Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Bình luận vấn đề quốc tịch của trẻ em Việt Nam khi được nhận là con nuôi người nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.46 KB, 6 trang )

Bình luận vấn đề quốc tịch của trẻ em Việt Nam khi được nhận là con nuôi
người nước ngoài.
Trên thực tế, hiện nay Việt Nam được xem là một quốc gia được nhiều
người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Từ năm 1990 trở
lại đây có khoảng 17.000 trẻ em được người nước ngoài nhận làm con nuôi.
Vấn đề cần quan tâm đặt ra ở đây chính là để quản lí được tình hình đó và
đảm bảo các phát sinh pháp lý xảy ra đối với vấn đề cho và nhận con nuôi
thì phải có một hệ thống các quy định pháp luật cụ thể rõ ràng. Trong đó,
quốc tịch của trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi là
vấn đề được Nhà nước ta coi trọng và quy định cụ thể tại Luật Quốc tịch
Việt Nam và các văn bản pháp luật hướng dẫn có liên quan.
1. Các khái niệm liên quan:
+ Quốc tịch là một phạm trù chính trị – pháp lý, thể hiện mối quan hệ
gắn bó, bền vững về chính trị và pháp lý giữa Nhà nước và cá nhân, là căn
cứ pháp lý duy nhất xác định công dân của một Nhà nước và trên cơ sở đó
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân.
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 và Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008
đều xác định: “Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân
với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam”.
Quốc tịch gắn liền với mỗi con người từ khi sinh ra đến khi chết đi, là tiền
đề để họ được hưởng các quyền công dân và làm nghĩa vụ công dân đối với
nhà nước mà mình mang quốc tịch.
+ Xuất phát từ một vấn đề nhạy cảm và mang tính nhân đạo xã hội.
Xét từ góc độ pháp lý thì việc cho và nhận connuôi được xem là một sự kiện
pháp lý nhằm “xác lập quan hệ cha mẹ
và con giữa người được nuôi con nuôi và ngườiđược nhận làm con nuôi”
(Điều 67 Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam 2000). Trên cơ sở tôn trọng
các qui định củapháp luật quốc tế về vấn đề này, nhà nước Việt Nam đã có
những qui định pháp luật cụ thể nhằm bảo vệ các quyền lợi hợp pháp cho


đối tượng chính của sự kiện cho và nhận con nuôi là trẻ em Việt Nam mà
qui định quốc tịch chính là cơ sở và căn cứ pháp lý để đối tượng
này được hưởng đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
2. Quốc tịch của trẻ em VN được người nước ngoài nhận làm con nuôi
Trên thực tế, trước khi ban hành Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 thì
vấn đề quốc tịch trẻ em được người nước ngoàinhận làm con nuôi và hệ quả
pháp lý của sự kiện này là vấn đề quốc tịch chưa được qui định chặt chẽ và
đầy đủ. Vấn đề này chỉ được điều chỉnh đơn thuần theo qui định tại khoản 2
Điều 14 Luật Quốc tịch Việt Nam 1988 là: Trẻ em là công dân Việt Nam,
nếu cha mẹ nuôi hoặc một trong hai người đó là công
dân nước ngoài và được cha mẹ đẻ hoặcngười đỡ đầu đồng ý
thì được thôi quốc tịch Việt Nam theo đơn của cha mẹ nuôi để
nhập quốc tịch nước ngoài. trong đó vấn đề cho
vànhận con nuôi là trẻ em Việt Nam cho người nước ngoài gia tăng mạnh và
phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực. Trên cơ sở nhân đạo truyền thống nhằm bảo
vệ các quyền lợi cho trẻ em Việt Nam
sau khi được người nước ngoài nhận làmcon nuôi, các qui định pháp
luật của đối tượng này được qui định chặt chẽ và thay đổi cơ bản về tính
chất pháp lý phát sinh tại Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 qui định:
“Trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi
vẫn giữ quốc tịch Việt Nam”. Quy định này nhằm bảo vệ lợi ích cho trẻ em
và là cơ sở cần thiết để nhà nước Việt Nam thực hiện quyền và nghĩa vụ bảo
hộ đối với trẻ em, kể cả khi đối tượng được bảo vệ này đang sinh sống ngoài
lãnh thổ Việt Nam. Đây là một qui định hoàn toàn cần thiết và tích cực, bởi
vì: việc cho nhận trẻ em làm con nuôi chỉ được thực hiện trên tinh thần nhân
đạo, nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản
của trẻ em. Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi nhằm bóc lột sức lao
động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì các mđ khác không phải
mục đích nuôi con nuôi. Quan điểm của Đảng và N2 ta là việc cho, nhận cn
vì mục đích nhân đạo và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.

Thứ nhất, qui định này phù hợp với tinh thần, tính cách, truyền thống dân
tộc và tình nghĩa của người Việt Nam, đi đâu làm gì cũng nhớ cội nguồn nơi
“chôn nhau cắt rốn” của mình, việc giữ quốc tịch Việt Nam cho trẻ em được
người nước ngoài nhận làm con nuôi là cầu nối gắn kết cho tinh thần đó.
Thứ hai, qui định này xác định mặc dù sự kiện pháp lý ghi nhận việc cho con
nuôi cho người nhận con nuôi là người nước ngoài nhưng cha mẹ đứa trẻ
thông qua việc được Nhà nước giữ quốc tịch cho đứa trẻ đó có thể phần nào
yên tâm hơn đối với việc cho con mình cho người nước ngoài nhận nuôi.
Thứ ba, qui định này đảm bảo cho quyền lợi của đứa trẻ được nhà nước Việt
Nam bảo hộ nếu có trường hợp xấu xảy ra như sự phân biệt đối xử, ngược
đãi, bóc lột, lạm dụng tình dục… hay các vấn đề pháp lý phát sinh khi hai
quốc gia có người cho và nhận con nuôi chưa ký kết các hiệp định hợp tác
hay tương trợ tư pháp về vấn đề này.
Tuy vậy, thực tiễn trên thế giới hiện nay về vấn đề quốc tịch trẻ em được
người nước ngoài nhận làm con nuôi được thừa nhận tình trạng hai quốc tịch
đang là xu hướng chung. Nhưng thực tế thì việc qui định của Luật Quốc tịch
Việt Nam về giữ quốc tịch của trẻ em Việt Nam được người nước ngoài
nhận làm con nuôi hay xu hướng thừa nhận hai quốc tịch của trẻ em khi làm
con nuôi của nhiều nước trên thế giới cũng chưa xảy ra tranh chấp về thẩm
quyền bảo hộ.
Vấn đề đặt ra là trẻ em được giữ quốc tịch này cho đến khi nào và có bắt
buộc phải thôi quốc tịch nước ngoài để giữ quốc tịch VN hay không thì
trong luật chưa làm rõ. Xu hướng chung các nước là muốn hạn chế đa quốc
tịch để tránh cho bất kỳ một người nào, kể cả trẻ em được làm con nuôi, sau
này không bị rơi vào tình trạng khó xử. Giả sử, một đứa trẻ VN được người
nước ngoài nhận làm con nuôi mà có 2 quốc tịch thì sẽ rất phức tạp cho
người này khi làm nghĩa vụ quân sự, thực hiện các quyền khác theo quy định
của mỗi nước. Nó cũng sẽ nảy sinh mâu thuẫn về bảo hộ quyền ngoại giao
với người 2 quốc tịch. Để hạn chế vấn đề này, trong hiệp định
về con nuôi giữa Việt Nam với các nước đã đưa vào nội dung rằng các nước

ký cam kết sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đứa trẻ đến một độ tuổi nhất định
(theo pháp luật của nước nhận nuôi) được lựa chọn quốc tịch. - Việt Nam đã
ký được bao nhiêu hiệp định như vậy với các nước? - Ký với 6 nước bằng 8
hiệp định. Pháp năm 2000, sau đó Đan Mạch, Italy, Đan Mạch, Iceland,
Thụy Điển vào năm 2003. - Thưa ông, xác định ra sao về quyền thừa kế của
người đã được cho làm con nuôi với cha mẹ đẻ? - Bộ luật dân sự VN quy
định về thừa kế nói chung giữa những người VN với nhau chứ không quy
định cụ thể về quyền thừa kế của đứa trẻ đi làm con nuôi với người nước
ngoài. Theo nguyên tắc áp dụng pháp luật, nếu không có văn bản nào quy
định thì áp dụng Bộ luật dân sự để điều chỉnh các quan hệ về dân sự có yếu
tố nước ngoài kể cả với con nuôi. Chúng tôi nghiên cứu và thấy rằng, pháp
luật VN vẫn thừa nhận những người ở hàng thừa kế thứ nhất bao gồm cha
mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, con đẻ và con nuôi. Từ đó cho phép mình hiểu là trẻ em
VN đã đi làm con nuôi người nước ngoài rồi, theo luật dân sự vẫn được
quyền thừa kế với cha mẹ đẻ trong nước, và ngược lại cha mẹ đẻ cũng có
quyền thừa kế với tài sản con nuôi để lại ở nước ngoài. Trong các hiệp định
đã đưa vào quy định xung đột rằng luật mà nước con nuôi và cha mẹ nuôi
thường trú sẽ được áp dụng để xác định hệ quả pháp lý của việc nuôi con
nuôi, trong đó cả hệ quả chấm dứt quan hệ pháp lý với cha mẹ đẻ. Vì vậy
theo nguyên tắc, nếu điều ước quốc tế mà quy định khác thì áp dụng điều
ước. Trong điều kiện này không thể áp dụng quy định về thừa kế trong bộ
luật dân sự với những đứa trẻ đã đưa đi làm con nuôi. Bởi tất cả các hệ quả
đó mình phải xác định phải theo luật của nước ngoài. - Thực tế cho thấy, có
những trường hợp giả mạo, môi giới trục lợi trong lĩnh vực con nuôi. Vậy
trong trường hợp cha mẹ nuôi muốn hủy quyết định công nhận con nuôi thì
pháp luật quy định thế nào? - Quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh cho trẻ
em VN (sống tại tỉnh đó) làm con nuôi người nước ngoài vừa là quyết định
hành chính, vừa là giấy tờ đăng ký hộ tịch. Bởi vì việc đăng ký nuôi con
nuôi cũng là việc hộ tịch. Có quyết định đó, Sở tư pháp mới đăng ký vào sổ
và cho giao nhận con nuôi. Trước đây, theo Pháp lệnh về thủ tục các vụ án

dân sự, tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan hộ tịch, kể cả
hủy các quyết định. Nhưng từ khi có Bộ luật dân sự thì luật lại chưa quy
định thẩm quyền của tòa án nhân dân trong việc hủy quyết định của UBND
tỉnh liên quan hộ tịch. Hiện rất khó xác định cơ quan nào có thẩm quyền
trong vấn đề này. Nếu đó chỉ là quyết định hành chính thì cơ quan cấp trên
hủy quyết định đó. Nhưng nó không hoàn toàn là quyết định hành chính mà

×