Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

VẤN ĐỀ HỌC TẬP CỦA TRẺ NHIỄM HIV TẠI MÁI ẤM MAI TÂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.33 KB, 80 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI

CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
CẤP TRƯỜNG NĂM 2015
Tên công trình:

VẤN ĐỀ HỌC TẬP CỦA TRẺ NHIỄM HIV TẠI
MÁI ẤM MAI TÂM
Phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh

Sinh viên thực hiện:
Chủ nhiệm:
Trần Thị Thắm
Thành viên:

Sầm Thị Bảy
Lê Thị Oanh
Lê Thị Phượng
Hồ Thị Ngọc Thùy

(lớp k06, khóa 2012 – 2016)
(lớp k06, khóa 2012 – 2016)
(lớp k06, khóa 2012 – 2016)
(lớp k06, khóa 2012 – 2016)
(lớp k06, khóa 2012 – 2016)

Người hướng dẫn: Thạc sĩ. Nguyễn Thụy Diễm Hương – phó trưởng
khoa Công tác xã hội trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn –
Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.



TP. Hồ Chí Minh tháng 3/2015


MỤC LỤC
TÓM TẮT CÔNG TRÌNH..........................................................................................3
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6
3.2.MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU.................................................................................................12
3.2.1.Mục tiêu tổng quát.........................................................................................................12
3.2.2.Mục tiêu cụ thể...............................................................................................................12
3.3.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.................................................................................................12
4.1.1.Lý thuyết hệ thống sinh thái..........................................................................................13
4.1.2.Thuyết xung đột.............................................................................................................14
4.2.1.Thu thập thông tin qua các dữ liệu sẵn có...................................................................15
4.2.3.Phương pháp định tính..................................................................................................15
5.1.ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU.................................................16
5.1.1.Đối tượng........................................................................................................................16

NỘI DUNG.................................................................................................................18
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ HỌC TẬP CỦA TRẺ NHIỄM HIV TẠI MÁI ẤM MAI TÂM THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH....................................................................................................................................18
CHƯƠNG II: NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN TÌNH TRẠNG HỌC TẬP CỦA TRẺ NHIỄM HIV TẠI MÁI ẤM MÁI
TÂM..................................................................................................................................................27

KẾT LUẬN................................................................................................................. 38
KIẾN NGHỊ...............................................................................................................39
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................42
PHỤ LỤC...................................................................................................................43



TÓM TẮT CÔNG TRÌNH

Do những đặc điểm của bản thân và môi trường sống, trẻ nhiễm HIV và chịu ảnh
hưởng của HIV tại các trung tâm bảo trợ và nuôi dưỡng trên cả nước đang gặp rất
nhiều vấn đề trong học tập. Những vấn đề này bên cạnh việc xuất phát từ bản thân của
các trẻ thì còn xuất phát từ môi trường xã hội. Đứng trước những vấn đề này, các trung
tâm bảo trợ, nuôi dưỡng trẻ nhiễm HIV cũng đã có một số các giải pháp nhằm hạn chế
và khắc phục, tuy nhiên các giải pháp chưa thực sự được chú trọng và còn nhiều trung
tâm, cơ sở chưa làm được.
Cuộc nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện tại mái ấm Mai Tâm, phường Hiệp
Bình Chánh, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh với mục tiêu tìm hiểu các vấn đề
mà trẻ nhiễm HIV tại mái ấm đang gặp phải trong học tập cùng với nguyên nhân của
các vấn đề. Qua đây, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị nhằm giúp trẻ nhiễm HIV tại
đây có thể có các giải pháp phù hợp hơn để có những điều kiện tốt nhất phục vụ cho
việc học tập, từ đó học tập đạt kết quả cao hơn và dễ dàng hơn trong vấn đề hòa nhập
với xã hội.
Để đề tài đạt được kết quả và sự chính xác cao nhất, chúng tôi đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu thông dụng là nghiên cứu tài liệu, phương pháp quan sát và phỏng
vấn sâu. Trong đó, phương pháp định tính phỏng vấn sâu là phương pháp chính mà
chúng tôi sử dụng. Đối tượng phỏng vấn của đề tài là giám đốc; các nhân viên làm
việc tại mái ấm bao gồm phụ trách, cố vấn, nhân viên giám sát; các bà mẹ của trẻ
nhiễm HIV và các trẻ nhiễm HIV tại mái ấm. Chúng tôi sử dụng trung bình 14 – 18
câu hỏi phỏng vấn cho mỗi một cá nhân cụ thể tùy thuộc vào công việc và mối tương
quan của cá nhân đó trong mái ấm để có thể đảm bảo đề tài mang tính khách quan
nhất.
Từ những phương pháp cụ thể trên, chúng tôi đã tìm ra được các vấn đề học tập của trẻ
nhiễm HIV tại mái ấm Mai Tâm như sau:
Một là, trẻ mẫu giáo tại mái ấm Mai Tâm không được tham gia học tập tại các trường
mầm non. Vì lý do các trường mầm non trong và ngoài thành phố không nhận các em



vào học nên mái ấm Mai Tâm phải mở một lớp học cho các em học mẫu giáo ngay
trong không gian của mái ấm. Diện tích không gian của lớp học này rất nhỏ và không
có đủ giáo viên dạy nên các em mẫu giáo ở mái ấm chịu rất nhiều thiệt thòi.
Hai là, do các điều kiện chủ quan và khách quan, học lực của trẻ tại mái ấm Mai Tâm
còn yếu. Kết quả học tập của 70% trẻ tiểu học tại mái ấm Mai Tâm tham gia học tập
tại các trường trong thành phố đạt mức học lực trung bình - khá, 20% trẻ có học lực
yếu, chậm hiểu bài và chỉ 10% trẻ đạt học sinh giỏi. Nguyên nhân chủ yếu là do đặc
thù của bệnh và phải sử dụng thuốc thường xuyên nên trí nhớ của trẻ kém hơn so với
những trẻ khác. Bên cạnh đó, mái ấm Mai Tâm có không gian nhỏ mà số lượng trẻ
đông nên điều kiện học tập của trẻ ở đây chưa thật sự hỗ trợ công việc học tập của trẻ.
Ba là trẻ tại mái ấm có điều kiện giáo dục kĩ năng mềm còn hạn chế. Với điều kiện tài
chính và nhân lực của mái ấm Mai Tâm hiện nay thì việc tiến hành các hoạt động giáo
dục kĩ năng mềm cho trẻ là một khó khăn rất lớn.
Những nguyên nhân gây ra vấn đề trên được nhóm chúng tôi chia làm 2 nhóm là
nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Qua quá trình tương tác với trẻ và
các nhân viên cũng như phụ huynh của trẻ, chúng tôi nhận thấy nguyên nhân chủ quan
là trẻ ở mái ấm còn lười biếng trong học tập, không có hứng thú với học tập, khả năng
tập trung của các trẻ còn rất thấp và trẻ không tự tin vào bản thân mình. Các tác động
của các trường mẫu giáo và tiểu học; sự kì thị, phân biệt của cộng đồng xã hội với
người nhiễm HIV; trẻ ở mái ấm thiếu sự kèm cặp của phụ huynh, nhân viên mái ấm;
và đặc biệt là tình trạng thiếu nguồn tài chính và nhân lực của mái ấm là những nguyên
nhân khách quan chủ yếu. Ngoài ra, những tác dụng không tốt của thuốc điều trị ARV
mà trẻ ở mái ấm phải dùng hàng ngày cũng ảnh hưởng lớn đến vấn đề học tập của các
em.
Từ những tìm hiểu và phân tích dựa trên các cơ sở lý thuyết sử dụng trong chuyên
ngành công tác xã hội, nhóm chúng tôi nhận thấy trẻ nhiễm HIV tại mái ấm Mai Tâm
thành phố Hồ Chí Minh còn gặp nhiều vấn đề trong học tập. Những vấn đề này có
nhiều nguyên nhân khác nhau xuất phát từ bản thân trẻ nhiễm HIV tại mái ấm cũng
như mái ấm, trường học hay cộng đồng xã hội nói chung. Do đó chúng tôi đưa ra các

kiến nghị khác nhau dựa vào nhiều khía cạnh của các nguyên nhân, đó là kiến nghị đối


với các cấp chính quyền, kiến nghi đối với các trường học, kiến nghị đối với mái ấm
và đối với xã hội.
Dựa trên tất cả những yếu tố trên, đề tài của chúng tôi đã hoàn thành 3 mục tiêu đề ra
ban đầu đó là tìm hiểu và phân tích các vấn đề học tập, nguyên nhân vấn đề của trẻ
nhiễm HIV tại mái ấm Mai Tâm. Đồng thời đưa ra các kiến nghị, giải pháp khắc phục
những vấn đề này.


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
HIV/AIDS được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1981 và nhanh chóng lan rộng
trên toàn cầu, trở thành một đại dịch nguy hiểm nhất trong lịch sử loài người. Trong 32
năm qua, HIV/AIDS đã khiến 60 triệu người trên thế giới bị lây nhiễm và trở thành
nguyên nhân gây tử vong cho 30 triệu người khác. Đến thời điểm này, đại dịch
HIV/AIDS trên thế giới vẫn đang diễn biến rất phức tạp. Theo ước tính của UNAIDS,
trung bình mỗi ngày thế giới có thêm khoảng 7.000 người nhiễm HIV. Theo số liệu
thống kê năm 2012, thế giới có khoảng 2,3 triệu các trường hợp nhiễm mới HIV ở
người lớn và trẻ em.
Tại Việt Nam, số liệu thống kê của Cục Phòng chống HIV/AIDS, Bộ Y tế (theo báo
điện tử Đảng cộng sản Việt Nam ngày 19/12/2013) cho biết, cả nước hiện có trên
206.000 người nhiễm HIV còn sống, trong đó có trên 52.700 bệnh nhân chuyển sang
giai đoạn AIDS, đã có hơn 53.000 người tử vong do AIDS. Hiện nay, tình hình lây
nhiễm HIV vẫn tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp. Số người mới được phát hiện
nhiễm HIV mỗi năm vẫn lên tới con số hơn 10.000. Sự lây truyền HIV qua quan hệ
tình dục có xu hướng gia tăng, kéo theo sự gia tăng nhiễm HIV trong phụ nữ và trẻ
em, đồng thời cảnh báo việc kiểm soát lây nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư ngày
càng trở nên khó khăn hơn.

Ở Việt Nam, tỉ lệ nhiễm HIV toàn quốc theo số liệu báo cáo là 243 người trên 100.000
dân, trong đó tỉnh Điện Biên là địa phương có tỉ lệ nhiễm HIV trên 100.000 dân cao
nhất cả nước (1015,8), đứng thứ 2 là thành phố Hồ Chí Minh (677). Đứng trước tỷ lệ
lây nhiễm này, ở thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều mái ấm, trung tâm mở ra để cưu
mang cũng như giúp đỡ những người bị nhiễm HIV như là: trung tâm nuôi dưỡng trẻ
em Linh Xuân, trung tâm nuôi dưỡng bảo trợ trẻ em Tam Bình, mái ấm Mai Tâm,…
Mái ấm Mai Tâm nằm trong một con hẻm nhỏ, số 23 đường 15, khu phố 1, phường
Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, thuộc giáo xứ Bình Triệu.
Đã thành lập được 9 năm (2005- 2014), mái ấm Mai Tâm có sứ mạng là nơi trú chân
và nuôi sống, chăm sóc các em nhỏ và các bà mẹ bị nhiễm HIV/AIDS; là nơi tạo điều


kiện cho các em có một cuộc sống học tập tốt hơn, tạo công ăn việc làm cho các bà
mẹ; là nơi những người bị nhiễm HIV không bị kì thị, phân biệt đối xử. Cho đến nay,
mái ấm có 3 cơ sở: Một là căn nhà trung tâm (quận Thủ Đức) có 74 em bé từ sơ sinh
đến 12 tuổi do các linh mục, tu sĩ, dòng tu Camelo và các Sơ thuộc dòng Mến Thánh
Giá, dòng Phaolo phụ trách và trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Hai là căn nhà tự lập
(quận Thủ Đức) gồm các em từ 13 đến 20 tuổi, các em sống tự lập sinh hoạt, tự lo cho
bản thân như tự nấu ăn, giặt quần áo, tự đi học, tự uống thuốc và phụ giúp việc nhà. Ba
là căn nhà ở Gò Vấp gồm các em từ mẫu giáo đến lớp 8 bao gồm 14 em và có các bà
mẹ nhiễm HIV sống chung với các em tại đây. Ở đây có 9 bà mẹ, trong đó có những
người là mẹ ruột của các em cũng có những người là mẹ nuôi của các em. Các bà mẹ
được mái ấm mở một nhà may ngay trong nhà để tạo công ăn việc làm nuôi sống bản
thân cũng như tạo niềm vui để quên đi bệnh tật và sống có ý nghĩa hơn. Mong muốn
của mái ấm là các em sau khi học xong lớp 12 sẽ cho các em học nghề và khuyến
khích thi đại học.
Vì trẻ ở mái ấm đang trong độ tuổi đi học nên việc học tập của trẻ luôn được mái ấm
đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, việc học tập của trẻ tại mái ấm còn gặp nhiều vấn đề khó
khăn, đó là vấn đề các em mẫu giáo không được đi học tại trường, do những tác động
của thuốc và môi trường xã hội bên ngoài nên kết quả học tập của các em còn yếu.

Bên cạnh đó vì mái ấm Mai Tâm không nhận được sự trợ giúp từ chính phủ Việt Nam
mà thực hiện các hoạt động của mình thông qua sự đóng góp của các cá nhân, chủ tài
chính, các khoản tài trợ từ bên ngoài nên nguồn tài chính của mái ấm để chăm lo cuộc
sống hàng ngày cùng với việc học tập và các hoạt động ngoại khóa cho trẻ gặp rất
nhiều khó khăn, làm hạn chế chất lượng cuộc sống, kết quả học tập cũng như ảnh
hưởng đến tương lai sau này của các em.
Từ những lí do trên cho thấy vấn đề học tập của trẻ nhiễm HIV đang là một đề tài đáng
được quan tâm và thực hiện. Và việc tiến hành nghiên cứu vấn đề học tập của trẻ
nhiễm HIV tại mái ấm Mai Tâm cũng đang rất cần thiết.


2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1. CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
2.1.1. HIV
HIV (tiếng Anh: human immunodeficiency virus, có nghĩa virus suy giảm miễn dịch ở
người) là một lentivirus (thuộc họ retrovirus) có khả năng gây hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải (AIDS), một tình trạng làm hệ miễn dịch của con người bị suy
giảm cấp tiến, tạo điều kiện cho nhiễm trùng cơ hội và ung thư phát triển mạnh làm đe
dọa đến mạng sống của người bị nhiễm.
HIV sống trong bốn loại dịch của cơ thể đó là:
- Máu.
- Tinh dịch- chất dịch xuất ra khi bạn trai hưng phấn tình dục.
- Dịch âm đạo- chất dịch tiết ra khi bạn gái hưng phấn tình dục.
- Sữa mẹ.
2.1.2. Trẻ em.
Trẻ em là những người dưới 18 tuổi.
(Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc)
2.1.3. Học tập.
Có nhiều định nghĩa về học tập:
Thứ nhất: Học tập là quá trình dạy và học, tập luyện, tự học và tự tập luyện của hai

chủ thể dạy học – thế hệ trước (đại diện bởi những người thầy) và và thế hệ sau cần
học hỏi (học trò) về một nội dung nào đó (kiến thức, kinh nghiệm, tư duy, cảm nhận,
phương cách hành động…) trong những môi trường cụ thể (không gian, bối cảnh) và
trong những khoảng thời gian nhất định để người học hiểu và sử dụng được (học
được) nội dung đó, chuẩn bị cho mục tiêu thành công của thế hệ sau 1.
Thứ hai: Học tập là quá trình thay đổi tư duy của người học (và có thể cả của người
dạy học) về nội dung học tập. Đó là quá trình trao đổi năng lượng học tập trong bối
cảnh học tập giữa các thành viên tham gia quá trình học tập để người học đạt mức

1

Trích:


năng lượng học tập cao nhất có thể thay đổi tư duy (thay đổi bền vững) của họ về nội
dung đó2.
2.2.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Vấn đề của trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS là một đề tài nóng bỏng được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm, trên thực tế chúng ta thấy có rất nhiều tài liệu nói về trẻ em bị nhiễm
HIV/AIDS. Trong quá trình nghiên cứu, nhóm chúng tôi đã tìm hiểu nhiều tài liệu và
sử dụng cuốn sách “Sự thật về trẻ em và HIV/AIDS” của Bộ Giáo dục đào tạo phối
hợp với Liên Hợp Quốc tổ chức công bố giới thiệu sáng ngày 23/8 do nhà xuất bản
Thông tấn ấn hành năm 2010. Cuốn sách đã đề cập đến việc lây nhiễm HIV như thế
nào, nó có đáng sợ như nhiều người nghĩ hay không, ranh giới giữa phòng tránh và kì
thị ra sao. Cuốn sách giải đáp 1 số câu hỏi cơ bản, đường lây và không lây, người có
HIV có nên đi học không. Cuốn tài liệu còn đề cập không phải tất cả các bà mẹ nhiễm
HIV đều sinh con nhiễm HIV, trẻ em nhiễm HIV nếu được chăm sóc và điều trị thích

hợp vẫn có khả năng học tập, phát triển cuộc sống bình thường như mọi đứa trẻ khác.
Năm 2002, Ủy ban phòng chống AIDS thành phố Hồ Chí Minh, Sở Lao động Thương
binh - Xã hội và tổ chức Cứu trợ Trẻ em Anh đã thực hiện một cuộc khảo sát về “Tình
hình trẻ nhiễm và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS” trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh,
do Bs Jamie Uhrig, chuyên gia người Canada làm trưởng nhóm và viết báo cáo. Đây là
cuộc khảo sát có sự tham gia và dựa trên các quyền của các em nên phương pháp sử
dụng để khảo sát là mô tả và định tính (thông qua phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm
với nhiều thành phần khác nhau trong xã hội như: Bác sĩ, nhân viên y tế, đại diện các
ban ngành đoàn thể đến người dân, người có HIV và gia đình họ, thậm chí bao gồm cả
trẻ có HIV và trẻ bị ảnh hưởng HIV/AIDS). Kết quả khảo sát nhấn mạnh đến việc trẻ
HIV và trẻ bị ảnh hưởng HIV đều bị phân biệt và kì thị trong chăm sóc y tế, học hành,
vui chơi giải trí. Tác giả đã minh chứng cho mọi người về việc trẻ có HIV và trẻ bị ảnh
hưởng HIV bị tước đi những quyền cơ bản của mình như quyền học hành, vui chơi,
chăm sóc y tế, yêu thương…
Năm 2005, với ngân sách tài trợ của tổng thống G.Bush (Mỹ) qua chương trình kế
hoạch viện trợ khẩn cấp cho chương trình phòng chống AIDS ( gọi tắt là PEPFAR),
2

Trích:


Ủy ban Dân số Gia đình Trẻ em Trung ương phối hơp với Tổ chức Cứu trợ trẻ em Mỹ
đã thực hiện một cuộc nghiên cứu đánh giá về “Tình hình trẻ mồ côi và dễ bị tổn
thương tại Việt Nam 12/2005-10/2007, đánh giá tình hình trẻ em và HIV/AIDS ở Việt
Nam, suy nghĩ của trẻ sống chung với HIV , trẻ chịu ảnh hưởng do HIV/ AIDS và
người chăm sóc” trẻ trong độ tuổi từ 6-18, khảo sát được tiến hành tại 5 tỉnh thành
trọng điểm có số người nhiễm HIV cao nhất trong cả nước: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng
Ninh, thành phố Hồ Chí Minh và An Giang. Thông qua nghiên cứu định tính với các
cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tiêu điểm , kết quả khảo sát cho thấy rằng hầu
hết trẻ mồ côi bởi AIDS được nuôi dạy bởi ông bà, hoặc người bà con họ hàng. Đa số

trẻ em bị HIV và trẻ bị ảnh hưởng HIV sống trong hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn. Các
em trở thành gánh nặng kinh tế gia đình cho người nuôi nên nguy cơ bỏ học của các
em rất cao. Tâm lí của các em luôn cảm thấy bị cô lập, thiếu người quan tâm chăm
sóc. Việc kì thị, phân biệt đối xử trong hệ thống y tế, trường học vẫn còn tồn tại.
“Hãy để trẻ em được yêu thương” của Nguyễn Lê Hà Nguyên (lớp 6A1 Trường Trung
học cơ sở Nguyễn Trãi Thanh Xuân- Hà Nội đạt giải nhì cuộc thi viết về quyền trẻ em)
viết: HIV vẫn có quyền được đi học, được chăm sóc yêu thương, có quyền được bảo
vệ, có quyền được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của bản thân, các em vẫn có thể cố gắng
học tập trở thành một người chân chính và góp phần xây dựng cộng đồng xã hội. Bài
viết đã nói về một người mẹ xin cho con đi học ở nhiều nơi nhưng cũng chỉ nhận được
ánh mắt và cái nhìn ái ngại và những lời từ chối thẳng thừng của trường, không có
trường mầm non giám nhận khi biết trẻ có HIV.
Cuốn sách “Điều tra quốc gia và về vị thành niên và thanh niên Việt Nam” của Bộ Y
tế, cuốn đã dành nguyên một chương để nói về HIV/AIDS. SAVY (Survey
Assessment of Vietnamese Youth) đã tìm hiểu cách cư xử với người HIV bằng cách
hỏi thanh thiếu niên xem liệu học có thể giúp đỡ một người bị nhiễm HIV/AIDS trong
cộng đồng của họ không. Nhìn chung thanh thiếu niên có thái độ tích cực đối với
những người có HIV. Có 13,4% nói rằng họ sẽ không giúp đỡ người có HIV trong
cộng đồng, tuy nhiên đa số sẽ giúp đỡ và tiếp xúc bình thường với người nhiễm nhưng
vẫn đề phòng lây nhiễm (83,7%). Một số ít cho biết sẽ giúp đỡ không điều kiện 0,5%,
2% khác cho rằng họ có thể sẽ giúp đỡ nhưng vẫn giữ một khoảng cách. Điều này cho


thấy có một nhóm nhỏ thanh thiếu niên do sợ hãi hay thiếu thông tin hoặc kì thị những
người có HIV.
Nhìn chung, hiện nay chưa có cuộc nghiên cứu nào thực sự làm rõ đầy đủ được thực
trạng, tình hình vấn đề học tập của trẻ em bị nhiễm HIV và chịu ảnh hưởng của HIV,
các bài nghiên cứu vẫn chưa đi sâu vào vấn đề học tập của trẻ nhiễm HIV. Những vấn
đề mà trẻ nhiễm HIV tại mái ấm Mai Tâm đang gặp phải trong học tập cũng chính là
những khó khăn, thử thách mà trẻ nhiễm HIV trên cả nước nói chung gặp phải.

3. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
HIV/AIDS là một đại dịch nguy hiểm và diễn biến phức tạp trên hầu hết các quốc gia
trên thế giới. Theo thống kê tại Việt Nam, tính đến ngày 31/12/2011 cả nước ta có
457.691 trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, trong đó cao nhất là số trẻ em sống cùng
cha mẹ bị nhiễm HIV, rồi đến số trẻ em mồ côi do AIDS, số trẻ em bị bỏ rơi do cha
mẹ chết bởi AIDS. Tuy nhiên trên thực tế con số này còn lớn hơn nhiều do hiện nay
việc thu thập số liệu về trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS chưa được đầy đủ. Cũng theo
ước tính mỗi năm Việt Nam có khoảng 1000 trẻ bị nhiễm HIV.
Hiện nay đã có nhiều quy định, điều luật nói về quyền học tập, làm việc và chăm sóc
sức khỏe cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV song chúng ta có thể thấy một sự thật ngoài
đời sống thực là không ít trẻ em nhiễm HIV không được đến trường đi học hoặc bị khó
khăn trong tiếp cận với các dịch vụ giáo dục cũng như bị kì thị bởi xã hội. Các em nhỏ
có HIV khi đến tuổi đi học mẫu giáo thì bị các cơ sở mầm non từ chối nhận vào học
với nhiều lí do khác nhau. Khi các em đi học tiểu học, có những em bị nhà trường từ
chối nhận, có những em bị các phụ huynh học sinh, các bạn cùng trang lứa kì thị, gây
áp lực và buộc phải nghỉ học. Trong một hội nghị về HIV tại thành phố Hồ Chí Minh,
bác sĩ Tiêu Thị Thu Vân, Phó chánh văn phòng ủy ban phòng chống AIDS thành phố
Hồ Chí Minh đã chia sẻ: “Ước mơ được đến trường của trẻ nhiễm HIV là chính đáng.
Nhưng qua thực tế cho thấy, nếu trẻ vào học luôn phải giấu bệnh, trẻ nào bị phát hiện
sẽ bị kì thị, phản ứng dữ dội từ phía nhà trường hay phụ huynh học sinh.”
Vấn đề học tập đối với trẻ em Việt Nam nói chung và các trẻ ở mái ấm nói riêng là rất
quan trọng, điều này ảnh hưởng đến tương lai cũng như việc hòa nhập xã hội của các


em. Song không phải cộng đồng cũng như tất cả các trường học đều quan tâm giúp đỡ,
vẫn còn nhiều kì thị, xa lánh ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em. Bên
cạnh những khó khăn về tinh thần thì còn nhiều khó khăn về vật chất, nguồn nhân lực
chăm sóc và giúp đỡ các em. Hơn nữa, hiện nay vẫn còn ít đề tài nghiên cứu khoa học
nghiên cứu về vấn đề này. Trên cơ sở này nhóm nghiên cứu quyết định chọn đề tài

“Vấn đề học tập của trẻ em nhiễm HIV tại mái ấm Mai Tâm thành phố Hồ Chí Minh”
với mong muốn có thể tìm ra một số giải pháp giúp trẻ nhiễm HIV tại mái ấm có thể
dễ dàng hơn trong việc học tập ở trường cũng như tại nhà.
3.2.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

3.2.1. Mục tiêu tổng quát
Đề tài nghiên cứu tìm hiểu vấn đề học tập của trẻ em nhiễm HIV tại mái ấm Mai Tâm
thành phố Hồ Chí Minh.
3.2.2. Mục tiêu cụ thể
Tìm hiểu thực trạng các vấn đề học tập của trẻ em nhiễm HIV tại mái ấm Mai Tâm, từ
đó tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó. Thông qua kết quả tìm hiểu, quan sát và
đánh giá một cách tổng quan nhất, đề tài đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để trẻ em
nhiễm HIV tại mái ấm có thể có những thuận lợi hơn trong việc học tập.
3.3.

NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

- Tìm hiểu vấn đề học tập của trẻ nhiễm HIV tại mái ấm.
- Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến các vấn đề học tập của trẻ nhiễm HIV tại mái ấm Mai
Tâm.
- Đưa ra một số kiến nghị cụ thể để giải quyết những vấn đề đó.

4. CƠ SƠ LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


4.1.

CƠ SỞ LÍ LUẬN


4.1.1. Lý thuyết hệ thống sinh thái3
Lý thuyết hệ thống chỉ sự tác động mà các tổ chức, các chính sách, các cộng đồng
và các nhóm ảnh hưởng lên cá nhân. Cá nhân được xem như là bị lôi cuốn vào sự
tương tác không dứt với nhiều hệ thống khác nhau trong môi trường. Theo Barker:
“Hệ thống là một sự kết hợp các yếu tố có tính trao đổi, tương tác lẫn nhau và ranh
giới dễ nhận biết”. Hệ thống có thể mang tính vật chất, cơ học, sinh động và xã hội,
hoặc kết hợp những yếu tố này. Lý thuyết sinh thái là tập hợp con của lý thuyết hệ
thống. Có thể định nghĩa ba cấp độ hệ thống như sau:
Cấp vi mô: Hệ thống này đề cập đến một cá nhân và kết hợp các hệ thống sinh học,
tâm lý và xã hội tác động lên cá nhân ấy.
Cấp trung mô: Hệ thống này đề cập đến các nhóm nhỏ ảnh hưởng đến cá nhân như
gia đình, nhóm làm việc, và những nhóm xã hội khác.
Cấp vĩ mô: Hệ thống này nói đến các nhóm và những hệ thống lớn hơn gia đình.
Bốn hệ thống vĩ mô quan trọng tác động đến cá nhân là các tổ chức, các thiết chế cộng
đồng và nền văn hóa.
Đối với những cá nhân trong xã hội khi môi trường sống có đầy đủ tài nguyên cho
sự tăng trưởng và phát triển của họ, thì họ có xu hướng phát triển mạnh mẽ. Đối với
những người đang sống trong môi trường sống thiếu thốn tài nguyên, từ đó sự phát
triển thể chất, xã hội, tình cảm, và việc thực hiện chức năng sẽ bị ảnh hưởng. Mạng
lưới hỗ trợ xã hội sẽ bao gồm bạn bè, người thân, láng giềng, bạn đồng nghiệp có tác
động rất quan trọng đến mỗi cá nhân. Những trường hợp những người thiếu mạng lưới
hỗ trợ xã hội sẽ dẫn đến những căng thẳng cuộc sống, có hành vi đối phó không phù
hợp, dễ mềm yếu và tổn thương.
Với trẻ nhiễm HIV tại mái ấm Mai Tâm, bản thân các em đều có những mặc cảm, tự ti
trong đời sống hàng ngày và học tập ở trường. Không phải các em luôn dám nhận sự
giúp đỡ của người ngoài cộng đồng, các em mang suy nghĩ và tâm lý vì mình bị bệnh
nên sợ lây nhiễm cho người khác. Với những em đã lớn tuổi hơn, các em cũng có
những suy nghĩ và định hướng cho bản thân mình khi còn đi học, vì tự ti nên những
định hướng này còn e ngại chưa rõ ràng. Mặt khác, sự tác động mang tính tích cực

hoặc tiêu cực của cộng đồng, xã hội lên trẻ cũng khiến tâm lý các em có những thay
đổi qua thời gian.
3

Trích: Lê Chí An (2006),Giáo trình công tác xã hội cá nhân, NXB Đại học Mở Tp Hồ Chí Minh


Mái ấm Mai Tâm có thể nói là sự tác động mạnh mẽ nhất đối với tất cả các trẻ ở đây.
Bởi mái ấm là nơi nuôi lớn các em, tạo điều kiện cho các em học văn hóa, học cách
làm người, học cách sống trong xã hội. Tiếp đó là các tổ chức như trường học, nhà thờ,
các nơi vui chơi ngoại khóa của các em và cuối cùng là các cấp chính quyền, chính
phủ nhà nước Việt Nam. Sự tác động này là rất mạnh mẽ đến chất lượng cuộc sống
của các em trong hiện tại và tương lai. Như vậy, trẻ em nhiễm HIV nếu không nhận
được sự giúp đỡ của xã hội sẽ không thể học tập tốt, có những ý nghĩ tiêu cực và thậm
chí là lỗi lầm.
4.1.2. Thuyết xung đột
Xung đột xã hội là tình huống hoặc quá trình xã hội mà trong đó tồn tại các mâu thuẫn
về lợi ích, giữa các nhóm xã hội và xã hội nói chung, thể hiện bằng sự đối lập, sự bất
đồng sự tranh chấp do khác nhau về nhận thức, thái độ, cảm xúc, nhu cầu, giá trị, mối
quan tâm về nguồn lực tự nhiên xã hội và đôi lúc được thực hiện bằng cả hành vi đụng
độ, vũ trang.
Thuyết xung đột nhấn mạnh mâu thuẫn là một phần không thể tránh được. Thuyết
cũng cho rằng xung đột và mâu thuẫn đóng góp vào sự thay đổi không ngừng của xã
hội.
Xung đột là một tình huống hoặc quá trình của xã hội.
Xung đột xã hội là biểu hiện mối quan hệ giữa các chủ thể khi giải quyết quan hệ lợi
ích mâu thuẫn.
Xung đột xã hội là hiện tượng xã hội khách quan, giải quyết quan hệ xã hội trung tâm
là lợi ích, hợp thành bản chất của mọi xã hội hay hiện tượng bệnh lý như thuyết chức
năng, cấu trúc.

Xung đột xã hội được xác định là giai đoạn phát triển cao nhất của các mâu thuẫn
trong hình thành các quan hệ với con người, các tập đoàn xã hội, các thiết chế xã hội
và xã hội nói chung, được đặc trưng bằng sự đối lập các lợi ích quan điểm được biểu
hiện bằng các hành vi đụng độ, xô xát hữu hình trên thực tế.


Xung đột bao gồm các dạng: xung đột giữa các quốc gia dân tộc, chủng tộc, tôn giáo,
giai cấp, nền văn hóa, văn minh; xung đột giữa các giới; xung đột giữa các thế hệ
trong gia đình; hay xung đột xác định giữa các thành viên với nhau.
Áp dụng lý thuyết này vào bài nghiên cứu, nhóm muốn thấy được các mâu thuẫn trong
mái ấm cũng như nguyên nhân của nó, đặc biệt là mâu thuẫn giữa các trẻ trong mái ấm
để từ đó thấy được tác động của mâu thuẫn đến thái độ, hành vi của các em như thế
nào.
4.2.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

4.2.1. Thu thập thông tin qua các dữ liệu sẵn có
Khi tiến hành nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã tiến hành thu thập thông tin và phân
tích dữ liệu trong các trang mạng, các tài liệu, sách báo nhằm có một góc nhìn tổng
quan hơn về vấn đề mà nhóm thực hiện.
4.2.2. Phương pháp quan sát
Nhóm đã sử dụng phương pháp quan sát trong suốt quá trình nghiên cứu.
4.2.3. Phương pháp định tính
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính là chính với công cụ phỏng vấn sâu.
Cách chọn mẫu: phi xác suất. Với số mẫu là 14 mẫu, bao gồm 1 giám đốc, 1 phụ trách,
1 cố vấn, 2 nhân viên, 3 bà mẹ và 6 trẻ tại mái ấm.
4.3.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU


- Thực trạng vấn đề học tập của trẻ nhiễm và chịu ảnh hưởng của HIV tại mái ấm Mai
Tâm như thế nào?
- Các nguyên nhân dẫn đến vấn đề đó là gì?
- Có những kiến nghị, giải pháp nào được đưa ra để khắc phục các vấn đề trên.


5. ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
5.1.

ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU

5.1.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề học tập của trẻ em nhiễm HIV tại mái ấm
Mai Tâm thành phố Hồ Chí Minh.
5.1.2. Khách thể
Trẻ nhiễm HIV tại mái ấm, phụ huynh của các em trong mái ấm, giám đốc, nhân viên
của mái ấm, các tình nguyện viên tại mái ấm.
5.1.3. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu tại mái ấm Mai Tâm thành phố Hồ Chí
Minh.
Về thời gian: Đề tài thực hiện trong thời gian từ tháng 2/2014 đến tháng 2/2015.
Về nội dung: Nhóm chúng tôi chủ yếu đi sâu nghiên cứu về vấn đề học tập của trẻ tại
mái ấm Mai Tâm.
5.2.

GIỚI HẠN

Do nhóm chúng tôi còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong nghiên cứu nên đề tài thực hiện
còn nhiều thiếu sót về nội dung và hình thức. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu cũng mới

chỉ giới hạn được trong phạm vi mái ấm Mai Tâm thành phố Hồ Chí Minh.
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Cho đến hiện tại số đề tài nghiên cứu về vấn đề học tập của trẻ em nhiễm HIV còn ít,
do đó đề tài này là một đóng góp của nhóm vào những nghiên cứu về học tập của trẻ
nhiễm HIV, đặc biệt tại mái ấm Mai Tâm quận Thủ Đức thành phố Hồ Chí Minh. Đề
tài đóng góp một số giải pháp để mái ấm Mai Tâm có những biện pháp phù hợp giúp
các trẻ ở đây có thể học tập tốt hơn, giúp các em hòa nhập vào cộng đồng xã hội.


7. Ý NGHĨA LÍ LUẬN, Ý NGHĨA THỰC TIỄN
7.1. Ý NGHĨA LÍ LUẬN
- Kết quả của bài nghiên cứu này là tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu về sau.
- Những thông tin thực nghiệm thu được từ thực tế nghiên cứu có thể đóng góp thêm
vào nguồn dữ liệu sử dụng cho việc phân tích và nghiên cứu lí luận về trẻ em nhiễm
HIV.
- Kết quả nghiên cứu có thể làm tư liệu tham khảo học tập cho các bạn sịnh viên các
khóa về sau và những ai quan tâm đến đề tài này.
7.2.

Ý NGHĨA THỰC TIỄN

Qua đề tài này nhóm nghiên cứu mong muốn đóng góp vào việc tìm hiểu vấn đề học
tập của trẻ em nhiễm HIV tại thành phố Hồ Chí Minh mà đặc biệt là mái ấm Mai Tâm.
Từ đó đưa ra hướng giải quyết thích hợp để trẻ em nhiễm HIV có thể hòa nhập vào
cộng đồng xã hội, học tập đầy đủ và có hiệu quả cao, trở thành những công dân tốt
trong tương lai và có ích cho xã hội.
Bên cạnh đó chúng tôi hy vọng qua đề tài này mọi người không chỉ ở thành phố Hồ
Chí Minh mà còn ở trên cả nước có một cái nhìn đúng đắn về trẻ nhiễm HIV, về sự
yêu cuộc sống, yêu học tập và luôn mong muốn được học tập của các em. Để từ đó trẻ
nhiễm HIV có thể nhận được sự giúp đỡ nhiều hơn của cộng đồng xã hội đặc biệt

trong công việc học tập.
8. KẾT CẤU CỦA BÀI NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu gồm có 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Phần nội dung gồm có 2 chương.
Chương I: Thực trạng vấn đề học tập của trẻ em nhiễm HIV tại mái ấm Mai Tâm
thành phố Hồ Chí Minh.
Chương II: Nguyên nhân dẫn đến vấn đề học tập của trẻ nhiễm HIV tại mái ấm Mai
Tâm.


NỘI DUNG

CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ HỌC TẬP CỦA TRẺ NHIỄM HIV TẠI
MÁI ẤM MAI TÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nghiên cứu về thực trạng vấn đề học tập của các trẻ nhiễm và chịu ảnh hưởng của HIV
tại mái ấm Mai Tâm nhóm nghiên cứu chúng tôi chia làm ba nội dung cơ bản như sau:
1. Trẻ mẫu giáo không được đi học ở trường
Ở Mai Tâm, về bên phía nhà Bình Triệu- Thủ Đức, có 11 em đang ở độ tuổi mẫu giáo
song các em không đến trường học mà được mái ấm mở một phòng trong không gian
của mái ấm làm lớp dạy học cho các em. Lớp mẫu giáo được thiết kế một phòng riêng
trên lầu 2 của nhà, phòng học tuy đảm bảo việc học cho các em nhưng không đủ rộng
để đáp ứng nhu cầu học múa hát, hay vui chơi của các em trong những giờ giải lao.
Các em ở đây được các thầy bên nhà dòng, các Sơ, nhiều khi là các cô đến dạy, lịch
dạy một tuần 5 buổi, lịch học ngang với đi học ở trường. Còn bên nhà Gò Vấp, vì
không mở lớp cho các em học trong mái ấm nên các em phải đi học ở nhà Sơ, nhà cô.
Bên nhà này có bốn em tuổi mẫu giáo đi học ở nhà Sơ như vậy, các em được mẹ đưa
đi học vào buổi sáng và đón về vào buổi chiều, trưa các em ăn trưa và nghỉ lại tại nhà
Sơ và được Sơ chăm sóc cho. Tình cảm của các em và các Sơ rất gắn bó thân thiết, các
em rất hay nhắc đến các Sơ trong các cuộc nói chuyện, như là “Sơ thương em lắm

đó”, “Sơ cho em ăn món ngon lắm chị ạ”, từ đó có thể thấy được tình yêu thương mà
các Sơ, các thầy cô dành cho các em rất lớn, chính vì thế mà các em luôn có cảm giác
được bao bọc che chở ngoài tình thương, sự đùm bọc của cha mẹ, các em cũng luôn
dành cho các thầy cô và các Sơ sự kính trọng và tình cảm thân thiết.
Có nhiều tác động khiến các trẻ mẫu giáo tại mái ấm không đi học ở trường mà học tại
nhà hoặc chỉ đến nhà Sơ. Thứ nhất là do trẻ còn nhỏ, chưa thể nhận thức được hành vi
của mình nên việc kiểm soát hành vi của các em trong lúc vui chơi không dễ dàng, nó
có thể dẫn đến những tình huống xấu. Vì tuổi mẫu giáo vui chơi là chính, các em học
hỏi chủ yếu qua các trò chơi của người lớn hay của bạn bè, trẻ cũng dễ bắt chước hành
vi của bạn và hậu quả sẽ không lường nếu các em có các hành vi cào cấu nhau chảy


máu. Thứ hai, đó là do mái ấm gặp nhiều khó khăn trong việc xin cho các em mẫu
giáo học ở trường. Chính vì các em còn nhỏ nên khi đi xin ở các trường trong thành
phố nói chung thì tất cả các trường đều không muốn nhận các em vào học vì sợ ảnh
hưởng đến uy tín của trường cũng như các học sinh khác của trường. Vì ở tuổi mẫu
giáo các em không thể giấu bệnh nên điều đó mang lại thiệt thòi cho các em không
được đến trường như những bạn khác: “Mới đầu con chị thì được đi nhưng khi ra
ngoài trường học mẫu giáo được một hai bữa thì người ta biết con bệnh nên người ta
trả về không cho học nữa. Thời gian đó nói chung chị cũng buồn nhưng phải chấp
nhận không cho học mẫu giáo đợi đến khi học lớp 1, ở bên này người ta không biết
mình bệnh nên mới xin được đi học”. 4 Đó là nỗi lòng chung của những bà mẹ tại mái
ấm có con bị nhiễm HIV mà không được đến trường học như bao bạn bè cùng trang
lứa. Để vượt qua được những khó khăn này, các bà mẹ cũng như các em đã nhận được
nhiều sự giúp đỡ từ Cha, các thầy, các Sơ cũng như các mạnh thường quân rất nhiều
để có thể tham gia học tập tại nhà để đủ kiến thức bước vào môi trường tiểu học. Vì
lên tiểu học, theo quy định của Pháp luật thì trẻ nhiễm HIV có quyền giấu bệnh tình
của mình để không bị phân biệt đối xử trong việc học tập nên trẻ tiểu học trở lên tại
mái ấm Mai Tâm đều được đi học tại trường với bạn bè ở ngoài. Tuy nhiên, việc giấu
bệnh cũng gặp nhiều khó khăn, theo lời của giám đốc mái ấm thì “khi đi xin học như

vậy thì mái ấm chỉ cho hiệu trưởng biết và đôi khi là giáo viên chủ nhiệm biết thôi,
như vậy thì mới có thể đảm bảo danh tính cho các em cũng như để các em không bị
phân biệt hay kì thị gì cả”5.
Và cuối cùng, đây cũng là sự tác động rất quan trọng. Vì đặc thù của trẻ nhiễm HIV là
các em phải có chế độ dinh dưỡng đảm bảo cùng với kết hợp uống thuốc đúng giờ và
đủ liều trong ngày. Do đó mái ấm phải chọn phương pháp này để đảm bảo các em
được chăm sóc một cách tốt hơn. So với việc học ở trường, học tại mái ấm, trẻ mẫu
giáo sẽ được các nhân viên cũng như các bà mẹ chăm sóc kỹ lưỡng trong từng bữa ăn,
giấc ngủ hay giờ giấc sinh hoạt. Theo lời của cô Thu (nhân viên của mái ấm) thì chế
độ dinh dưỡng trong một ngày của các em đòi hỏi phải có nhiều chất dinh dưỡng hơn
nhiều so với các em bình thường khác: Nếu đi học “ở trường thì ba bữa nhưng ở đây
thì năm bữa. Còn ở nhà, chế độ dinh dưỡng được theo dõi, các em được ăn uống đầy
4
5

Biên bản phỏng vấn số 5
Biên bản phỏng vấn số 1


đủ, không phải di chuyển ra ngoài, không cần người đưa đón” 6. Như vậy, không chỉ
vấn đề ăn uống đủ chất dinh dưỡng, uống thuốc đảm bảo tiến độ là rất quan trọng mà
bên cạnh đó còn có việc đưa đón các em đi học nếu các em đi học ở trường. Đây là
khó khăn tuy không lớn nhưng cũng không thể giải quyết trong thời gian ngắn được.
Tuy học tại mái ấm, nhà cô, nhà Sơ các nhu cầu về sức khỏe của các em tuổi mẫu giáo
được đáp ứng song chúng ta không thể phủ nhận những thiệt thòi nếu các em đến tuổi
đi học mà không được đến trường học tập. Do phương pháp dạy học ở trường khác
nhiều so với phương pháp dạy học của mái ấm, nhà Sơ nên chúng ta không chắc chắn
được rằng trẻ sẽ tiếp thu được những kiến thức cần có ở lứa tuổi này, các em không
được thụ hưởng cách dạy phù hợp về mặt chuyên môn của các giáo viên ở trường.
Hơn nữa, tuy còn nhỏ nhưng lứa tuổi này cũng rất cần học hỏi và giao tiếp với các bạn

bè cùng lứa tuổi, thay vì ở nhà, ngày nào cũng giao tiếp với từng đó người thì các em
được đi ra ngoài sẽ dễ dàng mở rộng mối quan hệ, tăng khả năng giao tiếp với những
người khác như thầy cô, bạn bè,... Thứ ba, khi đến trường, các em có không gian mở
rộng để hiểu biết về thế giới xung quanh, tương tác với môi trường mới, ở nhà trường
sẽ có khu vui chơi phù hợp với độ tuổi đang phát triển của các em bây giờ. Điều này
chính Mái ấm cũng nhận ra:“cái thiệt thòi lớn nhất của các em là cái điều kiện tiếp
xúc với môi trường bên ngoài. Nếu ở đây các em chỉ được tiếp xúc với các bạn trong
mái ấm, ngày nào cũng nhường đó, ngày nào cũng vậy. Còn các em ở ngoài thì có cái
thuận lợi hơn đó là được tiếp xúc với bạn bè nhiều hơn, cái giao tiếp nó rộng hơn, các
em có không gian giao tiếp rộng hơn, có sân chơi lành mạnh. Còn ở đây chỉ có phòng
học thôi không có sân chơi cho các em vui chơi” 7. Có thể nói, việc học tập của trẻ tuổi
mẫu giáo qua giao tiếp với môi trường bên ngoài là rất quan trọng nhưng trẻ mẫu giáo
ở mái ấm Mai Tâm đã không được đáp ứng môi trường để học tập, vui chơi mà thay
vào đó là việc các em chỉ được học tại căn phòng tại lầu 2 của mái ấm. Phòng học nhỏ,
không thể tổ chức nhiều trò chơi đòi hỏi có không gian rộng, còn với những bài hát
mà mái ấm cho các em tập, các em chỉ có thể tập với những động tác đơn giản.

6
7

Biên bản phỏng vấn số 3
Biên bản phỏng vấn số 4


2. Học lực của các em còn kém
Cha Hoàng - giám đốc của mái ấm Mai Tâm đã có nhận xét về khó khăn trong học tập
của trẻ tại mái ấm: “Việc học tập của các bé gặp rất nhiều khó khăn. Đó là sự khác
nhau về trình độ học vấn, bé thì học giỏi, bé thì học rất kém. Cũng vì do mỗi bé xuất
thân từ những hoàn cảnh khác nhau và điều kiện giáo dục không tốt nên mới như
vậy”8. Ở mỗi mái ấm hay một cơ sở xã hội đều có sự khác nhau giữa năng lực học tập

của các trẻ song đối với Mai Tâm, do ảnh hưởng của bệnh cùng với những nguyên
nhân khách quan và chủ quan khác khiến cho kết quả học tập chung của các em còn
kém. Đó cũng là nhận xét của những nhân viên tại mái ấm: : “Các em tại mái ấm học
không đều nhau. Có một số em học rất tốt cũng có một số em học yếu” 9, “Nó trung
bình thôi. Có một vài trường hợp thì các em được học sinh giỏi nhưng chủ yếu là
trung bình thôi”10.
Về phía các trẻ mẫu giáo, vì còn nhỏ, mới đi học nên các bé rất háo hức đi học. Khi
được hỏi “Cô thấy năng lực học của các em mẫu giáo tại mái ấm như thế nào” thì
nhóm nghiên cứu chúng tôi nhận được câu trả lời từ cô Thủy cho biết “Các em mẫu
giáo ở đây thì cũng bình thường, các em cũng biết vẽ, hát múa này kia vậy đó. Khi vào
lớp 1 thì các em cũng biết viết, đọc để học chương trình lớp 1 như mọi người. Có
nhiều đứa cũng khéo tay”. Khi đến thăm mái ấm, chúng ta rất dễ bắt gặp các bức tranh
do tự tay các em mẫu giáo vẽ được treo trong phòng học của các em. Đó là những bức
tranh nói lên cuộc sống và ước mơ tương lai của các em. Như vậy, mặc dù trẻ mẫu
giáo không được tham gia học tập tại các trường học trong thành phố song năng lực
học tập của các em vẫn được đảm bảo để vào môi trường tiểu học như biết viết, vẽ, hát
múa… Nhưng một phần không thể phủ nhận đó là không ít em sẽ thiếu sự tự tin như
những bạn khác, điều này sẽ ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em trong những
năm học tiểu học.
Đối với các em tuổi tiểu học trở lên (vì nhóm nghiên cứu chủ yếu ở hai nhà Bình Triệu
và Gò Vấp nên trẻ chủ yếu là đang học mẫu giáo và tiểu học, có không nhiều em học
trung học cơ sở) nhìn chung năng lực học của các em có phần yếu hơn. Qua quá trình
8

Biên bản phỏng vấn số 1
Biên bản phỏng vấn số 3
10
Biên bản phỏng vấn số 4
9



tiếp xúc với các em tại mái ấm cũng như qua các cuộc phỏng vấn sâu, nhóm nghiên
cứu nhận thấy bên cạnh những em có kết quả học tập tốt qua các năm thì 70% những
em còn lại đều có kết quả đi xuống qua các năm như lớp 1, lớp 2 được học sinh tiên
tiến thì lớp 3,4 chỉ được trung bình. Như em L.T.S có mẹ là chị L.T.X có thành tích
học rất tốt trong những năm học vừa qua: “Học sinh giỏi, tất cả các năm đều học sinh
giỏi”11, song em chỉ là một trong những số ít các em học khá. Khi nhóm nghiên cứu
tiếp xúc cũng đã nhận thấy em là một đứa trẻ nhanh nhẹn và thông minh hơn so với
những bạn khác, em có khả năng làm bài tập nhanh và có xác suất đúng cao hơn
những bạn khác. Phần đông trẻ tiểu học ở cả hai nhà của mái ấm có kết quả đi xuống
như: “Em thấy mình học còn yếu ạ. À, lớp 1 em được học sinh giỏi, lớp 2 với lớp 3
trung bình thôi ạ”12, “Em học yếu ạ. Lớp 1 và 2 em được học sinh giỏi, lớp 3 tiên tiến,
lớp 4 em trung bình thôi”13 hay lời của chị T về tình trạng học tập của con mình“P thì
được học sinh giỏi lớp 1, còn lớp 2 với lớp 3 thì chỉ được học sinh tiên tiến. Còn Đ
năm lớp 1, 2, 3 được học sinh giỏi còn lớp 4 được tiên tiến”14.
Phương pháp cũng như điều kiện học tập của các em ở hai nhà có sự khác nhau. Tại
nhà Bình Triệu- Thủ Đức, ngoài thời gian học ở trường thì các em còn được các giáo
dục viên và các tình nguyện viên hướng dẫn làm bài tập trong thời gian nghỉ ở nhà.
Còn các em ở nhà Gò Vấp có phần thiệt thòi hơn do các em không có người dạy vào
những thời gian ở nhà, chỉ khi có sinh viên thực tập đến thì các em ở nhà này mới có
người hướng dẫn làm bài tập cô giao trên lớp cũng như giảng những bài các em chưa
hiểu. Trong thời gian không có sinh viên thực tập thì nếu các em có bài không hiểu
hoặc không giải được, các bà mẹ sẽ gọi điện cho cô giáo chủ nhiệm hỏi hoặc ghi lại để
trong thời gian gần nhất có sinh viên thực tập đến thì nhờ giúp cho các em. Cũng chính
vì lý do đó mà các em ở nhà này rất quý các anh chị sinh viên thực tập “Em thích các
chị đến dạy em hơn”15. Như vậy, tuy hai nhà có các điều kiện học tập khác nhau nhưng
nhìn chung kết quả học tập của các em có điểm chung là đều có xu hướng đạt kết quả
thấp dần qua các năm.

11


Biên bản phỏng vấn số 6
Biên bản phỏng vấn số 9
13
Biên bản phỏng vấn số 10
14
Biên bản phỏng vấn số 7
15
Biên bản phỏng vấn số 10
12


Việc học lực của các em tại mái ấm Mai Tâm còn kém xuất phát từ nhiều vấn đề. Đó
chính là do ý thức học của các em chưa cao, “do các em cũng có lười nữa, các em lười
biếng khi học”16. Ngoài ra vấn đề về sức khỏe của các em cũng ảnh hưởng đến việc
học của các em rất nhiều. Đó là những ảnh hưởng của thuốc như làm giảm trí nhớ,
khiến cho tính tình của các em dễ nổi cáu… Hơn nữa, hàng tháng, các em phải dành
thời gian đi khám bệnh và lấy thuốc tại bệnh viện, hơn nữa bệnh viện chỉ làm việc từ
thứ 2 đến thứ 6 trong tuần nên mỗi lần đi khám là mái ấm phải chấp nhận cho các em
nghỉ học vì vấn đề sức khỏe rất quan trọng: “Chỉ có lúc mà nghỉ học, các bé nghỉ học
đi khám bệnh không lên lớp trực tiếp được thì nó ảnh hưởng đến thời gian hôm đó”17.
Bên cạnh đó, một số em vì nhiều lý do nên các em học chậm tuổi. Có những em năm
nay đã 13- 14 tuổi song mới chỉ học lớp 2, lớp 3. Đây có thể là do các em bị bỏ rơi từ
khi còn nhỏ nên khi vào mái ấm các em mới bắt đầu được đi học dưới sự che chở của
mái ấm. Cũng vì từ nhỏ các em không được học nên ở tuổi 9-10 mà mới bắt đầu vào
học thì các em có khả năng tiếp thu kém hơn những bạn khác cũng như có tâm lý vì
mình lớn tuổi hơn mà học chung lớp với các bạn nhỏ tuổi nên làm cho các em không
tự tin trong vấn đề học tập.
Đứng trước tình trạng này, mái ấm Mai Tâm cũng đã đưa ra một số giải pháp để hạn
chế, khắc phục song đây mới chỉ là tạm thời và chưa có tác dụng cao. Đối với những

em có kết quả học tập kém, mái ấm phải dành nhiều thời gian hơn cho các em, các em
phải ở nhà học nhiều hơn, kèm cặp nhiều hơn để có thể cải thiện được kết quả. Ngược
lại, để khuyến khích các em thi đua, cạnh tranh trong học tập, mái ấm cũng đã có
những hình thức khen thưởng xứng đáng với các em có học lực khá giỏi bằng việc cho
các em nhiều đồ chơi hơn, dẫn đi chơi ở ngoài nhiều hơn. Điều này bên cạnh việc sẽ
khuyến khích những em học khá tiến bộ hơn thì cũng là cách để răn đe, một hình phạt
với các em lười học, đạt kết quả thấp với mong muốn các em có thể cố gắng hơn. Đối
với những bà mẹ, họ cũng có những khuyến khích cho con mình “Chị thường mua
quà để tặng khuyến khích con như đồ chơi, bút thước. Con thích cái gì thì mẹ mua cho
con cái đó. Nhiều tiền thì mẹ không có nhưng khoảng dưới 50 nghìn thì mẹ sẵn sàng
mua cho con. Nhiều khi cũng nói với con như vậy”. Đó là tình cảm yêu thương, lo
16
17

Biên bản phỏng vấn số 1
Biên bản phỏng vấn số 2


lắng, luôn mong muốn các con nên người của các bà mẹ, bởi vì dù các em có bị xã hội
kì thị như thế nào thì vẫn là con của mẹ, là người con mà mẹ đã chăm sóc bao nhiêu
năm nay. Chúng ta dễ dàng hiểu được tại sao các bà mẹ lại nói rằng: “các bé cũng có
một chút thông minh, nếu chị bị như tụi nó chắc chị học không nổi đâu mà thấy tụi nó
như vậy, khả năng của tụi nó cũng rất là cao rồi đó” 18. Và sự thật, dù là mẹ ruột hay
mẹ nuôi chăm sóc các em thì đó luôn là ước mong của các bà mẹ dành cho các em
rằng các em sẽ có được cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc hơn.
3. Giáo dục kĩ năng mềm còn hạn chế.
Vấn đề giáo dục kĩ năng mềm cho các em tại mái ấm Mai Tâm có thể được phân tích
qua hai mảng đó là giáo dục qua việc nhắc nhở và giáo dục qua các hoạt động ngoại
khóa.
Mái ấm sử dụng chủ yếu là phương pháp giáo dục bằng việc nhắc nhở các em thực

hiện. Các em được học các kĩ năng sống về đạo đức ứng xử hàng ngày, cách sống,
cách làm người: như kính trọng, lễ phép với người lớn, kính trên nhường dưới, các
phép tắc chào hỏi, mời ăn cơm, xếp hàng khi làm việc tập thể, tuân thủ các quy định
của mái ấm…
Bên cạnh đó thì mái ấm cũng đã có các chương trình ngoại khóa, vui chơi như cắm
trại, đi xem phim, đi tắm hồ bơi, đi mua sắm… Tất cả các hoạt động này đều nhằm
mục đích giáo dục các kĩ năng mềm cho các em như khả năng giao tiếp, học tập và vui
chơi với tập thể, nâng cao sự tự tin của mỗi em: “Thì mái ấm mình cũng được các tổ
chức mạnh thường quân tới giúp đỡ nên tổ chức cho các em các hoạt động vui chơi
cắm trại nhất là vào hè. Ngoài ra có chương trình đi chơi thứ 7, chủ nhật như đi hồ
bơi, đi Đầm sen, hay đi xem văn nghệ này kia”.19
Tuy nhiên, việc giáo dục kĩ năng mềm cho các em còn gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất,
do vấn đề về tài chính của mái ấm còn gặp nhiều khó khăn nên không thể đảm bảo cho
các em tiến độ giáo dục thường xuyên và đều đặn cho các em. Vì nguồn tài chính của
mái ấm đều được xây dựng từ sự giúp đỡ của các mạnh thường quân trong nước và
nước ngoài, đó chính là nguồn tài chính đáp ứng các chi phí chăm sóc cho các em nhỏ
18
19

Biên bản phỏng vấn số 5
Biên bản phỏng vấn số 4


cũng như trả lương cho các bà mẹ tại mái ấm nên nó phụ thuộc lớn vào các mạnh
thường quân. Chính vì vậy, nếu chi phí dùng cho sinh hoạt của trẻ thiếu hoặc không dư
thì sẽ không thể nào thực hiện được các hoạt động giáo dục kĩ năng mềm này. Thứ hai
là khó khăn về mặt thời gian. Theo lời của cô Thủy thì “các em phải dành thời gian
học bài ở trường cũng như ở nhà, nếu nghỉ hoặc không làm bài tập để hiểu thì các em
sẽ bị chậm, không bắt kịp bài. Hơn nữa các em cũng phải đi khám sức khỏe, lấy máu
và lấy thuốc theo định kỳ”20 nên mái ấm gặp khó khăn trong việc sắp xếp thời gian

tham gia giáo dục kĩ năng mềm cho các em. Bên cạnh khó khăn về thời gian của các
em thì thời gian của các nhân viên cũng như giám đốc, phụ trách của mái ấm cũng gặp
không ít khó khăn: “thì các cô cũng vậy, cũng phải sắp xếp thời gian để dẫn các em
đi, cũng phải có người đi theo để chuẩn bị thuốc men hay khi có vấn đề gì thì cần phải
biết mà mái ấm thì cũng còn thiếu nhân lực” 21. Các em chỉ có thể đi vào các dịp hè
hằng năm, có hè thì được đi nhưng có hè thì không. Các hoạt động như cắm trại mái
ấm thường tổ chức ở biển Vũng Tàu chứ không dám đi xa hơn vì chỉ đi trong thời gian
ngắn và một số lý do về sức khỏe của các em.
Về kết quả của vấn đề giáo dục kĩ năng sống, theo nhận xét của giám đốc cũng như
các nhân viên thì các em chưa áp dụng được nhiều những kiến thức đã học vào cuộc
sống. Mái ấm vẫn còn phải nhắc nhở nhiều lần các em mới biết áp dụng nhưng sau đó
lại quên. Có thể nói điều này là khó tránh khỏi vì các hoạt động giáo dục này diễn ra
còn ít, hơn nữa tuổi các em còn nhỏ do đó việc các em ham chơi mà quên mất các kiến
thức đã được học là điều dễ lý giải. Nhận thức được điều này, mái ấm Mai Tâm cũng
đã có biện pháp nhẹ nhàng với các em như nhắc nhở nhẹ nhàng các em thường xuyên:
“nói nhỏ nhẹ thôi. Tất cả cũng xuất phát từ tình thương, dùng tình thương để cảm hóa
các bé. Giờ thì nó còn bé nó chưa hiểu nhưng sau lớn các bé sẽ hiểu. Có đôi lúc cũng
phải răn đe các bé, đánh các bé nhưng chúng ta phải có một mức độ nào đó thôi, đánh
thì đánh với tình thương thôi chứ không phải sự giận dỗi để các bé hiểu” 22. Như vậy,
với vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho trẻ nhiễm HIV tại đây, mái ấm cũng đã có những
phương pháp của mình song còn gặp nhiều khó khăn về nhiều mặt: “Các chị cũng
muốn tụi nó được học, bổ sung kiến thức, sống sao cho đúng mực nhưng mà điều kiện
20

Biên bản phỏng vấn số 4
Biên bản phỏng vấn số 4
22
Biên bản phỏng vấn số 2
21



×