Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

TÀI LIỆU ÔN TẬP LÝ THUYẾT, BÀI TẬP MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.92 KB, 69 trang )

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH VÀ TIỀN TỆ
1.1 NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA TIỀN TỆ
1.1.1 Sự ra đời và phát triển của tiền tệ
1.1.1.1 Sự ra đời của tiền tệ
Trong quan hệ trao đổi, hình thức giá trị được biểu hiện qua 4 hình thái:
- Hình thái giản đơn (hay hình thái ngẫu nhiên):
Là hình thái xuất hiện khi cộng đồng nguyên thuỷ bắt đầu tan rã, là sự bắt đầu
của quan hệ trao đổi. Tuy nhiên, sự trao đổi này mới chỉ là quan hệ trao đổi trực tiếp vật
lấy vật, diễn ra trên quy mô nhỏ, rất lẻ tẻ, không thường xuyên và mang tính ngẫu nhiên
(Đây chính là nhược điểm, hạn chế)
Phương thức trao đổi được thể hiện qua phương trình:
x hàng hoá A = y hàng hoá B
Ví dụ: 5 đấu thóc = 1 cái áo
- Hình thái mở rộng
Khi cộng đồng nguyên thủy tan rã, hình thành gia đình, chế độ tư hữu đòi hỏi
phải tiêu dùng sản phẩm của nhau.
Ngoài ra, sự xuất hiện của cuộc phân công lao động xã hội lần thứ nhất (chăn
nuôi tách khỏi trồng trọt) làm cho năng suất lao động tăng lên, có sản phẩn dư thừa để
trao đổi;
 Hàng hoá tham gia trao đổi cũng nhiều hơn.
Phương trình trao đổi:
x hàng hóa A = y hàng hóa B = z hàng hóa C = ….
Ví dụ: 5 đấu thóc = 1 cái áo = 1 con gà =…
Kết luận: Trong hình thái mở rộng, mặc dù đã có nhiều hàng hóa tham gia vào
quá trình trao đổi, hình thái vật ngang giá được mở rộng ra ở nhiều hàng hoá khác nhau,
nhưng chưa có vật ngang giá chung. Quá trình trao đổi vẫn là trao đổi trực tiếp vật lấy
vật. Vì vậy, quy mô trao đổi vẫn nhỏ, và việc thực hiện vẫn gặp nhiều khó khăn.
- Hình thái chung:
Khi xã hội phát triển hơn, lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã hội
cũng phát triển, cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện (thủ công nghiệp
tách khỏi nông nghiệp), làm năng suất lao động tăng lên, hàng hóa cũng được trao đổi


thường xuyên, đa dạng và nhiều hơn.
Từng vùng, từng khu vực hình thành các chợ (thị trường) để trao đổi hàng hóa.
Như vậy, đòi hỏi phải có một hàng hóa trở thành vật ngang giá chung
Yêu cầu của vật ngang giá chung: gọn, nhẹ, dễ bảo quản, dễ chuyên chở và phù
hợp với tập quán trao đổi của từng địa phương.
Phương trình trao đổi:
5 đấu thóc


1 con gà

=

1 tấm vải

1 cái áo
2 cái búa
Trong phương trình trao đổi trên, chỉ có một hàng hoá đóng vai trò là vật ngang
giá chung (là tấm vải), giá trị của các hàng hoá được biểu hiện qua vật ngang giá chung,
và trao đổi chỉ thực hiện qua hai lần bán và mua.
Như vậy, so với hai hình thái đã biết ở trên, ở hình thái này đã xuất hiện vật
ngang giá chung, tạo điều kiện thuận lợi hơn trong quan hệ trao đổi hàng hoá. Tuy
nhiên, vật ngang giá chung còn mang tính chất địa phương và thời gian nhất định. Các
địa phương khác nhau thì hàng hóa dùng làm vật ngang giá chung cũng khác nhau. Nên
hình thái này còn cản trở đến việc mở rộng trao đổi hàng hóa giữa các địa phương, đặc
biệt giữa các quốc gia với nhau.
- Hình thái tiền tệ
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, tiền tệ đã xuất hiện khi có vật
ngang giá chung dùng để trao đổi nhiều lần với các hàng hóa khác và vật ngang giá
chung đó chính là tiền của vùng, của khu vực đó.

Ngoài ra, theo C.Mác hàng hóa làm tiền tệ phải có giá trị cao là vật ngang giá
chung cho cả thế giới hàng hóa.
Phương trình trao đổi:
5 đấu thóc
1 con gà

= 0,2 gr vàng

2 cái búa
1 cái áo
Ở phương trình trên, vàng là vật ngang giá chung cho tất cả hàng hoá.
1.1.1.2 Quá trình phát triển của tiền tệ:
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ đã lần lượt tồn tại
dưới nhiều hình thức khác nhau:
Tiền bằng hàng
hóa thông thường



Tiền
vàng



Tiền đúc bằng
kim loại kém giá



Tiền

giấy



Tiền chuyển
khoản

(1) Tiền bằng hàng hóa thông thường
Hàng hoá đặc biệt được chọn làm tiền phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Những hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá chung để trao đổi nhiều lần với
hàng hóa khác;


- Hàng hóa đó phải quý, hiếm, gọn, nhẹ, dễ bảo quản, dễ chuyên chở và phù hợp
với tập quán trao đổi từng địa phương.
Nhược điểm: do hàng hoá được chọn làm tiền ở các vùng khác nhau thì khác
nhau, do đó, cản trở sự phát triển quan hệ trao đổi giữa các vùng miền. Hơn nữa, nhu
cầu của con người luôn thay đổi và ngày càng tăng, do đó hàng hoá được sử dụng làm
tiền cũng thay đổi, vì vậy việc dùng hàng hoá làm tiền càng trở nên phức tạp.
Phương thức này dần dần bị xoá bỏ để nhường cho một hàng hoá trung gian khác
làm bằng kim loại quý - thời kỳ kim tệ ra đời.
(2) Tiền vàng
Do những đặc tính ưu việt của vàng so với các hàng hoá khác, trong thực tế lưu
thông hóa tệ kim loại, vàng là loại tiền tệ được sử dụng phổ biến và lâu dài nhất. Những
đặc tính của vàng bao gồm:
- Vàng là loại hàng hóa được nhiều người ưa thích; vì vậy dễ được mọi người
chấp nhận trên diện rộng.
- Đặc tính lý hóa (không thay đổi về mầu sắc, chất lượng dưới tác động của môi
trường; dễ chia nhỏ hay hợp nhất) của vàng rất thuận lợi trong việc thực hiện chức năng
tiền tệ;

- Giá trị của vàng ổn định trong thời gian tương đối dài, ít chịu ảnh hưởng của sự
tăng năng suất lao động xã hội.
Nhược điểm của nó:
- Trình độ sản xuất ngày càng phát triển, khối lượng hàng hoá dịch vụ trao đổi
ngày càng nhiều, lượng vàng sản xuất ra không đáp ứng nhu cầu trao đổi của nền kinh
tế;
- Theo thời gian giá trị của vàng trở nên quá lớn để làm vật ngang giá chung đối
với các hàng hóa có giá trị nhỏ và ngược lại;
- Theo các nhà kinh tế học, việc sử dụng tiền vàng là sự lãng phí những nguồn tài
nguyên quý hiếm của xã hội.
Bởi những nhược điểm trên, việc sử dụng tiền vàng dần trở nên bất tiện, dẫn tới
việc bị loại ra khỏi lưu thông. Ngày nay vàng được đưa vào dự trữ cho các quốc gia và
cá nhân, đồng thời nó được sử dụng trong thanh toán quốc tế.
(3) Tiền đúc bằng kim loại kém giá:
Đặc điểm của tiền đúc bằng kim loại kém giá:
- Là các kim loại thường như: đồng, chì, kẽm, nhôm…


- Lưu thông chủ yếu trong triều đại phong kiến, do nhà vua độc quyền phát hành.
- Ngày nay, trên thế giới, nhiều nước vẫn dùng tiền đúc bằng các kim loại kém giá.
Ý nghĩa của dùng tiền đúc bằng kim loại kém giá:
- Tiết kiệm của cải xã hội;
- Quy mô và khối lượng phát hành lớn, có nhiều mệnh giá khác nhau đáp ứng
nhu cầu trao đổi, thanh toán trong nền kinh tế.
Nhược điểm: giá trị nội tại rất nhỏ, dễ hỏng, dễ làm giả, nặng, vận chuyển và
kiểm đếm phức tạp…
(4) Tiền giấy:
Ưu điểm của tiền giấy:
- Tiền giấy gọn nhẹ, dễ cất giữ nên việc vận chuyển nó trở nên dễ dàng hơn.
- Tiền giấy được in đủ loại mệnh giá, tiện lợi cho các giao dịch lớn nhỏ, việc giao

dịch những khoản tiền lớn cũng trở nên thuận tiện hơn.
- Chi phí in tiền giấy nhỏ, đem lại những lợi ích nhất định cho chính phủ.
Nhược điểm của tiền giấy:
- Thường không bền;
- Có thể bị làm giả;
- Chi phí lưu thông vẫn còn lớn, phức tạp trong kiểm đếm, vận chuyển, bảo quản
với khối lượng lớn;
- Dễ rơi vào tình trạng bất ổn.
(5) Tiền chuyển khoản:
Tiền chuyển khoản: là hình thức tiền tệ được sử dụng bằng cách ghi chép trong
sổ sách kế toán của ngân hàng và khách hàng.
Như vậy, thực chất, tiền chuyển khoản là đồng tiền phi vật chất, nhưng nó cũng
có những tính chất giống như tiền giấy là được sử dụng trong thanh toán qua những
công cụ thanh toán của ngân hàng như: séc, lệnh chuyển tiền…
Ưu điểm của tiền chuyển khoản so với tiền giấy, đó là: an toàn hơn, chuyển đổi
ra tiền giấy dễ dàng, thanh toán rất thuận tiện, kiểm nhận nhanh.
1.1.2 Bản chất của tiền tệ
- Theo C.Mác: “Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt đóng vai trò là vật ngang giá
chung để đo giá trị của tất cả các hàng hoá khác và là phương tiện thực hiện trao đổi”.


Theo quan điểm của C.Mác, tiền vàng được coi là tiền tệ vì tiền vàng có đầy đủ 2
thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng, nó có thể đo đ ược giá trị của tất cả các hàng hoá
khác.
- Tuy nhiên các nhà kinh tế học hiện đại lại đưa ra khái niệm về tiền tệ: “Tiền là
bất cứ một phương tiện nào được xã hội chấp nhận làm phương tiện trao đổi với mọi
hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác trong nền kinh tế”.
Vậy theo quan điểm này, ngoài vàng ra, tất cả những phương tiện đóng vai trò
trung gian trong quá trình trao đổi đều được coi là tiền, nên phạm vi của tiền tệ được mở
rộng hơn.

 Bản chất tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá
chung để đo giá trị của các hàng hoá khác, làm phương tiện để trao đổi hàng hoá, dịch
vụ và thanh toán các khoản nợ. Bản chất này đã đem lại cho tiền tệ một tính chất hết sức
đặc biệt, đó là khả năng có thể đổi lấy bất cứ một hàng hoá hay dịch vụ nào.
Quá trình xuất hiện của tiền tệ cho ta thấy nó là sản phẩm của nền kinh tế hàng
hoá. Điều đó có nghĩa rằng tiền tệ phát sinh, phát triển và tồn tại cùng với sự phát sinh,
phát triển và tồn tại của sản xuất và trao đổi hàng hoá, ở đâu có sản xuất và trao đổi
hàng hoá thì ở đó có tồn tại tiền tệ.
1.2 CÁC CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ
3 chức năng cơ bản sau:
- Chức năng đơn vị định giá (Thước đo giá trị)
- Chức năng phương tiện trao đổi
- Chức năng phương tiện dự trữ giá trị (Cất giữ giá trị)
1.2.1 Chức năng đơn vị định giá
Khái niệm: Tiền được dùng để đo giá trị trong nền kinh tế.
Đơn vị định giá là chức năng đầu tiên và cũng là chức năng quan trọng nhất của
tiền tệ.
Để thực hiện chức năng đơn vị định giá, tiền phải đảm bảo đủ các điều kiện:
- Tiền phải có giá trị danh nghĩa pháp định (Ví dụ: tờ 5.000 VNĐ, 50.000VNĐ,
500.000 VNĐ... các tờ tiền có mệnh giá khác nhau này, đều do nhà nước quy định.)
- Tiền phải quy định bằng đơn vị (Ví dụ: 1VND; 1 USD…);
- Khi thực hiện chức năng đo lường giá trị chỉ cần tiền tưởng tượng, không phải
là tiền thực (Ví dụ: tiền chuyển khoản…)
Ý nghĩa của tiền tệ khi thực hiện chức năng định giá:


- Xác định được giá cả hàng hóa để thực hiện trao đổi.
Ví dụ: Giá cả của một con vịt là 160.000 VNĐ, giá cả của một cái áo là
320.000... như vậy, một người có thể bán 2 con vịt, sau đó dùng tiền để đi mua áo. Đây
là hình thức trao đổi hàng hoá, thông qua vật trung gian là tiền.

- Giảm số giá cần xem xét, do đó giảm chi phí và thời gian trao đổi.
Ví dụ: tiếp theo từ ví dụ bán vịt để mua vải trên, khi không có chức năng định
giá, người ta có thể coi giá cả của một cái áo là 2 con vịt; giá cả của 1 con vịt là 2 cái
búa, như vậy giá cả của 1 cái áo là 4 cái búa. Tuy nhiên, nếu tiền tệ thực hiện chức năng
định giá, người ta chỉ cần nhớ, giá của 1 cái áo là 320.000, giá của 1 con vịt là 160.000,
giá của 1 cái búa là 80.000. Như vậy, số lượng giá cả cần phải nhớ cũng giảm đi, và khi
muốn trao đổi hàng, người ta có thể bán 2 con vịt, hoặc 4 cái búa để mua được cái áo
luôn. Thời gian trao đổi cũng được rút ngắn lại.
- Dùng tiền tệ xác định chỉ tiêu giá trị trong công tác quản lý nền kinh tế quốc
dân, doanh nghiệp, đơn vị và thu chi bằng tiền của cá nhân.
1.2.2 Chức năng phương tiện trao đổi
Đây là chức năng thứ hai của tiền tệ nhưng lại là chức năng phản ánh rõ nét nhất
bản chất của tiền tệ. Là một phương tiện trao đổi, tiền tệ được sử dụng như một vật môi
giới trung gian trong việc trao đổi các hàng hoá, dịch vụ.
Khái niệm: tiền tệ làm môi giới trung gian trong quá trình trao đổi hàng hoá.
Đặc điểm của tiền tệ, khi tiền tệ được đem ra làm chức năng phương tiện trao
đổi:
- Có thể dùng tiền mặt hoặc tiền chuyển khoản
- Có thể dùng tiền vàng hoặc tiền dấu hiệu
- Chuẩn mực của tiền:
+ Phải được chấp nhận rộng rãi: Nó phải được con người chấp nhận rộng rãi
trong lưu thông chỉ khi mọi người cùng chấp nhận nó thì người có hàng hoá mới đồng ý
đổi hàng của mình lấy tiền.
+ Dễ nhận biết: Con người phải nhận biết nó dễ dàng.
+ Có thể chia nhỏ được: Tạo thuận lợi cho việc mua bán giữa các hàng hoá
có giá trị khác nhau.
+ Dễ vận chuyển: Tiền tệ phải đủ gọn nhẹ, dễ dàng trong việc trao đổi hàng
hoá ở những khoảng cách xa.
+ Không bị hư hỏng một cách nhanh chóng.



+ Được tạo ra hàng loạt, số lượng đủ dùng trong trao đổi.
+ Có tính đồng nhất: Các đồng tiền có cùng mệnh giá phải có sức mua ngang
nhau.
Ý nghĩa của việc sử dụng tiền làm phương tiện trao đổi:
- Mở rộng lưu thông hàng hóa: do tiền làm vật trung gian, có thể vận chuyển một
cách tiện lợi, gọn nhẹ, vận chuyển đi xa... do đó, nó giúp cho sự lưu thông diễn ra thuận
lợi, trên nhiều địa phương, mở rộng sự lưu thông, phát triển thị trường hàng hoá.
- Kiểm soát tình hình lưu thông hàng hóa.
- Trao đổi thuận tiện, nhanh chóng. Do đó giảm thời gian, chi phí trao đổi.
1.2.3 Chức năng phương tiện dự trữ giá trị
Dự trữ giá trị là một hình thức tích luỹ một lượng giá trị bằng cách lưu giữ
“phương tiện truyền tải giá trị” được xã hội chấp nhận.
Khi tiền tệ được xã hội chấp nhận làm vật môi giới chung gian, chuyển đổi giá trị
hàng hoá thành giá cả. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Thì có nghĩa là, dữ trữ
giá trị được thực hiện dưới dạng lưu giữ tiền.
Khái niệm: Tiền là một phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ là nơi cất giữ sức mua
qua thời gian.
Công thức vận động của tiền khi tiền thực hiện chức năng dự trữ giá trị:
H – T …. T – H’
Yêu cầu của tiền khi thực hiện chức năng phương tiện dự trữ giá trị:
- Phải dự trữ giá trị bằng tiền vàng;
- Có thể dự trữ bằng tiền dấu hiệu hoặc gửi tiền vào ngân hàng với điều kiện
đồng tiền ổn định.
Ý nghĩa của chức năng phương tiện dự trữ giá trị:
- Điều tiết số lượng phương tiện lưu thông, chức năng này được thể hiện, khi một
lượng tiền tạm thời "nhàn rỗi" trong dân cư sẽ được cất giữ hoặc gửi tiết kiệm. Như vậy,
với một số lượng cung tiền và nhu cầu chi tiêu nhất định trong nền kinh tế, lượng tiền
trong lưu thông cũng sẽ dừng lại ở một mức nhất định.
- Tập trung, tích lũy được nhiều vốn cho cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức tín

dụng. Khi tiền tạm thời "nhàn rỗi" được tích luỹ, dự trữ và gửi tiết kiệm. Các chủ thể
trong nền kinh tế sẽ tạo ra một nguồn vốn ngày càng lớn dần cho mình, để sử dụng khi
cần thiết.


1.3 CÁC KHỐI TIỀN TỆ
1.3.1 Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông (Mn)
Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông (Mn) là khối lượng tiền do tổng nhu cầu
của nền kinh tế quốc dân trong mọi thời kỳ quyết định.
Gọi:

Mn : Số lượng tiền cần thiết cho lưu thông;
P : Mức giá cả hàng hoá trong lưu thông;
Q: Tổng khối lượng hàng hóa đưa vào lưu thông;
V: Tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ.

Công thức tính:
PxQ
Mn =
V
Từ công thức trên, ta có: “Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với
tổng số giả cả hàng hoá và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ”.
1.3.2 Khối lượng tiền trong lưu thông (Ms)
Khối lượng tiền trong lưu thông là khối lượng tiền thực có trong lưu thông, do
yếu tố chủ quan của con người phát hành để đưa vào lưu thông bao gồm tất cả các
phương tiện được chấp nhận làm trung gian trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các
khoản thanh toán khác tại một thị trường và trong một thời gian nhất định.
Khả năng thanh toán và chi trả nhanh hay chậm của mỗi loại phương tiện gọi là
“tính lỏng” của phương tiện đó trên thị trường.
Các khối tiền trong lưu thông bao gồm:

 Khối tiền tệ M1
Là bộ phận có tính lỏng cao nhất, bao gồm những phương tiện được chấp nhận
ngay trong trao đổi hàng hóa mà không phải qua một bước chuyển đổi nào. Khối tiền tệ
này bao gồm:
- Tiền mặt;
- Tiền gửi không kỳ hạn.
VD: giấy bạc ngân hàng, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, ngân phiếu, séc các
loại, tiền gửi không kỳ hạn.
 Khối tiền tệ M2


Được gọi là khối tiền tệ giao dịch mở rộng. Theo khối tiền tệ này, tổng lượng
tiền cung ứng bao gồm:
- Khối tiền tệ M1;
- Tiền gửi có kỳ hạn.
 Khối tiền tệ M3
Là khối tiền tệ tài sản có tính lỏng thấp nhất. Khối tiền tệ này bao gồm:
- Khối tiền tệ M2;
- Tiền trên các chứng từ có giá (chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, tín phiếu, trái
phiếu…).
 Khối tiền tệ MS
Là tổng khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Khối tiền tệ này bao gồm:
- Khối tiền tệ M3;
- Các phương tiện thanh toán khác (giấy chấp nhận ngân hàng…).
Khối lượng tiền trong lưu thông lớn hay nhỏ phụ thuộc chủ yếu vào sự phát hành
“tiền tệ” của chính phủ, các ngân hàng nhà nước.
 Mối quan hệ giữa Mn và Ms
Ms/Mn = 1: Tiền và hàng cân đối. Đây là tỷ số giả định, trong thực tế rất khó để
đạt được tỷ lệ này.
Ms/Mn > 1: Số lượng tiền trong lưu thông lớn hơn số lượng tiền cần thiết trong

lưu thông. Nền kinh tế thừa tiền, hay tiền bị mất giá, điều này dẫn đến hiện tượng lạm
phát.
Ms/Mn < 1: Số lượng tiền trong lưu thông nhỏ hơn số lượng tiền cần thiết trong
lưu thông. Nền kinh tế thiếu tiền, dẫn đến thiểu phát.
1.4 CUNG VÀ CẦU TIỀN TỆ
1.4.1 Cầu tiền tệ
Khái niệm: “Cầu tiền tệ là số lượng tiền mà các pháp nhân và thể nhân cần thỏa
mãn nhu cầu chi dùng”.
Cầu tiền tệ được xác định bằng khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông (Mn).
Các loại cầu tiền tệ:
 Nhu cầu tiền cho giao dịch: Là nhu cầu về tiền để thực hiện các hoạt động
giao dịch của pháp nhân và thể nhân (gọi chung là tác nhân).


Ví dụ: Nhu cầu tiền để thanh toán lương, mua nguyên vật liệu, mua vật phẩm
tiêu dùng…
 Nhu cầu tiền cho tích lũy: Là lượng tiền các tác nhân tích lũy cho các nhu cầu
đã dự định trước, chúng ở dưới dạng tiền nhàn rỗi.
Ví dụ: Tích lũy tiền để đầu tư mua sắm tài sản cố định, máy móc; mua nhà, đồ
gia dụng gia đình, đi học, …
Nhu cầu tích lũy phụ thuộc vào mức thu nhập và mục đích của các tác nhân. Số
lượng tiền dự định chi dùng càng lớn, thì số lượng tích luỹ càng nhiều.
 Nhu cầu tiền cho dự phòng: Là lượng tiền các tác nhân dự trữ đề phòng khi
cần sử dụng cho các nhu cầu bất thường hoặc để sử dụng khi gặp những rủi ro. Nhu cầu
này được chia làm ba loại:
- Dự phòng một số tiền để chờ cơ hội mua mà không dự báo trước được;
- Dự phòng chi thường xuyên;
- Dự phòng chi cho rủi ro: rủi ro đối với cá nhân như tai nạn, thiên tai, hạn hán,
mất mùa...
 Nhu cầu tiền để cất trữ: Là số lượng tiền nhàn rỗi lâu dài, chưa có mục tiêu sử

dụng, được đưa vào cất giữ.
Tổng hợp các nhu cầu tiền nêu trên hợp thành tổng cầu tiền của nền kinh tế trong
một thời kỳ và nó luôn biến động, phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: giá trị giao dịch,
thu nhập, lãi suất, tập quán chi tiêu…
1.4.2 Cung tiền cho lưu thông
Khái niệm: Cung tiền cho lưu thông là chỉ việc phát hành vào lưu thông một
khối lượng tiền tệ nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền.
Tiền phát hành vào lưu thông bao gồm: tiền giấy, tiền kim loại, giấy bạc ngân
hàng hay tiền chuyển khoản. Tiền này được nhiều tác nhân cung ứng.
Các kênh cung tiền:
 Ngân hàng Trung ương cung tiền
Ngân hàng trung ương là cơ quan độc quyền phát hành tiền. Lượng tiền phát
hành chủ yếu là tiền mặt, được gọi là tiền cơ sở.
Ngân hàng Trung ương cung tiền thông qua các kênh sau:


- Ngân hàng Trung ương thực hiện cho vay tái chiết khấu đối với các Ngân hàng
Thương mại và cầm cố các giấy tờ có giá (thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi…) của các
Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
- Ngân hàng Trung ương có thể phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt Ngân sách
Nhà nước.
- Ngân hàng Trung ương phát hành tiền qua thị trường ngoại tệ, vàng và qua thị
trường mở.
 Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng tạo tiền qua các nghiệp vụ của
mình (tiền chuyển khoản).
Điều kiện để các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng có cơ sở cung tiền
chuyển khoản:
- Hệ thống ngân hàng 2 cấp đã được hình thành.
- Các ngân hàng hoạt động trong cùng hệ thống;
- Thực hiện nghiệp vụ tín dụng và thanh toán không dùng tiền mặt giữa ngân

hàng và khách hàng.
 Vậy, có 4 tác nhân tham gia vào quá trình cung ứng tiền cho lưu thông đó là:
Ngân hàng trung ương, Ngân hàng thương mại, các tác nhân gửi tiền và các tác nhân
vay tiền; trong đó ngân hàng trung ương giữ vai trò chủ đạo, là cơ quan độc quyền phát
hành tiền giấy, tham gia vào cung ứng tiền chuyển khoản và quản lý chặt chẽ lượng tiền
chuyển khoản được tạo ra.
1.5 CÁC TIỀN ĐỀ RA ĐỜI VÀ BẢN CHẤT CỦA TÀI CHÍNH
1.5.1 Các tiền đề quyết định sự ra đời của tài chính
Sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa – tiền tệ là điều kiện tiên
quyết cho sự ra đời của tài chính. Bên cạnh những tiền đề quyết định làm nảy sinh
phạm trù tài chính là sản xuất hàng hoá và tiền tệ, nhà nước ra đời làm cho hoạt động
tài chính ngày càng phát triển hơn.
1.5.2 Bản chất của tài chính
Tài chính hiểu một cách giản đơn nhất là bao gồm các quyết định liện quan đến
tiền, hay nói một cách khác chính xác hơn là các quyết định liên quan tới các dòng tiền.
Nguồn tài chính có thể tồn tại dưới dạng tiền hoặc tài sản vật chất và phi vật chất.
Bản chất của tài chính được thể hiện qua các quan hệ kinh tế chủ yếu trong quá
trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị sau đây:
- Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư


Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ Nhà nước cấp phát, hỗ trợ vốn và góp vốn cổ
phần theo những nguyên tắc và phương thức nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh
và phân chia lợi nhuận. Đồng thời, mối quan hệ này cũng được thể hiện thông qua các
khoản thuế mà doanh nghiệp phải nộp vào ngân sách Nhà nước theo luật định.
- Mối quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp với thị trường tài chính
Các quan hệ này được thể hiện thông qua việc tài trợ các nhu cầu vốn của doanh
nghiệp trong thị trường tài chính, cụ thể:
Với thị trường tiền tệ, thông qua hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp nhận
được các khoản tiền vay để tài trợ cho các nhu cầu vốn ngắn hạn và ngược lại, các

doanh nghiệp phải hoàn trả vốn vay và tiền lãi trong thời hạn nhất định.
Với thị trường vốn, thông qua hệ thống các tổ chức tài chính trung gian khác,
doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ khác để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn (ví dụ:
phát hành các chứng khoán). Ngược lại, các doanh nghiệp phải hoàn trả một khoản lãi
cho các chủ thể tham gia đầu tư.
Ngoài việc huy động nguồn tài trợ vốn cho doanh nghiệp, thông qua thị trường
tài chính, các doanh nghiệp cũng có thể đầu tư vốn nhàn rỗi của mình bằng cách kí gửi
vào hệ thống ngân hàng hoặc đầu tư vào chứng khoán của các doanh nghiệp khác.
- Quan hệ kinh tế trong nội bộ các chủ thể:
Đây là mối quan hệ tài chính khá phức tạp, phản ánh quan hệ tài chính giữa các
bộ phận sản xuất kinh doanh, giữa các bộ phận quản lý, giữa các thành viên trong doanh
nghiệp, giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn.
- Mối quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các thị trường khác
Các thị trường khác như thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao động,...
Doanh nghiệp đóng vai trò là chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh phải sử
dụng vốn để mua sắm các yếu tố sản xuất (như vật tư, máy móc thiết bị, ...) chi trả công
lao động, chi trả các dịch vụ... Thông qua việc chi trả, mua sắm này, hình thành nên mối
quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp và các doanh nghiệp ở thị trường khác.
Đồng thời, thông qua các thị trường, doanh nghiệp tiêu thụ các sản phẩm của
mình, nhằm thu lại một phần lợi nhuận... hoạt động này cũng là một mặt của quan hệ tài
chính giữa doanh nghiệp trong các thị trường.
- Quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau trên Thế giới: thông qua hoạt động
mua bán xuất - nhập khẩu giữa các quốc gia với nhau, hoạt động viện trợ, tài trợ, đầu tư


ra nước ngoài, vay nợ ... cũng hình thành quan hệ tài chính - quan hệ kinh tế giữa các
quốc gia.
Quan phân tích các mối quan hệ kinh tế, ta có thể thấy được hình thức biểu hiện
bên ngoài của tài chính là sự vận động của vốn tiền tệ. Do đó, có thể xác định nội dung
kinh tế - xã hội của phạm trù tài chính là tổng thể các quan hệ kinh tế thông qua việc tạo

lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng nhu cầu của các chủ thể trong xã hội.
Như vậy, ta có khái niệm chung nhất về tài chính như sau:
Tài chính là phương thức huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực khan hiếm
(nguồn lực tài chính) nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của các chủ thể trong phát triển
kinh tế - xã hội.
1.6 CÁC CHỨC NĂNG CỦA TÀI CHÍNH
1.6.1 Chức năng phân phối

 Khái niệm: Chức năng phân phối của tài chính được thể hiện là phương thức phân bổ
nguồn tài chính theo thời gian và không gian.
Thông qua chức năng phân phối, các nguồn lực đại diện cho những bộ phận của
cải xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau để sử dụng cho những mục đích khác
nhau đảm bảo cho nhu cầu và lợi ích khác nhau của đời sống xã hội.

 Đối tượng của phân phối của tài chính là tổng thể các nguồn lực tài chính có trong xã
hội.
 Chủ thể tham gia phân phối các nguồn lực tài chính là các chủ thể có khả năng cung
ứng vốn, các chủ thể có nhu cầu vốn hoặc những chủ thể đóng vai trò quản lý.
Ví dụ: cá nhân, doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức tài chính, nhà nước...
Các chủ thể này tham gia vào việc phân phối nguồn tài chính những tư cách khác
nhau.

 Kết quả phân phối của tài chính là hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ dành cho một
mục đích nhất định.
 Đặc điểm của phân phối tài chính:
Thứ nhất, là sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, nó không đi kèm
theo sự thay đổi của hình thái giá trị.
Thứ hai, phân phối của tài chính gắn liền với việc tạo lập, sử dụng các quỹ tiền
tệ. Đây là đặc điểm chủ yếu, được coi là đặc trưng cơ bản của phân phối tài chính.
Thứ ba, phân phối của tài chính trải qua hai quá trình: phân phối lần đầu và phân

phối lại.


+ Phân phối lần đầu sản phẩm xã hội là sự phân phối được tiến hành trong lĩnh
vực sản xuất cho những chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra của cải vật chất hay
thực hiện các dịch vụ.
+ Phân phối lại là tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản, sử dụng những
quỹ tiền tệ chứa đựng những nguồn lực tài chính đã được hình thành trong phân phối
lần đầu ra phạm vi xã hội rộng hơn hoặc theo những chi tiết cụ thể hơn trong mục đích
của các quỹ tiền tệ.
1.6.2 Chức năng giám đốc

 Khái niệm: Chức năng giám đốc của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó việc kiểm
tra bằng đồng tiền được thực hiện đối với quá trình vận động của nguồn tài chính để
tạo lập các quỹ tiền tệ hay sử dụng chúng theo các mục đích đã định.
 Đối tượng của giám đốc tài chính là quá trình hình thành và sử dụng các nguồn lực tài
chính.
 Chủ thể của giám đốc tài chính là các chủ thể phân phối, hoặc chủ thể quản lý. Đó là
các tác nhân tham gia vào các hoạt động phân phối tài chính trong nền kinh tế.
Ví dụ: doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức tài chính, nhà nước...

 Quá trình giám đốc
- Giám đốc thông qua công tác kế hoạch hoá: thông qua các phương án tạo lập và
sử dụng các quỹ tiền tệ, chọn ra phương án hiệu quả và an toàn nhất.
- Giám đốc thông qua công tác kế toán: quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ
phải được ghi chép và lập báo cáo kế toán. Thông qua số liệu kế toán đáng tin cậy có
thể kiểm tra hiệu quả của việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
- Kết quả của giám đốc tài chính: từ kết quả kiểm tra việc tạo lập và sử dụng quỹ
tiền tệ, sẽ phát hiện ra những mặt được và chưa được của quá trình phân phối. Từ đó
giúp điều chỉnh, rút kinh nghiệp để thực hiện phân phối đạt hiệu quả hơn.


 Đặc điểm của giám đốc tài chính:
Thứ nhất, chức năng giám đốc của tài chính được thực hiện thông qua sự vận
động của tiền tệ thể hiện ở chức năng thước đo giá trị và phương tiện thanh toán.
Thứ hai, chức năng giám đốc của tài chính được thực hiện thông qua việc phân
tích các chỉ tiêu tài chính.
Thứ ba, chức năng giám đốc của tài chính được thực hiện một cách toàn diện,
thường xuyên, liên tục, rộng rãi, kịp thời đối với quá trình tạo lập, sử dụng các quĩ tiền
tệ. Có nghĩa là ở đâu có tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính thì ở đó có thực hiện
chức năng giám đốc của tài chính.


1.7 HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
1.7.1 Khái niệm về hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính là một tổng thể bao gồm các thị trường tài chính, các định
chế tài chính trung gian, cơ sở hạ tầng pháp lý - kỹ thuật và các tổ chức quản lý giám
sát và điều hành hệ thống để tổ chức phân bổ nguồn lực tài chính theo thời gian và
không gian một cách tiết kiệm và hiệu quả nhất.
1.7.2 Cấu trúc của hệ thống tài chính
Cấu trúc của hệ thống tài chính bao gồm:

 Thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian khác:
Đóng vai trò là bộ phận dẫn vốn, chuyển vốn từ tụ điểm này sang tụ điểm khác
hay chuyển dịch vốn từ người có khả năng cung ứng vốn sang người có nhu cầu về vốn.
Tuy nhiên, thị trường tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn thông qua hoạt động
tài chính trực tiếp. Nghĩa là, người cần vốn sẽ bán các công cụ nợ, cổ phiếu hoặc trái
phiếu ra thị trường. Người có vốn sẽ mua các công cụ này, như vậy vốn được chuyển
trực tiếp từ người có vốn sang người cần vốn. Do sự đa dạng của các tài sản tài chính và
các phương thức hoạt động mua bán trên thị trường nên trên thế giới xuất hiện nhiều
loại thị trường tài chính khác nhau: Thị trường chứng khoán New York ở Mỹ, thị trường

trao tay, thị trường tiền tệ, thị trường vốn…
Còn các tổ chức trung gian tài chính thì lại thực hiện chức năng dẫn vốn thông
qua hoạt động tài chính gián tiếp. Nghĩa là, các trung gian tài chính thực hiện huy động
vốn từ những chủ thể có khả năng cung ứng vốn, sau đó dùng vốn này để cho vay hoặc
đầu tư cho các chủ thể có nhu cầu vốn. Như vậy, vốn được chuyển giao từ người có vốn
sang người cần vốn gián tiếp thông qua trung gian tài chính. Các tổ chức tài chính trung
gian chủ yếu như các ngân hàng, các công ty tài chính…






Tài chính doanh nghiệp
Tài chính hộ gia đình, và các tổ chức xã hội
Ngân sách nhà nước
Tài chính đối ngoại

Chương 2. TÍN DỤNG VÀ LÃI SUẤT TÍN DỤNG
2.1 SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÍN DỤNG
2.1.1 Khái niệm tín dụng
Tín dụng là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay
dựa trên nguyên tắc hoàn trả.


Quá trình vận động của tín dụng:
(1) Cho vay

Người cho vay
(Người sở hữu

vốn)

Người đi vay
(2) Trả nợ

(Người sử dụng
vốn)

Quan hệ tín dụng chứa đựng 3 nội dung cơ bản sau:
- Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử
dụng. Điều đó được thể hiện thông qua việc người cho vay sẽ chuyển nhượng tiền hoặc
tài sản cho người đi vay, để người đi vay sử dụng nó. Tuy nhiên việc chuyển nhượng
này chỉ mang tính chất chuyển nhượng quyền sử dụng chứ không mang tính chất
chuyển nhượng quyền sở hữu. Có nghĩa là, sau này người đi vay vẫn phải trả lại "vốn"
cho người cho vay.
- Sự chuyển nhượng này mang tính chất tạm thời hay có thời hạn: Vốn chuyển
nhượng sẽ chỉ diễn ra trong một thời gian nhất định, ngắn hay dài tuỳ thuộc vào quy
định và thoả thuận của 2 bên. Hết thời hạn này, người đi vay phải trả lại vốn, do đó nó
mang tính chất tạm thời.
- Người đi vay phải hoàn trả đúng hạn cho người cho vay cả vốn gốc và lãi: đến
thời hạn hoàn trả vốn, người đi vay sẽ phải trả lại vốn gốc và một phần lãi (theo quy
định trước) cho người cho vay.
2.1.2 Cơ sở ra đời của tín dụng
Cơ sở ra đời: để giải quyết mâu thuẫn về vốn giữa người cần vốn và người có
vốn

2.1.3 Sự phát triển của quan hệ tín dụng trong nền kinh
tế thị trường
Tín dụng nặng lãi: Đây là quan hệ tín dụng đầu tiên và thô sơ nhất
Tín dụng nặng lãi xuất hiện và phát triển mạnh trong chế độ chiếm hữu nô lệ và

phong kiến. Trước đây, tín dụng nặng lãi được thực hiện chủ yếu bằng hàng hóa, hiện
vật. Sau này khi phát triển hơn, tín dụng nặng lãi vừa cho vay bằng hàng, vừa cho vay
bằng tiền.
Đặc điểm: lãi suất cao, do sản phẩm dư thừa dùng để cho vay thì ít mà số người
vay thì nhiều nên người cho vay thu lãi rất cao. Cũng bởi lãi vay quá cao nên các tiền
vay chỉ được sử dụng vào mục đích cấp bách, và người đi vay thường rơi vào tình trạng
phá sản  khiến hoạt động sản xuất trong nền kinh tế giảm sút. Nó góp phần làm tan rã
kinh tế tự nhiên, đưa nền kinh tế đến một bước cao hơn, làm mở rộng quan hệ hàng hoá
- tiền tệ, đưa lên nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.


Tín dụng tư bản chủ nghĩa
Những hình thức tư bản chủ nghĩa bao gồm: tín dụng thương nghiệp (tín dụng
giữa các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh, mua bán chịu hàng hóa với nhau) và tín dụng
ngân hàng (tín dụng giữa những người có tiền cho những người sản xuất, kinh doanh
vay tiền thông qua môi giới trung gian là các ngân hàng, trong đó ngân hàng vừa là
người đi vay, vừa là người cho vay). Thời kỳ này, quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa
không chỉ mang tính sản xuất mà còn là động lực thúc đẩy nền kinh tế.
Tín dụng trong nền kinh tế thị trường
2.1.4 Phân loại tín dụng
 Căn cứ vào thời hạn tín dụng, tín dụng bao gồm:
- Tín dụng ngắn hạn: Thời hạn không quá 12 tháng, thường được sử dụng để cho
vay bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp và nhu cầu thanh toán cho sinh hoạt cá
nhân.
- Tín dụng trung hạn: Thời hạn trên 12 tháng đến 60 tháng, dùng để cho vay vốn
mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công
trình quy mô nhỏ của các doanh nghiệp và cho vay xây dựng nhà ở hoặc mua sắm hàng
tiêu dùng có giá trị lớn của cá nhân.
- Tín dụng dài hạn: Thời hạn trên 60 tháng, cho vay dự án đầu tư xây dựng mới,
cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.

 Căn cứ vào đối tượng tín dụng, tín dụng bao gồm:
- Tín dụng vốn lưu động: Được cấp nhằm hình thành vốn lưu động cho các doanh
nghiệp hoặc các chủ thể kinh tế khác; (vốn lưu động là vốn để hình thành nên các tài
sản lưu động trong doanh nghiệp)
- Tín dụng vốn cố định: Được cấp nhằm hình thành vốn cố định của các doanh
nghiệp hoặc chủ thể kinh tế khác. Được thực hiện dưới hình thức cho vay trung, dài
hạn. (Vốn cố định là vốn hình thành nên tài sản cố định).
 Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn, tín dụng bao gồm:
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: Cấp phát tín dụng cho các doanh
nghiệp và các chủ thể kinh tế khác để tiến hành sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
- Tín dụng tiêu dùng: Cấp cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
 Căn cứ vào chủ thể trong quan hệ tín dụng, tín dụng bao gồm:


- Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh
với nhau, hình thành trên cơ sở mua bán chịu hàng hóa hoặc ứng trước tiền trước khi
nhận hàng.
- Tín dụng Nhà nước: Là các quan hệ tín dụng giữa Nhà nước và các chủ thể
trong và ngoài nước.
- Tín dụng Ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa một bên là Ngân hàng, các tổ
chức tín dụng và các pháp nhân, thể nhân trong nền kinh tế.
 Căn cứ vào tính chất bảo đảm tiền vay, tín dụng bao gồm:
- Tín dụng bảo đảm bằng tài sản: Là loại tín dụng được bảo đảm bằng các loại
tài sản của khách hàng, bên bảo lãnh hoặc hình thành từ vốn vay.
- Tín dụng bảo đảm không phải bằng tài sản: Là loại tín dụng được bảo đảm
dưới hình thức tín chấp, cho vay theo chỉ định của Chính phủ và hộ nông dân vay vốn
được bảo lãnh của các tổ chức đoàn thể, chính quyền địa phương.
 Căn cứ vào lãnh thổ hoạt động tín dụng, tín dụng bao gồm:
- Tín dụng nội địa: Là quan hệ tín dụng phát sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia.

- Tín dụng quốc tế: Là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các quốc gia với nhau
hoặc giữa một quốc gia với một tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế.
2.2 CÁC HÌNH THỨC TÍN DỤNG
2.2.1 Tín dụng thương mại
 Khái niệm: Tín dụng thương mại là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các
doanh nghiệp, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa hoặc ứng trước
tiền trước khi nhận hàng.
 Đặc điểm
- Đối tượng tín dụng thương mại là hàng hóa, nghĩa là vốn cho vay còn tồn tại
dưới dạng hàng hóa như nguyên liệu, vật liệu, sản phẩm dở dang, máy móc thiết bị, mà
chưa phải là tiền. Vì vậy tín dụng thương mại còn gọi là tín dụng hiện vật.
- Người đi vay và cho vay đều là các doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất và lưu thông hàng hóa (người cho vay, chủ nợ là người bán; người vay,
con nợ là người mua).
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng thương mại gắn liền với sự vận
động của quá trình tái sản xuất xã hội, vì khối lượng tín dụng thương mại lớn hay nhỏ
phụ thuộc vào tổng giá trị của khối lượng hàng hóa được đưa ra mua bán chịu.


 Công cụ lưu thông: là thương phiếu
 Ưu – nhược điểm của hình thức tín dụng thương mại
- Ưu điểm:
+ Góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa.
+ Nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm các chi phí giao dịch thông qua các tổ chức
trung gian, vì vốn được điều tiết giữa các doanh nghiệp một cách trực tiếp. Ngoài ra, các
doanh nghiệp cũng linh động vay vốn, đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, nhanh chóng,
không phụ thuộc vào các tổ chức trung gian khác.
+ Giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông dẫn đến giảm chi phí lưu thông xã
hội.
+ Tạo điều kiện mở rộng hoạt động của tín dụng ngân hàng: chiết khấu và cầm

cố thương phiếu.
- Nhược điểm:
+ Quy mô tín dụng nhỏ, bị giới hạn bởi khối lượng hàng hóa bán chịu. Người
bán không thể bán chịu vượt số lượng hàng hóa mình có, không thể thoả mãn nhu cầu
người đi vay. Mặt khác, người đi vay chỉ có thể mua chịu một phần hàng hóa hiện có.
+ Thời hạn cho vay ngắn, không thể đáp ứng nhu cầu vay dài hạn
+ Tín dụng thương mại chỉ đầu tư một chiều chứ không thể có quan hệ cho vay
ngược lại, hay cho nên không thể mở rộng đầu tư vào mọi ngành trong toàn bộ nền kinh
tế quốc dân. Như vậy phạm vi tín dụng cũng nhỏ hẹp.
2.2.2 Tín dụng Nhà nước

 Khái niệm: Tín dụng nhà nước là các quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với dân
cư và các chủ thể kinh tế khác để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
trong quản lý kinh tế - xã hội.
Trong hình thức này, Nhà nước đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là chủ thể
cho vay, trong đó Nhà nước là người đi vay là chủ yếu.
Khi đóng vai trò là người đi vay nhà nước thường phát hành công cụ tín phiếu,
trái phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư, công trái, trái phiếu chính phủ quốc tế… để bán ra
cho công chúng trong một thời hạn xác định, nhằm tăng nguồn thu ngân sách nhà nước
vào những mục đích cụ thể.
Và khi đóng vai trò người cho vay nhà nước thường sử dụng các biện pháp hỗ trợ
lãi suất đầu tư, bảo lãnh tín dụng, cho vay đầu tư... Ví dụ: Nhà nước hỗ trợ, quy định
giảm lãi suất của cho vay xây dựng cơ bản; hay nhà nước bù lỗ giá xăng dầu cho dân
cư.


 Đặc điểm:
- Phạm vi hoạt động rộng lớn, bao gồm huy động trong nước và huy động từ
nước ngoài;
- Hình thức huy động tín dụng nhà nước rất đa dạng, phong phú; có thể huy động

bằng nội tệ, ngoại tệ, bằng vàng hoặc hiện vật;
- Phương thức huy động đa dạng như phát hành các loại công trái, tín phiếu kho
bạc, ký danh hoặc vô danh;
- Tín dụng nhà nước vừa mang tính lợi ích kinh tế, vừa mang tính cưỡng chế,
chính trị, xã hội.
- Tín dụng nhà nước là loại tín dụng mang tính chất tín chấp cả về phía đi vay
cũng như cho vay.

 Ý nghĩa:
Trong điều kiện NSNN thường xuyên bội chi, việc thực hiện tín dụng nhà nước
sẽ có những tác dụng sau:
- Đáp ứng nhu cầu vốn cho NSNN để đầu tư phát triển kinh tế, thúc đẩy quá trình
tích tụ tập trung vốn, điều này được thể hiện rõ nét khi nhà nước vay vốn của dân cư,
các tổ chức...
- Tín dụng nhà nước là công cụ để nhà nước tài trợ cho các ngành kinh tế còn
yếu, các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn chậm phát triển,
cũng như thực hiện các chương trình kinh tế trọng điểm.
- Tín dụng nhà nước là công cụ tài chính quan trọng để nhà nước quản lý, điều
hành vĩ mô nền kinh tế. Ví dụ: thông qua phát hành công cụ nợ, thu hồi tiền mặt, làm
giảm lượng tiền trong lưu thông => kiềm chế lạm phát; hoặc các chính sách ưu đãi lãi
suất => kích thích sự phát triển của những lĩnh vực kinh tế mục tiêu.
- Tạo điều kiện để mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại và quan hệ
đối ngoại, góp phần làm cho nền kinh tế trong nước nhanh chóng hội nhập với nền kinh
tế thế giới và khu vực một cách có hiệu quả.
Ví dụ: thông qua hoạt động viện trợ, tài trợ, đầu tư cho nước ngoài => mở rộng
và thắt chặt thêm mối quan hệ với các quốc gia khác.
Tuy nhiên, tín dụng nhà nước có mặt hạn chế là khi chính phủ huy động vốn qua
phát hành trái phiếu có thể gây sức ép tăng lãi suất khiến cho đầu tư tư nhân giảm
xuống.
2.2.3 Tín dụng ngân hàng



 Khái niệm: Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân
hàng còn bên kia là các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế quốc dân (doanh
nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội…).
Trong hình thức này, Ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là chủ thể
cho vay.

 Đặc điểm
- Huy động vốn và cho vay được thực hiện chủ yếu dưới hình thức tiền tệ;
- Các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian trong quá trình huy động vốn
và cho vay vốn, đi vay để cho vay;
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập tương đối với
sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. Trong nhiều trường hợp vốn
tín dụng ngân hàng không tham gia vào quá trình tái sản xuất và lưu thông hàng hóa mà
chúng được sử dụng vào những mục đích phi sản xuất như: chiết khấu hoặc cầm cố các
thương phiếu khống...

 Ưu – nhược điểm của hình thức tín dụng ngân hàng
- Có khả năng cung ứng khối lượng tín dụng lớn đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay của
khách hàng. Do ngân hàng có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhau, sau đó tạo nên
khối lượng vốn lớn cho khách hàng vay.
- Thời hạn tín dụng đa dạng: tín dụng ngắn hạn, trung han, dài hạn... thời gian tín
dụng phụ thuộc vào nhu cầu và sự thoả thuận của ngân hàng và bên đi vay cũng như
bên cho vay.
- Có phạm vi hoạt động rộng, liên quan đến nhiều chủ thể (cá nhân, doanh
nghiệp, tổ chức xã hội, ...) và các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế (y tế, giáo dục,
xây dựng cơ bản, khu đô thị, tiêu dùng...)
- Tuy nhiên tín dụng ngân hàng có độ rủi ro cao - gắn liền với chính ưu điểm của
tín dụng ngân hàng do ngân hàng có thể cho vay số tiền lớn hơn nhiều so với số vốn tự

có, hoặc có sự chuyển đổi thời hạn và phạm vi tín dụng rộng.
2.3 VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG
2.3.1 Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển
Vai trò này của tín dụng thể hiện thông qua các nội dung:
- Đảm bảo quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện mở rộng sản
xuất, cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đảm bảo sự phát triển liên tục của sản xuất và
lưu thông hàng hóa.


- Đẩy nhanh quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, duy trì mối liên hệ giữa sản
xuất, lưu thông hàng hóa và tiêu dùng xã hội trong nước và ra thị trường Quốc tế
- Điều chỉnh quy mô sản xuất kinh doanh, cơ cấu lại kinh tế của các doanh
nghiệp, vùng và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn trong từng chủ thể sản xuất kinh
doanh, trong từng ngành…
- Thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ giữa các nước.
2.3.2 Tín dụng là công cụ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước
- Là phương tiện góp phần cân đối thu chi ngân sách Nhà nước, đảm bảo các
nguồn lực tài chính để thực thi các chính sách kinh tế - xã hội;
- Nhà nước sử dụng công cụ tín dụng để điều tiết sự vận động của các nguồn vốn
tín dụng nhằm thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát triển của các ngành nghề, phù hợp với
định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước;
- Điều tiết lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự cân đối tiền hàng, ổn định giá cả hàng hóa;
- Là công cụ thực thi các quan hệ hợp tác Quốc tế, nhằm thu hút các nguồn lực
tài chính để đầu tư phát triển kinh tế trong nước.
2.3.3 Tín dụng góp phần quan trọng vào việc làm giảm thấp chi phí sản xuất và
lưu thông
- Giảm chi phí lưu thông tiền tệ:
- Giảm tổn thất khi doanh nghiệp thiếu vốn liên quan đến cơ hội kinh doanh
- Giảm chi phí sản xuất, lưu thông của chính doanh nghiệp nhận vốn vay.

- Thúc đẩy các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng phải tính toán cụ thể để hoạt
động tín dụng đem lại lợi ích cao nhất và an toàn nhất.
2.3.4 Tín dụng là công cụ thực hiện chính sách xã hội và nâng cao đời sống dân cư
- Là công cụ tài trợ và nâng cao hiệu quả của các chính sách tài trợ xã hội như
chính sách xóa đói giảm nghèo... của Nhà nước;
- Cải thiện, nâng cao mức sống người dân.
2.4 CÁC CHỨC NĂNG CỦA TÍN DỤNG
2.4.1 Tập trung và phân phối lại tiền nhàn rỗi trên nguyên tắc hoàn trả
- Tập trung vốn: Thông qua các tổ chức trung gian (ngân hàng, tổ chức tín
dụng...) tín dụng tập trung được khối lượng lớn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã


hội để hình thành quỹ cho vay. Tuỳ thuộc vào thời hạn cho vay cụ thể, đối tượng cho
vay, mà hình thành nên các chính sách lãi suất cho mỗi khoản vay khác nhau.
- Phân phối lại vốn: Trên cơ sở quỹ cho vay đã có, các ngân hàng, tổ chức tín
dụng tiến hành phân phối nguồn vốn này cho các đối tượng có nhu cầu. Đây là quá trình
phân phối lại vốn tiền tệ. Quá trình này phải tuân theo các nguyên tắc của tín dụng và
chấp hành đầy đủ những quy định của pháp luật.
Cả hai nội dung trên của tín dụng đều phải thực hiện theo nguyên tắc hoàn
trả vốn gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Bởi lẽ, xét về tính chất sở hữu vốn thì
vốn đó vẫn thuộc quyền sở hữu của người cho vay. Mặt khác, nguồn vốn cho vay là
tạm thời nhàn rỗi và người đi vay chỉ tạm thời thiếu. Thực hiện nguyên tắc này mới
đảm bảo hiệu quả sử dụng và tiết kiệm vốn. Chính vì vậy, nguyên tắc hoàn trả là một
tất yếu của tín dụng.
Ý nghĩa:
- Tín dụng đã góp phần điều hòa lượng vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Từ đó làm
giảm đến mức thấp nhất vốn nhàn rỗi không có ích để đầu tư vào sản xuất kinh doanh,
thỏa mãn nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp và cá nhân.
- Quá trình tập trung và phân phối lại vốn của tín dụng đã giúp cho các doanh
nghiệp chuyển hướng sản xuất kinh doanh phù hợp với điều kiện mới trong môi trường

cạnh tranh. Do đó, chức năng này đã góp phần vào việc bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận
trong nền kinh tế quốc dân.
2.4.2 Kiểm soát các hoạt động kinh tế bằng tiền
2.5 LÃI SUẤT TÍN DỤNG
2.5.1 Khái niệm lợi tức tín dụng và lãi suất tín dụng
- Khái niệm: Lợi tức là khoản tiền mà người đi vay phải trả cho người cho vay
ngoài phần vốn gốc vay ban đầu, sau một thời gian sử dụng tiền vay. Lợi tức tín dụng
là thu nhập mà người cho vay nhận được ở người đi vay trả cho việc sử dụng tiền vay.
- Lãi suất tín dụng là tỷ lệ phần trăm giữa lợi tức tín dụng và tổng số tiền vay
trong một thời gian nhất định.
Công thức xác định:
Lãi suất tín dụng
trong kỳ
Giá trị thu được
 Phương pháp tính lãi đơn

=
=

Lợi tức thu được
Tổng số tiền cho vay
Vốn + Lợi tức

x 100%


Lãi đơn là số tiền lãi được xác định dựa trên số vốn gốc (vốn đầu tư ban đầu) với
một lãi suất nhất định
Công thức tính lãi: I = PV x i x n
 Công thức tính tổng số tiền thu được: Fn = PV + I

Trong đó:

PV: Số vốn gốc;
i: lãi suất/ kỳ;
n: số kỳ tính lãi;
I: Tổng tiền lãi;
F: Tổng vốn và lãi.

 Phương pháp tính kép
Lãi kép là số tiền lãi được xác định dựa trên cơ sở số tiền lãi của các thời kỳ
trước đó được gộp vào vốn gốc để làm căn cứ tính tiền lãi cho các thời kỳ tiếp theo.
Công thức tính tổng số tiền thu được:
FVn = PV(1 + i)n
Trong đó:

PV: Số vốn gốc.
i: lãi suất/ kỳ
n: số kỳ tính lãi
FVn: Tổng vốn và lãi

2.5.2 Phân loại lãi suất tín dụng
 Căn cứ vào tiêu thức quản lý vĩ mô: lãi suất được chia thành lãi suất sàn, lãi
suất trần, lãi suất cơ bản…
 Căn cứ vào tiêu thức nghiệp vụ tín dụng: phân chia thành lãi suất tiền gửi, lãi
suất cho vay, lãi suất chiết khấu, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất thị trường liên ngân
hàng.
- Lãi suất tiền gửi là lãi suất huy động vốn, dùng để tính lãi phải trả cho người
gửi tiền.
- Lãi suất cho vay được áp dụng để tính lãi tiền vay mà người đi vay phải trả cho
người cho vay.



Về nguyên tắc, mức lãi suất cho vay bình quân phải cao hơn mức lãi suất tiền gửi
bình quân và có sự phân biệt các khoản vay với thời hạn cho vay và mức độ rủi ro. Sự
thay đổi lãi suất cho vay có tác dụng đến quy mô cho vay và khả năng cung ứng tiền
vào lưu thông.
- Lãi suất chiết khấu là lãi suất cho vay ngắn hạn của ngân hàng thương mại đối
với khách hàng dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá chưa đến thời hạn thanh
toán.
- Lãi suất tái chiết khấu:
+ Là lãi suất cho vay ngắn hạn của NHTW đối với các ngân hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tái chiết khấu các giấy tờ có giá chưa đến thời
hạn thanh toán.
+ Lãi suất tái chiết khấu do NHTW ấn định cho từng thời kỳ, căn cứ vào mục
tiêu chính sách tiền tệ. Lãi suất này dùng để kiểm soát và điều tiết sự biến động lãi suất
trên thị trường. Đối với ngân hàng thương mại , lãi suất tái chiết khấu là lãi suất gốc để
từ đó ấn định lãi suất chiết khấu và lãi suất cho vay khác.
- Lãi suất thị trường liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho
nhau vay vốn trên thị trường liên ngân hàng. Nó được hình thành bởi quan hệ cung cầu
vốn của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác và chịu sự chi phối bởi
lãi suất tái chiết khấu.
 Căn cứ vào tiêu thức biến động của giá trị tiền tệ: phân chia thành lãi suất
danh nghĩa và lãi suất thực.
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất chưa loại trừ tỷ lệ lạm phát.
Ví dụ: Hiện nay lãi suất huy động vốn của các ngân hàng thương mại là 9%/
năm. Mức lãi suất 9%/ năm chính là lãi suất danh nghĩa. Tỷ lệ lạm phát 7%/năm.
Do tiền có giá trị theo thời gian, tiền càng để càng mất giá nên trên thực tế mức
lãi suất mà người cho vay thực được hưởng bao giờ cũng nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa.
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát
= 9% - 7% = 2%

Với những người cho vay, điều cần quan tâm nhất là lãi suất thực chứ không phải
là lãi suất danh nghĩa. Vì khi cho vay họ cần phải tính là sau một thời hạn cho vay có lãi
hay thua lỗ.

 Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất:
 Căn cứ vào loại tiền cho vay


×