là một bài thơ Đường luật còn nội dung bên trong chủ yếu là chất
dân gian đậm sức sống do từ ngữ, ý ngĩa, tứ thơ mang lại.
Đặc biệt trong thơ Hồ Xuân Hương sử dụng rất nhiều câu hỏi. Có tổng cộng
31 câu hỏi trên 47 bài thơ. Và câu hỏi của Xuân Hương thường là những câu hỏi thật
chứ không phải hỏi chỉ để hỏi. Xuân Hương đặt những câu hỏi như rút cạn máu
trong tim mình. Cuộc đời đang náo nức, đang vẫy gọi sao lại “Ngày xanh sao nỡ
tạnh lòng son?” (Hỏi trăng). Cũng như trong mảng thơ về chùa chiền của mình nhà
thơ thể hiện sự căm giận, sự căm ghét sâu sắc với những kẻ có trái tim mà không biết
xúc động, có tấm lòng mà không biết chia sẻ, đó là những kẻ thiếu ý thức về giá trị
cuộc sống, lười nhác, uể oải, phung phí thời gian.
“Hỡi người quân tử đi đâu đó?
Thấy cảnh sao mà đứng lượm tay?”
(Một cảnh chùa)
“Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẻ rêu”
(Chùa Quán Sứ)
Cảnh đẹp mà “đứng lượm tay, sáng banh, trưa trật” mà “không kẻ, nào ai”
biết quý trọng thời gian. Xuân Hương đã lên án, phê phán, khinh bỉ những kẻ như
vậy. Với Xuân Hương phải là “Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ” (Cảnh thu). Vì
vậy phê phán giới sư sãi, chùa chiền Hồ Xuân Hương không chỉ lên án sự suy đồi về
đạo đức, lễ giáo phong kiến mà còn về lối sống, tình cảm “xuống cấp”.
Trái ngược với Hồ Xuân Hương, Phạm Thái cũng có nôm na hóa ngôn ngữ
thơ mình nhưng tuyệt nhiên ông không dùng văn học dân gian làm thi liệu giống như
Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du hay Nguyễn Khuyến…. Đây là một nét

riêng trong nghệ thuật thơ Nôm Đường luật của Phạm Thái.
Cấu tứ trong thơ Nôm Đường luật của Phạm Thái đôi khi khá bất ngờ. Trong
bài “Đề chùa Tiêu Sơn”, sáu câu thơ đầu miêu tả cảnh đẹp đầy sức quyến rủ nơi cửa
thiền và khách đến chùa lại gặp lúc cao tăng đang giảng đạo, tưởng như “khách tầm
thanh” đã rủ bỏ được đời sống trần tục phiền não và đang trong giây phút “đốn ngộ”
của đời mình. Nhưng đến câu kết lại thật bất ngờ, cao tăng đang giảng đạo là cơ hội
tốt nhất để khách viếng chùa thực hiện thú vui của mình “Khề khà say thú một bầu
24


ngon” mà không bị ngăn cản. Như vậy ngay từ lúc đầu bao nhiêu lời ca ngợi sự
quyến rủ nhiệm màu nơi nhà chùa cũng không quyến rủ bằng men rượu. Ta cũng có
thể bắt gặp kết cấu bất ngờ đó trong nhưng bài thơ khác như bài “ngày xuân uống
rượu”, “non nước”…
Kết cấu này khá gần với kết cấu một số bài thơ trong thơ Hồ Xuân Hương, Hồ
Xuân Hương làm thơ Đường luật nhưng lại không theo kết cấu đề thực luận kết mà
chủ yếu 6 câu đầu là tả và 2 câu cuối là hai câu kết. Các bài “hang Thanh Hóa”,
“Động Hương Tích”, “Quán Khánh”, “Đèo Ba Dội”…đều có kết cấu này.
3.3. Ngôn ngữ
Thơ văn của Hồ Xuân Hương và Phạm Thái ít sử dụng ngôn ngữ tượng trưng
mà chủ yếu sử dụng ngôn ngữ gần gũi với đời thường, những thứ ngôn ngữ nôm na,
mách qué, đặc biệt sử dụng văn vần, thành ngữ, tục ngữ làm chất liệu.
Trong mảng thơ chùa chiền nói riêng và thơ văn của mình nói chung Hồ Xuân
Hương và Phạm Thái đều rất thành công trong việc đưa khẩu ngữ vào thơ mình khi
cần thiết, kể cả tiếng chửi.Trong văn học trung đại, ngôn ngữ đời thường cũng như
tiếng chửi rất ít khi được đưa vào thơ ca. Sự xuất hiện tiếng chửi trong thơ thường là
dấu hiệu giai đoạn cuối của văn học trung đại, khi xu hướng dân chủ hóa đã hoàn
toàn đủ mạnh để đưa ngôn ngữ thông tục vào phạm trù thẩm mĩ. Để chửi nhà sư,
Xuân Hương không chửi bằng ngôn ngữ thường mà dùng ngay tiếng chửi của giới tu
hành “bá ngọ”, “cha kiếp”...

Nói láilà một hình thức thường thấy trong văn học dân gian. Và cũng gặp
không ít trong mảng thơ chùa chiền của Hồ Xuân Hương những từ ngữ rất đặc
sắc:“lo cũ, lộn lèo, đếm lại đeo, đáo nơi neo, suông không đấm”...Những từ ngữ này
ngoài Hồ Xuân Hương không một nhà thơ trung đại nào có thể sử dụng. Xét ngữ
nghĩa của những từ này đều có ý nghĩa, hoàn tòan không chỉ để nói lái lại. “Lộn lèo”
là dây lèo của thuyền buồm ngược gió phải lộn ngược trở lại, “trái gió” có nghĩa là
ngược gió, “đáo nơi neo” nghĩa là đi đến một nơi nào đó, còn những từ khác hầu
như đều có nghĩa như nó vốn có. Tuy nhiên những từ này khi lộn ngược lại lại tạo ra
một ý nghĩa hoàn toàn khác. Ông sư tự trì buồn tình “đáo nơi neo” để cho chú “tiểu
để suông chày kình không đấm”, bà vãi thì ngồi “lần tràng hạt” hết “đếm lại đeo…
Luận ra nghĩa thứ hai các hoạt động đó vẫn là của các ông sư, bà vãi, chú tiểu… chứ
đâu phải của một người nào khác. Đặc biệt những từ ngữ này đều mang nghĩa và
không quá sống sượng, chớt nhã, khiêu dục…Sở dĩ Hồ Xuân Hương luôn dùng
những từ nói ngược như vậy bởi vì những đối tượng của bà đã làm ngược. Những
đối ông sư bà vãi cũng như các bậc hiền nhân quân tử này luôn làm ngược với những
điều mà chính họ đã đặt ra để răn dạy thiên hạ, có nghĩa là làm ngược lại cái mà họ
tôn thờ xem như khuôn vàng thước ngọc. Chính cách làm này đã tạo ra trong thơ Hồ
Xuân Hương cái cười châm chọc sâu cay.
Đây là thành công của Hồ Xuân Hương trong biệt tài tạo nghĩa. Hồ Xuân
Hương luôn chọn những những gốc cạnh sao cho người đọc dễ tưởng tượng. Không
25


×