Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Điều kiện để có quyền nuôi con khi ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.43 KB, 4 trang )

ĐIỀU KIỆN ĐỂ CÓ QUYỀN NUÔI CON KHI LY HÔN?
Hỏi: Tôi kết hôn năm với chồng năm 2004. Thời kỳ đầu chúng tôi chung sống hạnh phúc
và đã có một con gái sinh năm 2006. Tuy nhiên, khi tôi mang thai đứa con thứ hai được 3
tháng thì chồng tôi có những biểu hiện không bình thường, thường xuyên về muộn, thậm
chí có nhiều lần viện cớ công tác qua đêm không về nhà.
Tôi đã nhiều lần gạn hỏi, thậm chí làm căng nhưng chồng tôi không chịu nói. Cho tới một
lần tôi trực tiếp bắt gặp chồng tôi cặp kè với một cô gái khác, và anh ta thú nhận đã quan
hệ với cô gái đó hơn một năm nay, đồng thời xin tôi tha thứ. Vì nghĩ đến con còn nhỏ và
cả đứa con trong bụng, tôi đã cắn răng nhẫn nhịn bỏ qua, tuy nhiên anh ta dường như vẫn
chứng nào tật nấy, thậm chí còn công khai hơn.
Đến khi tôi có mang tháng thứ 6 thì toàn bộ tiền lương, thu nhập anh ta không hề đóng
góp vào để nuôi con và lo việc gia đình. Anh ta còn tàn nhẫn tuyên bố muốn ly hôn với
tôi và đòi nuôi đứa con lớn. Hiện tôi đang mang thai đứa con thứ hai đến tháng thứ 8. Tôi
muốn được biết trong trường hợp này nếu tôi không đồng ý ly hôn thì liệu Tòa án có giải
quyết không? Nếu tôi đồng ý ly hôn thì tôi có được quyền nuôi cả hai con không? Chồng
tôi có nghĩa vụ gì nếu tôi được quyền nuôi cả hai con? Điều kiện nào để tôi được nuôi cả
hai con?
Trả lời:
Chào bạn !
Chúng tôi xin tư vấn pháp luật như sau:
Căn cứ vào quy định của pháp luật, các vấn đề chị hỏi sẽ được giải quyết theo các trường
hợp như dưới đây:
1. Trường hợp người chồng nhất quyết đơn phương xin ly hôn mặc dù người vợ
không đồng ý
Khoản 2, Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (Luật HNGĐ) quy định:
“Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng
không có quyền yêu cầu xin ly hôn”.
Theo quy định tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HNGĐ, nếu
chồng chị vẫn kiên quyết đơn phương xin ly hôn và nộp đơn thì Tòa án sẽ trả lại đơn hoặc
giải thích cho chồng chị về việc anh chưa có quyền yêu cầu ly hôn để anh tự nguyện rút


đơn về. Sau khi được giải thích, nếu chồng chị vẫn kiên quyết không rút đơn thì Tòa án sẽ


giải quyết theo thủ tục chung và quyết định bác đơn yêu cầu xin ly hôn của chồng chị.
Trong trường hợp bị Toà án bác đơn xin ly hôn thì sau một năm, kể từ ngày bản án, quyết
định của Toà án bác đơn xin ly hôn có hiệu lực pháp luật, người đó mới lại được yêu cầu
Toà án giải quyết việc xin ly hôn.
Vì vậy, nếu chị không đồng ý ly hôn (tức là không thuận tình ly hôn) thì chồng chị sẽ
không có quyền đơn phương xin ly hôn cho đến khi đứa con thứ hai của chị được tròn
12 tháng tuổi. Do vậy cũng không phát sinh các vấn đề mà chị thắc mắc như quyền
được trực tiếp nuôi hai con và nghĩa vụ của chồng sau khi ly hôn.
2. Trường hợp người vợ đồng thuận ly hôn
Nếu chị cân nhắc và quyết định đồng ý ly hôn với chồng, đồng ý ký vào đơn xin ly hôn,
Tòa án sẽ thụ lý đơn và giải quyết cho anh chị ly hôn nếu có đủ căn theo quy định tại
Điều 89 Luật HNGĐ: Toà án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì
Toà án quyết định cho ly hôn. Khi đó sẽ phát sinh các vấn đề sau:
2.1. Thứ nhất, về quyền trực tiếp nuôi con
Điều 92 Luật HNGĐ quy định: Vợ, chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con,
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thoả thuận được thì
Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt
của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không
có thoả thuận khác.
Nếu đứa con đầu tiên của chị tính đến thời điểm xét xử chưa đầy 3 tuổi thì chị sẽ được
nuôi cháu và đứa con thứ hai sau khi sinh chị cũng sẽ được nuôi. Tất nhiên, chị cũng cần
chứng minh với Tòa án khả năng của mình về việc có thể nuôi dưỡng và chăm sóc cả hai
con như: tình hình sức khỏe, điều kiện về chỗ ở, việc làm, thu nhập hàng tháng, điều kiện
chăm sóc, giáo dục,…
2.2. Thứ hai, về việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn:

Điều 92 và 94 Luật HNGĐ quy định:
Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng
con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Người không trực tiếp nuôi con
có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.


Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được
cản trở người đó thực hiện quyền này.
Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở
hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì
người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người
đó.
2.3. Thứ ba, Về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn
Điều 56 Luật HNGĐ quy định: Khi ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa
thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Mức
cấp dưỡng cho con do cha, mẹ thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án
giải quyết.
Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học
hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được
thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà Tòa án quyết định mức
cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý. Phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ
hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không
thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng.
Như vậy, nếu chị giành được quyền trực tiếp nuôi cả hai con thì chồng chị có nghĩa
vụ cấp dưỡng cho chị để chị có thêm điều kiện nuôi con. Vì đây là nghĩa vụ của cha,
mẹ; do đó, chồng chị phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Ngoài ra chị và các bạn tham khảo bài viết dưới đây để nắm chắc và rõ thêm thông
tin:

ĐIỀU KIỆN ĐỂ GIÀNH QUYỀN NUÔI CON SAU LY HÔN?
Một trong những vấn đề mà các cặp vợ chồng thường tranh cãi nhiều nhất trong các vụ án
ly hôn là việc giành quyền nuôi con. Mặc dù pháp luật về hôn nhân và gia đình đã có
những quy định cụ thể về khía cạnh này tuy nhiên còn có khá nhiều yếu tố quyết định đến
khả năng được nuôi con của mỗi người. Vậy đó là những yếu tố nào? Và đâu là điều kiện
cần thiết để giành được quyền nuôi con sau ly hôn?
Về nguyên tắc, quyền nuôi con sau ly hôn có thể được các bên đương sự (vợ, chồng)
tự thỏa thuận với nhau và được tòa án ghi nhận trong bản án. Sau khi ly hôn, người
được quyền nuôi con có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con khi chưa thành
niên (dưới 18 tuổi) hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi nhân sự,


hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Người không trực
tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng (mức cấp dưỡng tùy theo điều kiện kinh tế hoặc theo
thỏa thuận) để người kia chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi trưởng thành.
Trong trường hợp, hai vợ chồng không thể thỏa thuận được ai sẽ nuôi dưỡng con cái
thì lúc này Tòa án sẽ có quyền phán xét, giao quyền nuôi con cho một bên vợ hoặc
chồng. Quyết định của tòa án căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt và hướng tới tương lai tốt
đẹp của con. Một số quyền lợi được xét đến như: điều kiện học tập, điều kiện chăm sóc,
nuôi dưỡng, đi lại…
Như vậy, xét một cách cơ bản thì người nào có điều kiện tốt hơn về thu nhập, tài sản,
công việc sẽ giành được quyền nuôi con. Thông thường điều đó phần lớn nghiêng về
khả năng người chồng.
Nhưng thực sự người mẹ lại giành được lợi thế về mặt tình cảm, đạo đức và phương pháp
nuôi dạy con cái.
Trong trường hợp, con cái trên 9 tuổi thì tòa sẽ hỏi ý kiến và nguyện vọng của con.
Trong trường hợp, con cái dưới 3 tuổi thì quyền nuôi con sẽ thuộc về người mẹ ngoại
trừ trường hợp người mẹ không muốn nuôi con.
Tuy nhiên, sau khi giành được quyền nuôi con, nếu phát hiện trong quá trình nuôi con,
người đó không hoàn thành trách nhiệm của mình thì người kia có quyền nộp đơn

yêu cầu thay đổi người nuôi con.
Có thể thấy rằng, người giành được quyền nuôi con là người có thể đảm bảo đủ mọi điều
kiện cho sự phát triển và tương lai của con trẻ bởi Pháp luật nhà nước Việt Nam luôn chú
trọng vào quyền lợi và tương lai của người con.



×