Tiểu luận: PHẦN TRIẾT HỌC DUY VẬT BIỆN CHỨNG
=========================================
Chủ đề: Sự tác động trở lại vật chất của ý thức
Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong việc phát huy nhân tố con người
1
Tiểu luận: PHẦN TRIẾT HỌC DUY VẬT BIỆN CHỨNG
============================================
Sự tác động trở lại vật chất của ý thức.
Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong việc phát huy nhân tố con người.
1 - Sự tác động lại vật chất của ý thức.
Kẻ thù của chủ nghĩa Mác thường xuyên tạc là chủ nghĩa Mác chỉ biết đến
vật chất, kinh tế mà coi nhẹ vai trò của ý thức, tư tưởng. Thực ra không hoàn
toàn như vậy. Chỉ có chủ nghĩa duy vật tầm thường, không biện chứng; duy vật
kinh tế mới phủ nhận hoặc coi nhẹ vai trò của các yếu tố tinh thần, ý thức mà
thôi. Chủ nghĩa duy vật cũ, do quá nhấn mạnh vai trò của vật chất nên không
thấy hết được vai trò của ý thức. Chính điều đó đã làm cho họ không thể giải
thích được các hiện tượng phức tạp của đời sống xã hội và do đó không hoàn
toàn chiến thắng được chủ nghĩa duy tâm.
Ý thức chỉ là kết quả của một quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật
chất, là thuộc tính của một thực thể vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc người.
Không thể có ý thức trước khi có con người hay ý thức nằm ngoài con người,
độc lập với con người. Mọi quan niệm về sự tồn tại của thế giới ý niệm của “tinh
thần tuyệt đối” có trước thế giới vật chất đều là sự tưởng tượng, sự phản ánh sai
lệch hiện thực khách quan. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăng nghen đã
chỉ rõ: Ý thức là tư duy của chúng ta, xem ra tựa hồ như siêu cảm giác, đều chỉ là
sản phẩm (…) của một khí quan vật chất, của một khí quan nhục thể là bộ óc
người thôi. Vật chất không phải là sản phẩm của tinh thần, nhưng tinh thần chỉ là
sản phẩm cao cấp của vật chất mà thôi. Vật chất không chỉ sinh ra ý thức, vật
chất còn quyết định nội dung ý thức. Ý thức dưới bất kỳ hoàn cảnh nào đều là sự
phản ánh hiện thực khách quan, đều nảy sinh trên những tiền đề vật chất nhất
2
định. Trong Chống Đuyrinh Ph.Ăng ghen đã khẳng định: toán học thuần tuý
cũng không thể nảy sinh ở đâu khác, ngoài những nhân tố vật chất vốn có. Người
ta không thể có khái niệm về số nếu chưa từng giơ mười đầu ngón tay tập đếm.
Người ta không thể có khái niệm về đường, về điểm, về các hình học nếu không
nhìn thấy hình ảnh của chúng trong thế giới hiện thực. Ngay cả những phát minh
khoa học vĩ đại nhất cũng đều là sự phát hiện ra những kết cấu vật chất, những
mối liên hệ giữa chúng trong thế giới vô cơ và hữu cơ. Định luật bảo toàn và
chuyển hoá năng lượng, học thuyết tế bào, học thuyết tiến hoá của Đác uyn,
thuyết tương đối hẹp của Anhxtanh… đều là sự phát hiện những cái vốn có trong
tự nhiên.
Trong khi khẳng định vai trò quyết định của của vật chất đối với ý thức,
chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng
quan trọng của ý thức đối với vật chất. Đây là điểm khác căn bản của chủ nghĩa
duy vật Mác xít với các trường phái duy vật trước Mác. Ý thức do vật chất sinh
ra và quyết định, song khi ra đời ý thức có tính độc lập tương đối nên có sự tác
động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Ngay trong Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê Ghen (lời nói
đầu) C.Mác đã viết “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thay thế được sự
phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng vật
chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập
vào quần chúng”1
Ý thức của con người có tác động tích cực, làm biến đổi hiện thực, vật
chất theo nhu cầu của mình. Quan hệ vật chất và ý thức không phải là quan hệ
một chiều mà là quan hệ tác động qua lại. Không thấy điều đó sẽ rơi vào quan
niệm duy vật tầm thường và bệnh bào thủ trì trệ.
1
Các Mác và Ẳng ghen toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994, tập 20, tr 580.
3
Nói tới vai trò của ý thức về thực chất là nói tới vai trò của con người, bởi
ý thức là ý thức của con người. Bản thân ý thức không trực tiếp thay đổi được gì
trong hiện thực cả, nhưng thông qua hoạt động của con người, ý thức có thể làm
biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí sẽ còn tạo ra “thiên nhiên
thứ hai” để phục vụ cho cuộc sống của con người. Có được điều này bởi lẽ ý
thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội. Đây cũng
là đặc tính căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức với trình độ phản ánh
tâm lý động vật. Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, đơn
lẻ, thụ động thế giới khách quan. Trái lại, đó là kết quả của quá trình phản ánh có
định hướng, có mục đích rõ rệt. Là hiện tượng xã hội, ý thức hình thành, tồn tại
và phát triển luôn gắn liền với hoạt động thực tiễn xã hội phong phú. Thế giới
khách quan không thoả mãn con người và con người quyết định biến đổi thế giới
bằng hoạt động thực tiễn đa dạng và phong phú của mình. V.I Lê nin đã viết
trong Bút ký triết học: “Thế giới không thoả mãn con người và con người quyết
định biến đổi thế giới bằng hành động của mình”2. Thông qua hoạt động thực
tiễn, con người làm biến đổi thế giới vật chất và qua đó khám phá sâu rộng đối
tượng phản ánh. Ý thức phản ánh ngày càng sâu sắc, từng bước xâm nhập các
tầng bản chất, quy luật, điều kiện đem lại hiệu quả hoạt động thực tiễn. Trên cơ
sở đó, bằng những thao tác của tư duy trừu tượng sẽ đem lại những tri thức mới
để chỉ đạo hoạt động thực tiễn chủ động cải tạo thế giới trong hiện thực. Vì vậy
muốn thực hiện được tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn. Điều đó cũng có
nghĩa là con người muốn thực hiện được các quy luật khách quan thì phải nhận
thức và vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải có ý chí và phương pháp để
tổ chức hành động. Cho nên vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt động của
con người, hình thành mục tiêu, kế hoạch, ý chí, biện pháp cho hoạt động của
con người. Ở đây ý thức, tư tưởng có thể quyết định làm cho con người đúng hay
sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định.
2
V.I Lê nin, Toàn tập, tập 29, Bản tiếng Việt, Nxb Tiến bộ , Matxcơva 1978, tr 229.
4
Vai trò tích cực của ý thức, tư tưởng không phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra
hay thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế giới khách quan và từ đó làm
cho con người hình thành mục đích, phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết
cho hoạt động của mình. Sức mạnh của ý thức con người không phải là ở chỗ
tách rời điều kiện vật chất, thoát ly hiện thực khách quan mà là biết dựa vào điều
kiện vật chất đã có, phản ánh đúng quy luật khách quan một cách chủ động, sáng
tạo với ý chí, nhiệt tình cao. Chẳng hạn quy luật năng xuất lao động tăng nên
không ngừng chỉ có thể tác động trong chủ nghĩa xã hội, khi lao động trở thành
nhu cầu, là ý thức tự giác cao độ của con người, khi con người ra sức cải tiến
công cụ lao động, nâng cao trình độ kỹ thuật, tận dụng thời gian lao động, khi có
cơ chế hợp lý về quản lý kinh tế… Nếu không có sự tích cực, chủ động, tự giác
của con người thì quy luật đó không diễn ra.
Ý thức không phản ánh nguyên vẹn thế giới bên ngoài. Sự phản ánh của ý
thức mang tính sáng tạo. Nhưng mọi sáng tạo của ý thức đều xuất phát từ những
tiền đề vật chất và tuân thủ các quy luật khách quan. Những sự sáng tạo không
xuất phát từ tiền đề vật chất và không tuân thủ các quy luật khách quan chỉ là suy
diễn, tuỳ tiện, viển vông. Con người phản ánh càng đầy đủ và chính xác thế giới
khách quan thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả. Vì vậy, phải phát huy tính năng
động, sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố con người để cải tạo, thế giới khách
quan.
Vai trò nổi bật của ý thức trong đời sống được bộc lộ ở mối quan hệ giữa
kinh tế và văn hoá, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Trong đời sống xã hội, sự
phát triển của kinh tế quy định sự phát triển của văn hoá. Trong xã hội cộng sản
nguyên thuỷ, đời sống vật chất hết sức thấp kém thì đời sống tinh thần cũng bị
giới hạn. Trong điều kiện đó chưa thể có lý luận, càng chưa có thể có các học
thuyết khoa học. Khi lực lượng sản xuất phát triển, tạo ra sự phân công giữa lao
động trí óc và chân tay, lý luận mới ra đời. Xã hội phát triển càng cao thì vai trò
5
của lý luận càng lớn, đời sống tinh thần ngày càng phong phú, đa dạng. Điều
kiện vật chất thay đổi thì đời sống tinh thần sớm muộn cũng thay đổi theo. Cho
nên ý thức không chỉ được sinh ra từ vật chất mà sự tồn tại và phát triển của nó
đều gắn liền với quá trình biến đổi của điều kiện vật chất.
Xã hội càng phát triển, vai trò của ý thức ngày càng to lớn. Trong thời đại
ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, kinh tế tri thức đã
tạo ra những sự phát triển vượt bậc về năng xuất lao động. Con người trong thế
giới hiện đại đang khai thác ngày càng nhiều những sức mạnh vật chất tiềm tàng
trong tự nhiên, trong xã hội và trong chính bản thân mình. Tất cả những việc đó
là nhờ tri thức khoa học dẫn đường, nhờ có ý chí vươn lên làm chủ xã hội, làm
chủ tự nhiên và làm chủ bản thân.
Tuy nhiên, sự tác động trở lại của ý đối với vật chất hay của ý thức xã hội
đối với tồn tại xã hội chỉ là sự tác động hoặc là tích cực hoặc là tiêu cực, hoặc là
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự vận động của vật chất hay của tồn tại xã hội. Ý thức
có thể làm suy giảm sức mạnh vật chất ngay trong bản thân con người. Ý thức
thông qua hoạt động của con người có thể cản trở quá trình biến đổi khách quan
của hoàn cảnh vật chất, có thể làm hao tổn những sức mạnh tiềm tàng.
Trong lịch sử loài người, những tư tưởng phản động dã từng là vật cản đối
với sự phát triển của lịch sử. Nhiều tư tưởng duy tâm tôn giáo đã hạn chế năng
lực thực tiễn của con người. Tư tưởng bá quyền của đế quốc chủ nghĩa đã từng
gây ra những cuộc chiến tranh tàn khốc làm hao tổn biết bao nhiêu sức người,
sức của. Việc không nhận thức đúng được vấn đề môi sinh, môi trường đã làm
cho nguồn tài thiên nhiên bị phá hoại nghiêm trọng. Đó là những tác động tiêu
cực của ý thức.
Tất nhiên không phải ý thức nào cũng có tác động tiêu cực. Ý thức có tác
động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực khách quan. Cũng có
6
những tri thức khoa học phản đúng đắn hiện thực khách quan, nhưng nếu nó
được vận dụng để phục vụ cho lợi ích của giai cấp, các lực lượng xã hội phản
động, lỗi thời cũng có tác động tiêu cực.
Ngày nay các thế lực phản động quốc tế đang vận dụng các thành tựu khoa
học để chế tạo ra những vũ khí giết người hàng loạt, những chất độc màu da
cam, tàn phá cả sức người, sức của, tàn phá môi trường sống ảnh hưởng nghiêm
trọng đến điều kiện vật chất của đời sống xã hội. Chính vì thế vai trò của tri thức
khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng. Nếu
không chú ý đầy đủ đến các yếu tố này sẽ có hại khôn lường. Như vậy, vật chất
và ý thức luôn có sự tác động qua lại với nhau. Tuyệt đối hoá bất cứ mặt nào
cũng không tránh khỏi sai lầm. Điều đó có ý nghĩa phương pháp luận hết sức to
lớn đối với hoạt động của con người.
2 - Sự vận dụng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
trong việc phát huy nhân tố con người.
Trong luận điểm về cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung tâm là
luận điểm về con người. Con người theo Hồ Chí Minh là các tầng lớp nhân dân,
nhất là nhân dân lao động, là công nông. Quan điểm về con người của Chủ tịch
Hồ Chí Minh thể hiện: Vì dân, tin ở dân, dựa vào dân; bồi dưỡng sức dân; phát
huy mọi tiềm năng trong nhân dân để mang lại hạnh phúc cho dân. Người nhấn
mạnh yếu tố lòng dân, được lòng dân là có tất cả, mất lòng dân là mất hết. Cách
mạng phải có chỗ đứng chân, trước nhỏ, sau to, rồi thành căn cứ. Chỗ đứng chân
phải vững và theo Người chỗ đứng chân vững chính là lòng dân.
Một chân lý cũng là bí quyết thành công của cách mạng Việt Nam là bồi
dưỡng và phát huy được ưu thế nhân tố con người. Có thể nói cả cuộc đời mình
Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng chăm lo việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng
con người cho kháng chiến thắng lợi và cho xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Người chăm lo bồi dưỡng con người từ tuổi mầm non vun đắp những cái
7
hay, cái đẹp của con người, biểu dương những anh hùng, chiến sỹ thi đua; nêu
gương những người chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi, những người tốt, việc tốt trong
phong trào thi đua cách mạng của quần chúng. Trong Di chúc Người viết, dặn
lại “Đầu tiên là công việc đối với con người” và: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”. Việc quan tâm và coi trọng
phát huy nhân tố con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện qua các
luận điểm sau:
Con người vừa là mục tiêu và là động lực. Có thể nói đây là một chân lý
và cũng là một vấn đề triết lý lớn, là tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Trong
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một ham
muốn tột bậc là phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và
cuối cùng là để giải phóng con người. Về chỗ dựa, lực lượng cách mạng để
“xoay trời chuyển đất” cũng không ngoài nhân dân. Đối với Hồ Chí Minh
“trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân… Trong xã hội không gì tốt đẹp vẻ vang
bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân” 3 Do đó việc phát động quần chúng nhân
dân vùng lên làm cách mạng, việc tuyên truyền lý tưởng xây dựng chủ nghĩa xã
hội cũng nhằm mục đích vì dân và dựa vào động lực của dân. Người chỉ rõ: mục
đích vì dân và động lực của chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất,
văn hoá của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy.
Nét đặc biệt ở Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhấn mạnh rằng mọi việc chẳng
phải vì nhân dân một cách thiết thực mà quan trọng hơn nữa là phải do nhân dân
một cách thực sự. Có thật sự do nhân dân thì mới vì nhân dân một cách vững
chắc, lâu dài được. Ở đây ta có thể rút ra từ luận điểm trên: một công việc, một
nhiệm vụ cụ thể hợp với lòng dân, vì dân mà là sẽ khơi dậy tính tích cực, năng
động khả năng sáng tạo của mỗi con người, biến họ thành lực lượng vật chất
3
Hồ Chí Minh, tuyển tập, tập 7, Nxb Sự thật, Hà Nội 1977, tr544
8
sẵn sàng và đủ sức để thực hiện bất cứ công việc, nhiệm vụ khó khăn như thế
nào và đó cũng là cơ sở cho tinh thần tự lực, tự cường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
đề xướng.
Sức mạnh của nhân tố con người là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố kinh
tế-xã hội, chính trị- tinh thần, vật chất-kỹ thuật...nhưng theo Hồ Chí Minh thì yếu
tố chính trị tinh thần là quyết định nhất. Về vấn đề này Lê nin đã chỉ rõ: “rốt
cuộc thắng lợi hay thất bại phụ thuộc vào trạng thái tâm lý của quần chúng
đang đổ máu trên chiến truờng”4 Theo Hồ Chí Minh: Tinh thần của một dân tộc
một khi được phát động lên thì cũng là một thứ vũ khí mạnh mẽ không kém gì
khẩu pháo tối tân. Trong báo cáo Chính trị tại Đại hội II Đảng Lao động Việt
Nam tháng 2 năm 1951chỉ rõ: “Chỉ nhìn về vật chất, chỉ nhìn vào ở hiện trạng,
chỉ thấy con mắt hẹp hòi mà xem, thì như thế thật. Vì để chống máy bay và đại
bác của địch, lúc đó ta phải dùng gậy tầm vông. Nhưng Đảng ta theo chủ nghĩa
Mác – Lênin, chúng ta không nhìn vào hiện tại, mà nhìn vào tương lai, chúng ta
tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc”. Người tự hào
về “lòng yêu nước của nhân dân ta” nó có sức mạnh “ nhấn chìm tất cả bè lũ
bán nước và cướp nước” Người tin tưởng tuyệt đối vào tinh thần và lực lượng
dân tộc và khẳng định rằng: Khéo lãnh đạo, khéo tổ chức thì lực lượng ấy sẽ
xoay trời chuyển đất, bao nhiêu thực dân phong kiến cũng sẽ bị lực lượng to lớn
ấy đánh tan.
Hồ Chủ Tịch luôn đặt yếu tố chính trị - tinh thần trên cơ sở duy vật biện
chứng, không tách rời thậm trí đem đối lập với yếu tố vật chất và kỹ thuật, yếu tố
kinh tế văn hoá xã hội. Vì rằng trong chiến tranh sức mạnh vật chất chỉ có thể
đánh bại bằng sức mạnh vật chất. Người giải thích trong báo cáo chính trị ở Đại
hội II của Đảng (2/1951) “Kháng chiến trường kỳ thì quân đội phải đủ súng đạn,
quân và dân phải đủ ăn, đủ mặc. Nước ta nghèo, kỹ thuật ta kém, những thành
4
V. I Lênin, Toàn tập, tâp Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội… tr
9
phố có chút công nghiệp đều bị giặc chiếm. Chúng ta phải dùng tinh thần hăng
hái của toàn dân để tìm cách giải quyết sự thiếu kém vật chất”. Và Người chỉ ra
giải pháp phải phát huy ưu thế chính trị- tinh thần đó “Đảng và Chính phủ bèn
nêu ra khẩu hiệu thi đua ái quốc. Thi đua mọi mặt nhưng nhằm ba điểm chính:
diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”.
Trong Quân đội Người ca ngợi tinh thần “Cảm tử” của bộ đội “Tổ quốc
quyết sinh”. Nhưng Người cũng nhắc nhở bộ đội phải ra sức luyện tập, ra sức
học văn hoá, học kỹ thụât, chiến thụât, phải đổ nhiều mồ hôi ở thao trường để
chiến trường bớt đổ máu. Người nhắc nhở cán bộ phải dạy và rèn bộ đội toàn
diện để phát huy sức mạnh tổng hợp của con người chiến sỹ. Người dạy “ Giác
ngộ chính trị thì cố nhiên rồi… nhưng phải có văn hoá-kỹ thuật để sử dụng máy
móc ngày càng tinh vi”5 và chỉ ra toàn diện “ Nếu anh em tư tưởng vững, chính
trị vững, kỹ thuật khá, thân thể khoẻ mạnh thì nhất định thắng. Trái lại nếu anh
em chính trị khá nhưng quân sự kém, hoặc chính trị quân sự đều khá nhưng thân
thể yếu đuối thì không thắng được” 6
Trong giáo dục Người chỉ ra giáo dục toàn diện Đức – Trí – Lao động Thể - Mỹ và phải chú ý các mặt: Đạo đức cách mạng: giác ngộ xã hội chủ nghĩa;
văn hoá kỹ thuật; lao động và sản xuất. Và chú ý phương châm: Học để làm việc
- Học để làm người. Và kết quả giáo dục chỉ đạt cao nhất, khi nó trở thành một
quá trình tự giáo dục, tự đào tạo, tự rèn luyện về trí tuệ, về đạo đức và cả thể lực.
Bài học về phát huy ưu thế nhân tố con người hay quan điểm tư tưởng về
chiến lược con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tư tưởng nhân văn sâu
sắc và triệt để. Vấn đề chiến lược con người, đầu tư vào con người đã trở thành
vấn đề thời đại ngày nay.
5
6
Hồ Chí Minh, Về chiến tranh nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980, tr31
Hồ Chí Minh, Về chiến tranh nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980, tr244
10
Đảng ta trong công cuộc đổi mới đã luôn thể hiện tư tưởng này của chủ
tịch Hồ Chí Minh quan các văn kiện Đại hội Đảng. Đặc biệt là tại các Đại hội
VI, VII và một loạt vấn đề của Nghị quyết Trung ương 4 đã đi sâu vào triển khai
thực hiện chiến lựoc này phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Nếu như thế giới vật chất - với những thuộc tính quy luật vốn có của nó tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người thì trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan lấy thực tế khách
quan làm căn cứ cho hoạt động của mình. Chính vì vậy Đảng ta cho rằng phát
huy nhân tố con người, phát huy vai trò năng động sáng tạo của ý thức để tác
động và cải tạo thế giới khách quan. Lê nin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, không
được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm
làm điểm xuất phát cho chiến luợc, sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý
muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy tưởng thay cho biện chứng
thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.
Trước Đại hội Đảng lần thứ VI, bên cạnh những thành tựu đạt được,
chúng ta đã phạm những sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Chúng
ta đã nóng vội muốn xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, vi phạm quy luật
khách quan. Cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ VII đã
khẳng định “Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách
quan”7 Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước trên thế giới đã chứng
minh: Nhận thức không đúng và làm sai quy luật khách quan thì không thể đi lên
chủ nghĩa xã hội được, càng làm sai quy luật thì con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội càng kéo dài ra chứ không hề gần lại. Ăng ghen nhấn mạnh: “khinh miệt
phép biện chứng thì không thể không bị trừng phạt”.
7
Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1991, tr 5.
11
Vì vậy, từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như từ kinh nghiệm
thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Đại hội VII của Đảng
đã rút ra bài học quan trọng là: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan” 8 Bài học đó có ý nghĩa nóng hổi
trong quá trình đổi mới ở nước ta.
Đại hội VIII của Đảng đã tổng kết 10 năm đổi mới, đề ra những mục tiêu,
phương pháp, nhiệm vụ cho thời kỳ mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Trong thời kỳ này phải “lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” 9, Chúng ta cần tránh
sai lầm chủ quan nóng vội trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời phải
“khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cuờng, phát huy tài trí của
người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu” 10
Do nhận thức rõ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nên Đảng Cộng sản
Việt Nam bao giờ cũng coi trọng cả yếu tố vật chất và tinh thần, cùng với việc
khai thác những sức mạnh vật chất tiềm tàng của đất nước của dân tộc, Đảng ta
chú trọng bồi dưỡng tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, giáo dục tinh thần
cách mạng cho tầng lớp nhân dân. Cùng với việc chăm lo phát triển kinh tế,
Đảng còn chú trọng đến việc xây dựng đời sống văn hoá tinh thần.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt
lên hàng đầu nhiệm vụ phát triển kinh tế. Đó là nhiệm vụ “Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp”11 Song cùng với nhiệm vụ phát triển kinh
8
Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1991, tr 5.
9
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996, tr 85.
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996, tr 107
11
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr 24.
12
tế, Đảng cũng coi trọng các nhiệm vụ phát triển giáo dục vào đào tạo, phát triển
văn hoá. Đảng xem phát triển giáo dục vào đào tạo là “một trong những động
lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá… yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” 12. Đồng thời,
Đảng cũng khẳng định “Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
vừa là mục tiêu, và là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tê – xã hội” 13. Từ đó
Đảng còn đưa ra những phương hướng cụ thể để phát triển giáo dục và đào tạo,
phát triển văn hoá trên cơ sở của sự phát triển kinh tế và cùng với sự phát triển
kinh tế. Sự kết hợp đúng đắn giữa phát triển kinh tế văn hoá, giáo dục sẽ tạo ra
sự phát triển nhanh và vững chắc của toàn xã hội.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Đại hội X của Đảng chủ trương “Huy động ngày cao mọi nguồn lực cả
trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực trong của dân vào công cuộc phát
triển đất nước”14.Muốn vậy phải “Phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”15
Trong công cuộc đổi mới xã hội ngày nay, chúng ta cần tiến hành đổi mới
đồng bộ. Trước hết là đổi mới kinh tế, đổi mới cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế
quản lý… Đổi mới kinh tế là cơ sở, tiền đề cho đổi mới chính trị, vì trong mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị thì kinh tế giữ vai trò quyết định. Song muốn
đổi mới kinh tế, trước tiên, Đảng và Nhà nước phải đổi mới quan điểm, nhận
thức. Cho nên cùng với nhiệm vụ đổi mới kinh tế phải tiến hành đổi mới chính
12
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr 108 – 109.
13
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr 114.
14
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr 162
15
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr 368
13
trị. Cụ thể là đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới bộ máy, đặc biệt là đổi mới con
người… Đổi mới chính trị sẽ tạo điều kiện tiền đề thuận lợi cho đổi mới kinh tế.
Cứ như vậy đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị gắn bó hữu cơ với nhau trong
sự nghiệp đổi mới đất nước.
Việc phát huy nhân tố con người trong nhận thức và cải tạo hiện thực
khách quan, cần lưu ý: Con người không thể áp đặt cho sự vật những cái mà vốn
nó không có hoặc chưa thể có, đòi hỏi phải chống chủ quan duy ý chí dưới mọi
hình thức, từ chủ nghĩa duy tâm chủ quan đến những biểu hiện của bệnh chủ
quan duy ý chí, chủ quan nóng vội. Chủ quan, duy ý chí là một căn bệnh khá phổ
biến ở nước ta và ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây, gây tác hại nghiêm
trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan một cách sáng tạo, sáng tạo trên cơ sở của sự phản ánh. Vì vậy,
nếu cường độ tính sáng tạo của ý thức sẽ rơi vào bệnh chủ quan, duy chí. Bệnh
chủ quan, duy ý chí là khuynh hướng tuyệt đối hoá vai trò của nhân tố chủ quan,
của ý chí, xa rời hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt
tình thay cho sự yếu kém về khoa học. Sai lầm của bệnh chủ quan duy ý chí là
lối suy nghĩ và hành động giản đơn. Nó biểu hiện trong khi định ra chủ trương và
chính sách xa rời hiện thực khách quan. Bệnh chủ quan, duy ý chí có nguồn gốc
từ nhận thức yếu kém về tri thức khoa học, tri thức lý luận, không đáp ứng được
đòi hỏi của thực tiễn. Bệnh chủ quan, duy ý chí còn có nguồn gốc lịch sử, xã hội,
giai cấp, tâm lý của người sản xuất nhỏ chi phối. Cơ chế quan liêu, bao cấp cũng
tạo điều kiện cho sự ra đời của bệnh chủ quan, duy ý chí. Trong tác phẩm Sửa
đổi lề lối làm việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cán bộ đảng viên ta:
“không biết nhận rõ, điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý nghĩ mình như thế nào,
làm thế ấy, kết quả thường thất bại”16 Để khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí
phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp. Trước hết phải đổi mới tư duy lý luận,
nâng cao năng lực trí tuệ trình độ lý luận của Đảng. Trong hoạt động thực tiễn
16
Hồ Chí Minh, Sửa đổi lề lối làm việc, Nxb Sự thật, Hà nội 1987, tr 26.
14
một mặt phải luôn phát huy khả năng sáng tạo nhưng cũng luôn phải tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan. Phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, chống bảo thủ, trì
trệ, quan liêu.
Trong bất xã hội nào, việc giáo dục ý chí vươn lên cho con người, việc
xây dựng một đời sống tinh thần lành mạnh, đặc biệt là việc phát huy tính năng
động sáng tạo của ý thức là hết sức quan trọng. Nếu thiếu những yếu tố tinh thần
này con người không thể hoạt động có hiệu quả.
Chống chủ nghĩa khách quan, định mệnh, thái độ trông chờ, ỷ lại điều kiện
khách quan. Đại hội VI của Đảng trong khi phán bệnh chủ quan duy ý chí, cũng
phê phán hiện tượng “bảo thủ, trì trệ” vin vào hoàn cảnh, điều kiện khách quan
để lảng trách trách nhiệm. thiếu tích cực, nhạy bén với sự nghiệp đổi mới.
3 - Phát huy nhân tố con người trong lĩnh vực quân sự
Trong lĩnh vực quân sự việc phát huy nhân tố con người là vô cùng quan
trọng, đó là phát huy được khả năng tích cực, sáng tạo trong mọi nhiệm vụ của
người chỉ huy, của bộ đội. Nhất là trong điều kiện quân đội ta hiện nay, khi việc
xây dựng quân đội còn nhiều khó khăn về vật chất, phương tiện đảm bảo. Tuy
nhiên, cùng với việc phát huy tính năng động sáng tạo, không có nghĩa là coi nhẹ
các yếu tố về vũ khí, kỹ thuật, điều kiện đảm bảo đời sống. Chính vì thế bên
cạnh việc giáo dục tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, quán triệt sâu sắc
các quan điểm, đường lối quân sự quốc phòng của đảng, nhiệm vụ của đơn vị,
của bản thân… để xây dựng họ có niềm tin, lý tưởng cao đẹp, ý thức tự giác kỷ
luật nghiêm minh, sắc sảo và nhạy bén về chính trị. Thì đồng thời cũng luôn
quan tâm đảm bảo tốt điều kiện học tập, rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến
đấu, phải quan tâm rèn luyện về thể lực, thành thục về kỹ thuật, chiến thuật, sử
dụng thành thạo các loại vũ khí, đánh giỏi trong mọi tình huống, mọi đối tượng,
chuyên môn nghiệp vụ thành thục. Có như vậy thì việc phát huy vai trò tích cực,
15
sáng tạo của ý thức mới đem lại sức mạnh vật chất to lớn, mới có khả năng hoàn
thành các nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên trong lĩnh vực quân sự, nhất là với những người chỉ huy cần
triệt để đề phòng bệnh chủ quan khinh địch trong chiến đấu. Lê nin đã viết
“Điều nguy hiểm nhất trong chiến tranh là đánh giá thấp kẻ thù và tự ru ngủ với
tư tưởng cho rằng chúng ta là những kẻ mạnh hơn. Đó là nguy cơ to nhất, đó là
điều có thể dẫn tới thất bại”17 Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn không
được chủ quan khinh địch. Tính năng động sáng tạo chủ quan của người chỉ huy
là phải biết vận dụng những điều kiện khách quan, nắm chắc những nhân tố
khách quan. Từ đó vận dụng khéo léo những quy luật khách quan của chiến
tranh và đấu tranh vũ trang, những nguyên tắc nghệ thuật quân sự cùng với tri
thức và kinh nghiệm của mình để hạ quyết tâm một cách chính xác.
Trong huấn luyện và quản lý đơn vị việc quản lý bằng kỷ luật, điều lệnh,
điều lệ là tất yếu và cần thiết vì quân đội là một tổ chức chặt chẽ, muôn người
như một, nó buộc mọi thành viên đều phải chấp hành. Nhưng nó sẽ kém hiệu quả
nếu mỗi quân nhân chưa được giác ngộ, chưa trở thành tự giác. Phải xây dựng
được quan hệ cán binh, tình đồng đội, truyền thống tốt đẹp của đơn vị, quan hệ
mật thiết với nhân dân… Đặc biệt là người chỉ huy lãnh đạo phải thực sự gương
mẫu được quần chúng tín nhiệm. Ở đây, cái kích thích hành động không chỉ là
mệnh lệnh mà còn là sự giác ngộ cách mạng, lòng tự trọng, là sự tin cậy lẫn
nhau; lòng tự hào về tập thể mình, niềm tin vào lãnh đạo, chỉ huy. Mặt khác để
quản lý tốt đơn vị, người chỉ huy phải chăm lo đến đời sống, lợi ích kinh tế, của
cán bộ, chiến sỹ thuộc quyền. Về điều này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Từ
tiểu đội trưởng trở lên, từ tổng tư lệnh trở xuống phải săn sóc đời sống vật chất,
tinh thần của đội viên; phải xem đội viên ăn uống như thế nào; phải hiểu nguyện
17
Lê nin, Toàn tập, tập 31, bản tiếng Việt, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1969, tr221
16
vọng thắc mắc của đội viên. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu rét,
bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt”18
Như vậy, từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về sự tác động trở lại
vật chất của ý thức trong mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo việc phát
huy nhân tố con người trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam. Từ đó đã
khơi dậy được tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo, vượt khó khăn, gian khổ
của mỗi người dân và đây chính là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Ngày nay vấn đề phát huy nhân tố con người ngày
càng có nghĩa sâu sắc, nhất là trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, đồng thời việc phát huy nhân tố con người còn
mang ý nghĩa thời đại to lớn.
--------------------------------------------------------------------------------------
Phần bô sung ngoài nôi dung Tiểu luận
Tên sách: KINH TẾ TRI THỨC XU THẾ MỚI CỦA XÃ HỘI THẾ KỶ XXI
Tác giả: GS.TS Ngô Quý Tùng – Phó Chủ tịch Hiệp hội các khu công
nghiệp kỹ thuật cao trên thế giới lần thứ VI, Đại biểu đại hội nhân dân toàn quốc
Trung quốc biên soạn. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2000.
Lời kết trong cuốn sách trang 419
Kinh tế tri thức là kinh tế phát triển trong xã hội tri thức hoá, chứa đầy lý
tính; kinh tế tri thức là kinh tế phát triển trong xã hội sáng tạo, khuyến khích
sáng tạo, đầy tính sáng tạo; kinh tế tri thức là kinh tế phát triển trong không khí
xã hội không có sự giả dối; kinh tế tri thức là kinh tế phát triển trong xã hội công
18
Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1962, tr103.
17
minh…. Chủ tịch Giang Trạch Dân chỉ rõ “ Sáng tạo là linh hồn của sự tiến bộ,
của dân tộc, là nguồn lực vô tận để đất nứơc phát triển thịnh vượng”. Các nhà
cách mạng của giai cấp vô sản lớp trước nhất quán đề xướng lòng trung thực cho
con người; lý tưởng của chúng ta là xoá đi sự chênh lệnh giữa giàu, nghèo, bảo
đảm công bằng xã hội. Chỉ cần chuyển hoá những tư tưởng tiên tiến này thành
hành động thực tế của toàn dân tộc, dân tộc chúng ta sẽ không để mất cơ hội lịch
sử kinh tế tri thức, một lần nữa có cống hiến mang tính thời đại cho sự tiến bộ xã
hội.
Ngày 19 tháng 5 năm 2000, tại Lễ kỷ niệm 110 năm ngày sinh Chủ tịch
Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2000), Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã nêu rõ
“ Trong thời đại cách mạng thông tin hiện nay, chúng ta không có sự lựa chọn
nào khác là phải tiếp cận nhanh chóng với tri thức và công nghệ mới nhất của
thời đại để hiện đại hoá nền kinh tế, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
từng hướng, từng bước hình thành nền kinh tế tri thức, có năng lực cạnh tranh và
giá trị tăng ngày càng cao”. Tr 9
18