Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT QUAN điểm CHỦ NGHĨA mác lê NIN về QUY LUẬT mâu THUẪN, ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN của QUY LUẬT đối với QUÁ TRÌNH hội NHẬP QUỐC tế ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.67 KB, 29 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ LÝ LUẬN VẬN DỤNG

NỘI DUNG
QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ QUY LUẬT MÂU
THUẪN. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT ĐỐI
VỚI QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
………………………………………………………………………................


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT MÂU THUẪN
1
1.1
1.2

2
3
3.1
3.2
3.3
3.4
II

1
2
3

Trang


3
5

Một số quan niệm về mâu thuẫn
Quan niệm trước Mác về mâu thuẫn
Quan niệm về mâu thuẫn trong triết học Mác - Lênin
Nội dung cơ bản của quy luật
Phân loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY

5
5
7
8
11
11
12
12
13

LUẬT MÂU THUẪN ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH

16

HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự

chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển
Vấn đề chống “diễn biến hòa bình” trong quá trình hội
nhập quốc tế
Vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập

quốc tế
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

21
23
26
28
29


MỞ ĐẦU

Trong mỗi sự vật hiện tượng hay quá trình nào đó luôn chứa đựng
những mặt, những khuynh hướng đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn
trong bản thân sự vật hiện tượng; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi
của cái cũ và nhường chỗ cho sự ra đời của cái mới.
Bàn về quy luật mâu thuẫn (quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập), V.I.Lênin khẳng định: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện
chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm
được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự
giải thích và một sự phát triển thêm” 1. Như vậy, quy luật mâu thuẫn là một
trong ba quy luật quan trọng nhất, là “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật.
Vì nó vạch ra nguồn gốc động lực của sự vận động, phát triển của thế giới

khách quan và là chìa khóa để tìm hiểu mọi sự vận động và phát triển, cơ sở
giúp chúng ta nắm vững thực chất của tất cả các quy luật và phạm trù của
phép biện chứng duy vật. Nắm được linh hồn của quy luật mâu thuẫn sẽ giúp
ta hình thành thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn, tư duy khoa học để
khám phá bản chất của sự vật và giải quyết đúng đắn, tận gốc các mâu thuẫn
nảy sinh trong sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
Chặng đường gần một thế kỷ lãnh đạo, đưa cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, quy luật mâu thuẫn nói riêng vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam để giải quyết các mâu thuẫn đặt ra trong quá trình đi lên của
đất nước, đặc biệt trong quá trình thời kỳ đổi mới. Với đường lối đổi mới
được Đảng khởi xướng từ năm 1986 đến nay, đã từng bước chuyển nền kinh
tế Việt Nam từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập sâu vào quốc tế, từng bước khẳng định vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đó là một đường lối đúng đắn, sáng tạo
phù hợp với xu thế phát triển. Tuy vậy, trong quá trình đổi mới, chúng ta đã
1

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1981, t.29, tr.240.


gặp không ít khó khăn. Nguyên nhân là do trong xã hội vẫn còn tồn tại những
quan niệm không đúng về mâu thuẫn, về các mặt đối lập, coi đó là hiện tượng
bất bình thường cần phải loại trừ; hoặc có những sai lầm cực đoan, không chú
trọng tới bản chất trái ngược của các mặt đối lập và kết hợp không đúng
nguyên tắc giữa chúng, dẫn tới những nguy cơ của cách mạng Việt Nam:
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới, do điểm xuất phát thấp. Nguy cơ sai lầm về đường lối, đi chệch định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ về sự suy thoái, biến chất trong đội ngũ cán
bộ, đảng viên và tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Nguy cơ "diễn biến

hòa bình" của các thế lực thù địch.
Trong bốn nguy cơ trên, có hai nguy cơ bên trong rất nguy hại và nó
chính là chỗ dựa để cho những nguy cơ từ bên ngoài tấn công vào Đảng. Vì
vậy, việc giải quyết mâu thuẫn trở nên khó khăn, làm ảnh hưởng đến việc kết
hợp các mặt đối lập một cách đúng đắn “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại” nhằm đem lại những lợi ích thiết thực trong sự nghiệp đổi mới
của nước ta hiện nay nói chung, quá trình hội nhập quốc tế nói riêng là yêu
cầu bức thiết đặt ra, đòi hỏi Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt
quan niệm biện chứng về mâu thuẫn, trên cơ sở quy luật mâu thuẫn để giải
quyết các mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài trong quá trình hội
nhập quốc tế: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh trong quá trình hội nhập quốc tế của
nước ta. Từ thực tế đặt ra và để tiếp cận, tìm hiểu quy luật mâu thuẫn của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và ý nghĩa của nó đối với quá trình hội nhập quốc tế
của Đảng ta, tác giả chọn: “Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quy
luật mâu thuẫn. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật đối với quá trình
hội nhập ở Việt Nam” làm bài tiểu luận.


NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT MÂU THUẪN
1. Một số quan niệm về mâu thuẫn: Mâu thuẫn là phạm trù của phép
biện chứng, biểu hiện nguồn gốc bên trong của mọi sự vận động, gốc rễ của
sự sống, nguyên lý của sự phát triển.
1.1.Quan niệm trước Mác về mâu thuẫn
Mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Vấn đề
này sớm được các nhà triết học trước Mác quan tâm nghiên cứu và có những

phỏng đoán thiên tài về sự tương tác giữa các mặt đối lập, xem nó là nguyên
nhân của sự hình thành, vận động và biến đổi của vũ trụ, vạn vật.
Thuyết Âm Dương - Ngũ Hành là một trong chín trường phái triết học
của Trung Quốc thời cổ đại. Thuyết Âm Dương - Ngũ Hành là thuyết thể hiện
quan niệm duy vật chất phác về tự nhiên và ở đó cũng thể hiện tư tưởng biện
chứng sơ khai về tự nhiên, con người và xã hội của người Trung Quốc thời cổ
đại. Nó giải thích nguồn gốc của quá trình biến hóa của vạn vật. Các triết gia
trong trường phái này cho rằng thế giới các hiện tượng và sự vật vẫn chứa
đựng hai yếu tố vừa đối lập nhau, vừa thống nhất với nhau, vừa bao hàm
tương tác lẫn nhau. Âm - Dương là hai thế lực đối chọi nhau nhưng lại thống
nhất với nhau trong vạn vật, là khởi nguyên của mọi sinh thành biến hóa. Âm
- Dương không phải là hủy thể của nhau mà là điều kiện tồn tại của nhau,
động lực của mọi vận động, phát triển.
Vấn đề mâu thuẫn trong tư tưởng của phương Đông cổ đại càng được
làm rõ trong triết học Ấn Độ cổ đại. Các hệ thống triết học Ấn Độ đã thể hiện
tư tưởng biện chứng khi thừa nhận thế giới, vũ trụ là sự thống nhất mâu thuẫn,
thống nhất của các mặt đối lập. Họ cho rằng thế giới vũ trụ không phải là cái
gì đó thuần nhất, đơn giản mà là bao trùm trong đó hai mặt đối lập vừa bất
biến vừa biến đổi, vừa đứng im vừa vận động, vừa trong trạng thái thăng
bằng, ổn định, vừa trong trạng thái không cân bằng, không ổn định. Thế giới


sự vật và hiện tượng luôn luôn biến đổi theo chu trình sinh - trụ - dị - diệt
(hoặc thành - trụ - hoại - không) theo luật nhân quả. Phật giáo khẳng định tồn
tại là vô thường, luôn luôn biến đổi. Các nhà triết học Ấn Độ đã không chú
trọng đến quá trình giải quyết mâu thuẫn để tạo ra động lực phát triển cả về
mặt lý luận cũng như vận dụng vào thực tiễn.
Hêraclit là nhà biện chứng lỗi lạc nổi tiếng ở Hy Lạp cổ đại - người
được Lênin coi là nhà sáng lập ra phép biện chứng đã cho rằng: mọi sự vật
đều là sự thống nhất của các mặt đối lập, mọi cái đồng nhất luôn luôn tồn tại

trong sự khác biệt đó, cái hài hòa của những cái căng thẳng, đối lập: đối lập
giữa thiện và ác, giữa trẻ và già, sống và chết… Ông coi đó là sự “tương
phản”, “tương hành” trong vũ trụ. Hêraclit khẳng định đấu tranh là nguồn gốc
của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ và đó là một mặt trong “sự sống” của
mọi sự vật đang biến đổi. Trong các công trình của mình, tư tưởng của ông
phản ánh về mâu thuẫn, về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập,
đó là sự thống nhất giữa linh hồn và thể xác, giữa tập hợp và phân tán trong
quá trình vận động của nguyên tử. Ông diễn tả sự vận động của thế giới vật
chất như là một quá trình vĩnh viễn, vô tận từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, vận động là thuộc tính của các nguyên tử, “các nguyên tử bản chất
là bất động, đã vận động được là nhờ va chạm”.
Trong triết học cổ điển Đức, phép biện chứng đã trở thành một lý luận
được xây dựng một cách có hệ thống. Hêghen là đại biểu xuất sắc nhất của
nền triết học cổ điển Đức. Theo nhận xét của Ănghen: “Hêghen không chỉ
là một thiên tài sáng tạo, mà còn là nhà triết học có tri thức bách khoa,
nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại”. Cống hiến lớn nhất của
Hêghen là phép biện chứng, mặc dù đó là phép biện chứng duy tâm. Hêghen
đã xây dựng lý luận mâu thuẫn và đưa ra cách thức giải quyết mâu thuẫn.
Trong “học thuyết về bản chất” của “khoa học logic”, Hêghen đã triển khai
mâu thuẫn: đồng nhất - khác nhau - đối lập - căn cứ và coi đó là quy luật bên


trong của bản chất. Hêghen nhấn mạnh, bất kỳ sự đồng nhất nào cũng bao
hàm sự khác biệt và mâu thuẫn. Ông coi mâu thuẫn là nguồn gốc của vận
động, là nguyên lý của phát triển. Tuy nhiên, mâu thuẫn trong hệ thống triết
học của ông không phải là mâu thuẫn của hiện thực khách quan mà là của tinh
thần thế giới, ý niệm tuyệt đối. Hơn nữa, do bị chi phối bởi quan niệm dân tộc
và lợi ích giai cấp mà ông đại diện nên ông có quan điểm thỏa hiệp khi giải
quyết mâu thuẫn. Vì thế, dẫn đến kết cục hệ thống triết học của ông mâu
thuẫn với phép biện chứng của ông.

Cantơ là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng
phương Tây trước Mác. Cantơ với học thuyết về mâu thuẫn cũng đã góp phần
quan trọng trong sự phát triển phép biện chứng với tư cách là logic và phương
pháp luận. Cantơ có đóng góp cho phép biện chứng ở phương diện, ông xem
mâu thuẫn là thuộc về bản chất, tính quy định của tư duy. Song, ông cũng bộc
lộ những hạn chế: mới chỉ thừa nhận mâu thuẫn trong tư tưởng, trong lý tính
con người, chưa nhìn thấy được mâu thuẫn có trong toàn bộ đời sống hiện
thực khách quan. Cantơ cũng chưa đề xuất các giải pháp để giải quyết mâu
thuẫn nên chưa thấy được động lực của việc nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn.
Triết học cổ điển Đức dù chỉ trải qua một giai đoạn lịch sử tương đối
ngắn nhưng nó đã tạo ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học, là cơ
sở tiền đề để các nhà triết học sau này kế thừa những tư tưởng biện chứng,
nâng lên ở trình độ mới của chủ nghĩa duy vật hiện đại.
1.2.Quan niệm về mâu thuẫn trong triết học Mác - Lênin
Triết học Mác - Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX trước
yêu cầu đòi hỏi bức thiết của thực tiễn chính trị - xã hội và là quá trình phát
triển hợp quy luật của triết học và của nhận thức khoa học.
Khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện
chứng trong lịch sử triết học; bằng việc tổng kết từ thực tế lịch sử loài người,
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã phát triển học thuyết về mâu thuẫn


lên một tầm cao mới. Theo đó, mâu thuẫn là phạm trù dùng để chỉ các mặt
đối lập có mối quan hệ biện chứng với nhau, cùng tồn tại trong một sự vật,
hiện tượng. Mâu thuẫn trong phép biện chứng, trước hết được cấu thành bởi
các mặt đối lập. Đó là những mặt (những thuộc tính, sự vật, hệ thống sự
vật...) có những đặc điểm, những thuộc tính có khuynh hướng biến đổi trái
ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nhưng sự đối lập giữa các mặt không phải là nội hàm chính của khái niệm
mâu thuẫn biện chứng, cũng như mâu thuẫn không phải được tạo dựng từ

những sự đối lập bất kỳ. Trái lại, chỉ những mặt đối lập nằm trong sự liên hệ,
sự tác động qua lại với nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Đặc trưng đó cho thấy
sự khác biệt rất cơ bản giữa quan điểm duy vật biện chứng và quan điểm duy
tâm, siêu hình về mâu thuẫn cũng như sự khác biệt về chất giữa mâu thuẫn
biện chứng với các loại mâu thuẫn khác.
2. Nội dung cơ bản của quy luật
Việc nghiên cứu thực chất mối quan hệ biện chứng giữa các mặt đối lập
và vai trò của chúng đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật, hiện tượng cho
phép chúng ta vạch ra quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
(hay còn gọi tắt là quy luật mâu thuẫn).
Hai mặt đối lập tuy có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, nhưng
chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng tồn tại trong sự thống nhất của
chúng. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi
có nhau của mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy tồn tại của mặt kia
làm tiền đề. Nói cách khác, cũng có thể xem sự thống nhất của hai mặt đối lập
là tính không thể tách rời nhau của hai mặt đó. C.Mác giải thích: “Giai cấp vô
sản và sự giàu có là hai mặt đối lập. Với tính cách như vậy, chúng hợp thành
một chỉnh thống nhất nào đó... Là chế độ tư hữu, là sự giàu có, chế độ tư hữu
không thể không duy trì sự tồn tại của bản thân nó, do đó cũng không thể
không duy trì sự tồn tại của mặt đối lập của nó là giai cấp vô sản... Trái lại,


với tư cách là giai cấp vô sản, giai cấp vô sản buộc phải thủ tiêu bản thân
mình, do đó tiêu diệt cả cái mặt đối lập của nó - tức là chế độ tư hữu - đang
chi phối nó và làm cho nó thành giai cấp vô sản”2.
Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, “đồng
nhất” với nhau. Đó là một biểu hiện khác về sự thống nhất của các mặt đối
lập. Do có sự “đồng nhất” này mà trong sự triển khai của mâu thuẫn, đến một
lúc nào đó, mặt đối lập này có thể chuyển hoá sang mặt đối lập kia (khi xét về
một vài đặc trưng nào đó). Ví dụ: sự phát triển của kinh tế trong chủ nghĩa tư

bản phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, nhưng lại tạo ra tiền đề cho sự thay
thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang
nhau của chúng. Tồn tại trong sự gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng lại có khuynh
hướng vận động trái ngược nhau, do đó, đến một lúc nào đó trong quá trình phát
triển của mâu thuẫn, tương quan giữa các mặt đối lập là cân bằng và chúng có
vai trò, tác dụng ngang nhau đối với sự vật. Trong thực tế, tình hình này thường
được biểu hiện ra ở điều kiện tương đối “hoà bình”, trước khi xảy ra những thay
đổi có tính chất bước ngoặt trong tiến trình phát triển của sự vật.
Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn tác động qua lại
với nhau, “đấu tranh” với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động
qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa chúng.
Như vậy, trong một mâu thuẫn, “đấu tranh” giữa các mặt đối lập là mặt
đối lập với sự “thống nhất” của chúng. Sự thống nhất duy trì tính nương tựa
vào nhau, đồng nhất và tác dụng ngang nhau, còn đấu tranh lại phá vỡ hiện
trạng ấy bằng việc làm gia tăng sự khác nhau và đối lập giữa các mặt của
mâu thuẫn. Do vậy, các mặt đối lập đấu tranh và chuyển hoá lẫn nhau là hết
sức phong phú và đa dạng. Tính phong phú và đa dạng này, một mặt là do
tính chất của mâu thuẫn, mặt khác là do tính chất của điều kiện lịch sử trong
2

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t.2, tr.54.


đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định. Song, bất cứ cuộc
đấu tranh nào cũng hướng tới sự phá vỡ sự thống nhất cũ để thiết lập sự thống
nhất mới cao hơn và bất cứ sự chuyển hoá nào cũng không phải là sự chuyển
đổi vị trí giản đơn giữa hai mặt đối lập.
Với tính cách là hai trạng thái đối lập nhau trong biện chứng của mâu
thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của hai mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với

nhau. Sự thống nhất duy trì sự đứng im, sự ổn định tạm thời của mâu thuẫn,
do đó, nó là cơ sở, tiền đề cho đấu tranh, chuyển hoá của các mặt đối lập. Sự
đấu tranh trực tiếp quy định sự vận động, sự phát triển không ngừng của mâu
thuẫn, do đó, nó vừa là thực chất, vừa là nội lực quy định sự thay thế lẫn
nhau của các trình độ thống nhất. Điều đó cũng có nghĩa, sự thống nhất của
các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối.
Khi xem xét các mối quan hệ như vậy, V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất (...)
của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu
tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát
triển, sự vận động là tuyệt đối”3.
Như vậy, trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn xét về thực chất, là
sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Nhưng không phải sự thống
nhất thuần tuý mà là sự thống nhất gắn bó hữu cơ với đấu tranh; cũng không
phải là sự đấu tranh chung chung mà là sự đấu tranh gắn bó hữu cơ với sự
thống nhất mới là nguyên nhân chân chính, cuối cùng cho sự vận động, biến
đổi của mọi mâu thuẫn nói chung, do đó, cũng là nguyên nhân chân chính cuối
cùng cho sự vận động, biến đổi của từng sự vật, hiện tượng nói riêng. C.Mác
viết: “Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng
nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung
hợp giữa hai mặt ấy thành một phạm trù mới”4.
3
4

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, t.29, tr. 379-380.
C.Mác và Ph. ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t.4, tr. 191


Sự vận động, phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định
và tính thay đổi. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định
những tính chất ấy của sự vật. Khi coi “thống nhất” như là một trường hợp

đặc biệt của “đấu tranh” thì hoàn toàn có thể định nghĩa: “Sự phát triển là một
cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”5.
Qua một số vấn đề nêu trên, có thể rút ra thực chất quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập như sau: Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng
những mặt đối lập cấu thành những mâu thuẫn nội tại; sự thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động, phát
triển.
3. Phân loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy hết sức đa
dạng. Tính đa dạng của các mâu thuẫn được quy định một cách khách quan
bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện mà trong đó sự tác động qua
lại giữa các mặt đối lập được triển khai, bởi trình độ tổ chức của hệ thống (sự
vật) mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
3.1. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh
hướng đối lập của cùng một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật
là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác. Ví
dụ: sự tác động qua lại giữa đồng hoá và dị hoá của một sinh vật là mâu thuẫn
bên trong, sự tác động qua lại giữa cơ thể và môi trường - khi xét cơ thể là
một sự vật - là mâu thuẫn bên ngoài. Song, việc phân chia mâu thuẫn thành
mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là tương đối. Do vậy, để xác
định một mâu thuẫn nào đó là mâu thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài,
trước hết cần xác định phạm vi sự vật cần xem xét.

5

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, t.29, tr. 379


Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận

động, phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên
ngoài luôn vận động trong sự tác động lẫn nhau. Mỗi bước giải quyết mâu thuẫn
này lại tạo điều kiện để giải quyết mâu thuẫn kia. Vì thế, phải đồng thời giải
quyết cả mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Coi trọng giải quyết mâu
thuẫn bên trong và chú ý thoả đáng giải quyết mâu thuẫn bên ngoài. Trong thực
tế, ở những điều kiện cụ thể, đôi khi việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài lại có
vai trò đặc biệt với sự tồn tại và phát triển của sự vật. Giải quyết mối quan hệ
hữu cơ mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài trong sự nghiệp cách mạng,
Văn kiện Đại hội XI của Đảng khẳng: "Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là
yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố
quan trọng để phát triển nhanh, bên vững và xây dựng nên kinh tế độc lập, tự
chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của
đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả"6.
3.2. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định
sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình
tồn tại của sự vật.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào
đó của sự vật, nó quy định sự vận động, phát triển của một mặt nào đó của sự vật.
3.3. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát
triển nhất định của sự vật, giải quyết nó sẽ tạo điều kiện để giải quyết mâu
thuẫn khác ở cùng giai đoạn (những mâu thuẫn thứ yếu). Sự phát triển hơn
nữa của sự vật, sự chuyển hoá của nó sang giai đoạn tồn tại khác phụ thuộc
vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu mới nảy sinh.

6

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr.102.



Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó, mâu thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức biểu hiện nổi bật của
mâu thuẫn cơ bản hay là kết quả vận động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản
ở một giai đoạn nhất định; việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện
giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ bản.
3.4. Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập
đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Ví dụ:
mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa địa chủ và nông
dân, giữa tư sản và vô sản.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng,
khuynh hướng xã hội có đối lập về lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời. Thí
dụ: mâu thuẫn giữa các tầng lớp nông dân, giữa các bộ phận công nhân khác
nhau, giữa lao động trí óc và lạo động chân tay, giữa thành thị và nông thôn...
ở nước ta hiện nay.
Phân biệt mâu thuẫn đối kháng với mâu thuẫn không đối kháng có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Mọi
ý định dùng phương pháp giải quyết loại mâu thuẫn này vào việc giải quyết
mâu thuẫn có bản chất khác nhau đều là sai lầm.
Tóm lại, trong quá trình nhận thức mâu thuẫn, trước hết chúng ta nhận
thức sự vật như một thực thể đồng nhất. Tiếp đó, khi phân tích sâu hơn ta phát
hiện ra sự khác nhau, trong những khác nhau đó lại thấy những đối lập, nghiên
cứu sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập, ta biết được mâu thuẫn của nó và
biết được nguồn gốc của sự vận động, sự phát triển.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo dõi quá trình phát sinh, phát
triển của các mặt đó; nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua từng giai đoạn; tìm hiểu những điều kiện làm
cho những mặt đó biến đổi; đánh giá đúng tính chất và vai trò của từng mặt và của cả mâu thuẫn trong từng
giai đoạn; xem những mặt đối lập đó có những yếu tố gì; xem mâu thuẫn đó có gì giống với những mâu
thuẫn khác và có những đặc điểm gì riêng, khác với những mâu thuẫn khác. Giải quyết mâu thuẫn cần phải



có quan điểm lịch sử, cụ thể, tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và có phương pháp giải quyết
phù hợp, biết kết hợp các mặt đối lập một cách linh hoạt, sáng tạo. Trong quá trình hoạt động nhận thức và
thực tiễn, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định;
phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả
năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn một cách thực tế. Và mâu thuẫn chỉ
được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên, chúng ta không được giải quyết mâu thuẫn một cách
vội vàng khi chưa có đủ điều kiện; cũng không để cho việc giải quyêt mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát,
phải cố gắng tạo điều kiện thúc đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn, những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra
phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất!

Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh (dưới những hình
thức cụ thể khác nhau). Đối với các mâu thuẫn khác nhau phải có phương
pháp giải quyết khác nhau, tuỳ thuộc vào bản chất của mâu thuẫn và những
điều kiện cụ thể. Phải tôn trọng mâu thuẫn, có biện pháp giải quyết thích hợp
với từng mâu thuẫn, không né tránh mâu thuẫn, tích cực tìm tòi, phát hiện
mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc,
khuynh hướng của sự vận động và phát triển. V.I.Lênin cho rằng: “Sự phân
đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó… đó
là thực chất… của phép biện chứng”7.
Với nhãn quan chính trị thiên tài, tầm nhìn vượt thời đại, Nguyễn Ái
Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy được những mâu thuẫn cơ bản đang
tồn tại trong lòng xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Những mâu
thuẫn ấy đã tôi thúc Người quyết tâm ra đi tìm cho dân tộc ta con đường cứu
nước đúng đắn. Sau bao năm bôn ba tìm được cứu nước, ôm ấp khát vọng
“độc lập cho tổ quốc tôi, hạnh phúc cho đồng bào tôi” đã đưa Người đến với
chủ nghĩa Mác-Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của thời đại, chiếc
“cẩm nang” thần kì cứu nước, cứu dân mà bấy lâu nay dân tộc ta hằng khao
khát. Nên Bác khẳng định: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ, đây là cái cần

thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta8.
7

V.I.Lê-nin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t.29, tr378.

8

HCM, TT, T10. Nxb CTQG, H.2000, tr.127.


Có chủ nghĩa Mác-Lênin soi đường, sau một thời gian chuẩn bị chính
trị, tư tưởng, tổ chức, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước đã
thành lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, đề ra mục tiêu phương hướng, nhiệm
vụ của cách mạng Việt Nam: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản. Chống đế quốc và chống phong kiến
giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày, đặt nhiệm vụ giải phóng dân
tộc lên hàng đầu. Với đường lối đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo dân tộc Việt
Nam giải quyết triệt mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân, đế quốc và mâu
thuẫn giữa nhân dân ta (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến,
mở đường để dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những
chiến công “Lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu” ở thế kỷ XX, đưa cả nước
đi lên xây dựng CNXH.
Bước vào thời kỳ xây dựng CNXH với tư thế là những người vừa bước
ra khỏi cuộc chiến tranh, chưa có nhiều kinh nghiệm trong xây dựng xã hội
mới, cộng thêm vào đó là tư tưởng chủ quan nóng vội đã dẫn đến những sai
lầm của Đảng CSVN trong nhận thức và giải quyết những mâu thuẫn giữa
QHSX với trình độ của LLSX; mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập
thể, chỉ quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa... Hậu quả là, sức sản xuất bị
kìm hãm, xã hội lâm vào khủng hoảng trong một thời gian dài. Từ những đòi
hỏi mới của thực tiễn xây dựng đất nước, Đảng CSVN trên tinh thần nhìn

thẳng vào sự thật, đã mạnh dạn thừa nhận sai lầm và tiến thành đổi mới toàn
diện đất nước mà trước hết là đổi mới tư duy chính trị và đặc biệt là tư duy
phát triển kinh tế nhằm giải quyết mâu thuẫn trong quá trình xây dựng
CNXH, giải phóng sức sản xuất đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội.
II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT MÂU
THUẪN ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT
NAM


Công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo không
chỉ diễn ra trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội của đất nước bị
khủng hoảng mà còn diễn ra trong bối cảnh quốc tế có những thay đổi
to lớn và sâu sắc. Trước hết, đó là sự khủng hoảng và đi tới sụp đổ của
hệ thống XHCN. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu cho
thấy việc xây dựng mô hình CNXH theo kiểu đối lập hoàn toàn với chủ
nghĩa tư bản đã trở nên lỗi thời. Thực tế đó buộc các Đảng Cộng sản
cầm quyền phải nhìn nhận lại về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản
hiện đại. Trong khi đó, bản thân chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng có sự
thay đổi, điều chỉnh, thích nghi với những biến đổi của quốc tế (mặc dù
sự thay đổi, điều chỉnh đó không làm thay đổi được bản chất của một
chế độ bất công, song cũng thể hiện một số giá trị tích cực nhất định).
Sự điều chỉnh về các vấn đề xã hội cũng như sức mạnh vốn có của nó
về mặt khoa học và công nghệ, về kinh nghiệm tổ chức quản lí lẫn xã
hội, là những thực tế không thể bác bỏ. Hơn nữa, dưới sự tác động
mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, xu thế toàn cầu hóa kinh
tế đã xuất hiện, ngày càng diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đến đời sống
của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Gắn liền với xu thế toàn
cầu hóa nền kinh tế, thế giới còn đứng trước những vấn đề toàn cầu cần
phải giải quyết: sự bùng nổ dân số, bảo vệ môi trường, đẩy lùi dịch
bệnh hiểm nghèo, chống chủ nghĩa khủng bố và tội phạm quốc tế... đã

và đang đẩy các nước xích lại gần nhau. Vì thế, thay vì có những tư
duy theo kiểu siêu hình, tuyệt đối hóa giữa hai mặt đối lập là tư bản chủ
nghĩa và xã hội chủ nghĩa, thì cần phải có cái nhìn biện chứng hơn,
mềm dẻo hơn về chủ nghĩa tư bản. Phải có thái độ khách quan, chấp
nhận thực tế về những giá trị tích cực của chủ nghĩa tư bản hiện đại, từ
đó có khả năng, trong những trường hợp cụ thể, biết hợp tác với chủ


nghĩa tư bản nhằm khai tác tốt mặt tích cực của nó, làm lợi cho chủ
nghĩa xã hội.
Trong điều kiện quốc tế hóa nền kinh tế thế giới, có cả sự hợp tác và
cạnh tranh, cả sự phụ thuộc, nương tựa và sự đối lập, đấu tranh lẫn
nhau; trong điều kiện vai trò của trí tuệ, của tri thức khoa học ngày
càng cao đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đòi hỏi mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc muốn phát triển cần phải điều chỉnh chiến lược phát triển
sao cho phù hợp, đúng đắn. Yêu cầu cấp thiết đặt ra cho mỗi quốc gia
là phải đổi mới. Nhưng sự đổi mới phải phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh của dân tộc và thời đại. Và chỉ có đổi mới đúng đắn, thực hiện quá
trình hội nhập quốc tế theo tinh thần kết hợp biện chứng mới đưa đất
nước tiến kịp các nước tiên tiến, đi tới thịnh vượng, văn minh.
Xu thế trên đặt ra vấn đề hội nhập quốc tế và khu vực của nước ta trở
nên bức thiết và tất yếu. Việt Nam chủ động hội nhập quốc tế, đặt quan
hệ với các nước TBCN trên cơ sở đảm bảo những nguyên tắc xã hội
chủ nghĩa nhất định để một mặt hạn chế tác động tiêu cực của toàn cầu
hóa; mặt khác, tận dụng được mặt tích cực của quá trình này. Nếu
chúng ta không thực hiện kết hợp với các nước tư bản chủ nghĩa thì sẽ
đi ngược lại xu thế quốc tế hiện nay. Như thế sẽ tự cô lập mình, không
đón nhận được thời cơ thuận lợi từ xu thế này, đưa đất nước tới chỗ suy
yếu, thậm chí dẫn tới sụp đổ của chế độ. Nhưng nếu chúng ta không
chủ động kết hợp một cách tự giác theo đúng nguyên tắc xã hội chủ

nghĩa thì cũng sẽ đưa chế độ, đưa dân tộc tới chỗ nguy hiểm, bị đồng
hóa, xâm lấn và cuối cùng bị tiêu diệt. Do đó, yêu cầu đặt ra cho chúng
ta là phải làm sao để vừa thống nhất, vừa đấu tranh giữa hai mặt đối lập
là xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa để có thể tận dụng được tối đa
thời cơ thuận lợi, đồng thời hạn chế tối đa nguy cơ tiêu cực, góp phần
thúc đẩy nhanh quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.


Trước yêu cầu đặt ra, Đại hội lần thứ VI của Đảng khẳng định: Mở
rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Đẩy
mạnh quá trình khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc. Đại hội lần
thứ VII: giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều
kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng CNXH và BVTQ. Đồng thời
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình
ĐLDT, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đại hội lần thứ VIII tiếp tục thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần
Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu
vì hòa bình, độc lập và phát triển. Đến Đại hội lần thứ IX, Đảng ta chủ
trương: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế. Điều này phản ánh tư thế chủ động của nước ta trên trường
quốc tế, khẳng định Việt Nam không chỉ sẵn sàng là bạn, mà còn sẵn sàng là
đối tác tin cậy trong quan hệ làm ăn với các nước trong cộng đồng thế giới.
Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng định: Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, Việt Nam là bạn, là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến
trình hợp tác quốc tế và khu vực. Đồng thời, Đại hội cũng đề ra 3 nhiệm vụ và
4 nguyên tắc trong công tác đối ngoại: Thứ nhất, giữ vững môi trường hòa
bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Thứ hai, đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Thứ ba, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế

giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nguyên tắc đối
ngoại thứ nhất: Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Thứ hai: Không dùng vũ lực, hoặc đe
dọa dùng vũ lực. Nguyên tắc này sẽ đảm bảo cho độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ được thực hiện một cách vững chắc. Thứ ba: Giải quyết các bất
đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình. Thứ tư: Tôn trọng lẫn


nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Đồng thời với các nguyên tắc trên cần phải
nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng kiên quyết làm thất bại các âm mưu,
hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân
tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.
Trên cơ sở đó, Việt Nam đã kết hợp hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, phát huy sức mạnh tổng hợp của nền ngoại giao toàn diện được triển
khai đồng bộ. Vai trò, vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế
được nâng lên. Các nhà bình luận phương tây coi Việt Nam là “con rồng trẻ của
khu vực, đang vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao mới trong phát triển kinh tế”.
Quá trình hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực đã mang đến cho
Việt Nam nhiều cơ hội, mở ra khả năng tranh thủ hiệu quả hơn các nguồn lực
bên ngoài: Thứ nhất, cùng với hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập trong các
lĩnh vực khác sẽ mở ra cơ hội lớn hơn trong tiếp cận với tri thức tiên tiến của
nhân loại, gia tăng mức độ đan xen lợi ích, từng bước làm cho đất nước trở
thành bộ phận hữu cơ của khu vực và thế giới, đưa đất nước có vị trí ngày
càng cao trong nền kinh tế, chính trị và văn hóa toàn cầu. Thứ hai, hội nhập
quốc tế trên các lĩnh vực cũng cho Việt Nam khả năng tận dụng được sự tác
động qua lại, bổ sung lẫn nhau giữa các lĩnh vực. Thứ ba, hội nhập quốc tế tạo
tiền đề để nước ta phát huy cao độ tiềm năng của đất nước, là phương thức
quan trọng để tạo nên sự kết hợp hiệu quả giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại.

Tiếp tục nghiên cứu dự báo tình hình, Đảng ta chỉ rõ: cục diện thế giới
đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế tiếp tục
phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế. Toàn cầu
hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá
trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức… Đại hội lần thứ XI kế
thừa và phát triển đường lối đối ngoại qua các thời kỳ lên tầm cao mới và


khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ
vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ;
nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”9.
Thực tiễn hơn 25 năm đổi mới của Việt Nam đã thu được những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử - đó là công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
từ tư duy kinh tế, xã hội đến chính trị và đặc biệt là trong lĩnh vực đối ngoại
và hội nhập quốc tế. Việt Nam đã và đang là một thành viên ngày càng chủ
động, tích cực và có trách nhiệm cao trong nhiều diễn đàn khu vực và quốc tế.
Những dấu ấn nổi bật nhất trong 5 năm qua là Việt Nam trở thành thành viên
thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), hoàn thành xuất sắc nhiệm
kỳ Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2008-2009 và
đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010 một cách tự tin, đĩnh đạc, đầy
tinh thần trách nhiệm. Việt Nam là quốc gia đã hoàn thành 5/8 mục tiêu thiên
niên kỷ của Liên Hợp quốc đưa ra trước niên hạn… Và, đến cuối nhiệm kỳ
Đại hội lần thứ X, Việt Nam đã có quan hệ hầu như với tất cả các nước trên
thế giới. Cho đến nay, Việt Nam đã nâng cấp quan hệ lên tầm "đối tác chiến

lược" với 3 trong số 5 cường quốc là Uỷ viên không thường trực của Hội
đồng Bảo an LHQ là: Nga, Trung Quốc, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc và Tây
Ban Nha. Trở thành đối tác chiến lược cũng có nghĩa là hợp tác giữa Việt
Nam với các nước này sẽ được mở rộng từ kinh tế sang quốc phòng, an ninh
và khoa học - công nghệ. Trong đó có việc Nga và Nhật Bản giúp Việt Nam
9

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQC, H.2011,tr.235-236


xây dựng nhà máy điện nguyên tử. Nga bán cho Việt Nam các loại máy bay
và tàu ngầm hiện đại nhằm tăng cường sức mạnh bảo vệ đất nước.
Trước diễn biến ngày càng căng thẳng trên Biển Đông, nhất là chủ
quyền hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Đảng ta đã từng bước giải quyết
mọi bất đồng thông qua các biện pháp hòa bình, hữu nghị, không dùng vũ lực
hoặc đe doạ dùng vũ lực, cùng tôn trọng và quan tâm tới lợi ích chính đáng
của nhau, song không bao giờ nhượng bộ vô nguyên tắc về chủ quyền. Hai
bên căn cứ vào những nhận thức chung đã đạt được giữa lãnh đạo cấp cao hai
nước và thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển
trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển
1982 và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), hướng tới xây
dựng Bộ quy tắc về ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC).
Những kết quả đạt được trong quá trình hội nhập quốc tế của Đảng ta là
sử dụng phương pháp mềm dẻo, linh hoạt trong việc khai thác những
điểm chung, tương đồng giữa các mặt đối lập, trên cơ sở nắm vững
nguyên tắc định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo đà để Việt Nam tiếp tục
thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020. Để đạt được mục tiêu đề ra ở chặng đường tiếp
theo, Đảng và nhân dân ta tiếp tục vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, quy luật mâu thuẫn nói riêng

vào giải quyết một số yêu cầu đặt ra trong quá trình hội nhập quốc tế
sau đây:
1. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển
Trong thời kì đổi mới, Đảng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế
mở trên tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới, theo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và


các bên đều có lợi. Mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta
chính là tạo thêm nguồn lực từ bên ngoài, kết hợp với nội lực trong
nước để tạo thành sức mạnh tổng hợp đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, đứng trước nguy
cơ nảy sinh từ mặt trái của toàn cầu hóa, Đảng ta khẳng định phải xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Bởi vì, độc lập tự chủ về kinh tế chính
là nền tảng cho sự độc lập tự chủ về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị.
Xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng XHCN
trong quá trình thực hiện hội nhập quốc tế, hợp tác với các nước trên
thế giới là cơ sở để các nước tư bản chủ nghĩa khi hợp tác phải luôn giữ
vững nguyên tắc: hợp tác, hội nhập phải bảo đảm lợi ích dân tộc chân
chính, lợi ích của chủ nghĩa xã hội. Vì thế, trong quá trình hội nhập,
chúng ta vừa chủ động hợp tác với các nước trên thế giới, vừa đề cao
cảnh giác đối với những thế lực thù địch bên ngoài, những kẻ có âm
mưu phá hoại chế độ chủ nghĩa xã hội, chống phá nhà nước Việt Nam...
Bên cạnh đó, khi kết hợp nguồn nội lực và ngoại lực, giữa trong nước
và quốc tế, Đảng ta còn khẳng định phải phát huy cao độ nguồn nội lực,
trong nước. Nguồn nội lực phải được xem là yếu tố quyết định, là cơ sở
để khai thác có hiệu quả nguồn lực bên ngoài. Muốn thế, phải xây dựng
được một nền kinh tế tự chủ, vững mạnh, có sức cạnh tranh cao trên thế
giới; cùng với đó là phải có một nền khoa học, công nghệ tiên tiến... để

có thể có sự bình đẳng trong quá trình hợp tác, trao đổi về kinh tế cũng
như công nghệ với bên ngoài. Điều đó càng chứng tỏ sự cần thiết phải
xây dựng cho được nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Như vậy, trong quá trình hội nhập quốc tế nhằm đáp ứng đòi hỏi khách
quan của toàn cầu hóa, Đảng ta đã vận dụng linh hoạt, có nguyên tắc tư
tưởng biện chứng về kết hợp giữa hai mặt đối lập. Từ đó, quá trình đổi


mới của nước ta nói chung và công cuộc hội nhập quốc tế, hội nhập
khu vực đã đạt được những thành công quan trọng, góp phần thúc đẩy
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
2. Vấn đề chống “diễn biến hòa bình” trong quá trình hội nhập quốc tế
Sau sự sụp đổ của các nước XHCN, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế
quốc Mỹ ráo riết tiến hành chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ với
tham vọng xoá bỏ các nước XHCN còn lại, trong đó có Việt Nam.
Nếu những năm trước đây, các thế lực thù địch thường sử dụng biện
pháp “cứng rắn” để chống phá Việt Nam thì nay, họ đã thay đổi biện pháp
chiến lược, chuyển từ “cứng rắn” sang “mềm dẻo”, vừa thúc đẩy quan hệ để
lôi kéo, vừa gây sức ép để tác động “chuyển hóa” chế độ chính trị ở Việt Nam
theo hướng “tự diễn biến” là chính. Hiện nay, mối quan hệ của phương Tây
đối với Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực. Phương Tây không đưa
Việt Nam trở lại “danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn
giáo” mà lên tiếng ủng hộ Việt Nam nhiều hơn trên các diễn đàn quốc tế; ký
kết với Việt Nam nhiều dự án đầu tư, làm ăn kinh tế, đẩy mạnh hợp tác với
Việt Nam trên nhiều lĩnh vực văn hóa, giáo dục, quân sự... Nhưng bên cạnh
đó vẫn có những thế lực ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”,
“chuyển hóa” Việt Nam. Các thế lực thù địch luôn xác định, bằng mọi giá
phải thay đổi cơ chế chính trị của Việt Nam. Vì vậy, một số thế lực của

phương Tây chủ trương dùng tài trợ, cố vấn, chuyên gia tác động gián tiếp,
trực tiếp đến các chương trình chiến lược của Việt Nam, thông qua các định
chế quốc tế, thông qua lực lượng “dân chủ”, “cải cách” ở nước ta để tác động
“chuyển hóa”, làm chệch đường lối, chính sách, pháp luật Việt Nam. Theo đó,
họ cho rằng, vấn đề quan trọng hàng đầu để “chuyển hóa” chế độ chính trị ở
Việt Nam là “làm triệt tiêu các giá trị làm nên chế độ cộng sản”. Với mục tiêu
này, một số chiến lược gia của phương Tây tăng cường đẩy mạnh hợp tác


toàn diện với Việt Nam, thực hiện “ba bước tiến” trên lộ trình phát triển toàn
diện với Việt Nam. Thứ nhất, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế của nước
ta vào nền kinh tế khu vực và thế giới, từ đó đẩy mạnh nền kinh tế thị
trường TBCN ở Việt Nam, làm cho nền kinh tế nước ta chệch hướng XHCN,
làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng. Thứ hai, hình thành “xã hội dân sự” ở
Việt Nam, tạo môi trường và cơ hội để cho các tổ chức chính trị đối lập xuất
hiện công khai, gây rối loạn xã hội Việt Nam, làm cho Đảng, Nhà nước ta
không kiểm soát được tình hình, buộc Đảng, Nhà nước ta phải chấp nhận
“dân chủ” hoặc tan vỡ do đột biến chính trị - xã hội. Thứ ba, thực hiện “dân
chủ hóa” chính quyền, từng bước cô lập, tách các tổ chức đảng, đảng viên ra
khỏi quần chúng, nhằm gây áp lực đối với Đảng ta. Nhìn chung, “lộ trình”
trên đã được một số thế lực ở phương Tây thực hiện ở “bước hai”, và họ
khẳng định rằng, chỉ có đi vào Việt Nam, làm ăn với Việt Nam thì mới có
điều kiện, môi trường, cơ hội để thực hiện “diễn biến hòa bình”. Đây là một
trong những âm mưu, thủ đoạn mới rất tinh vi, thâm độc, chúng ta không thể
xem thường.
Gần đây, phương Tây đẩy mạnh việc cổ vũ cho cái gọi là “dân chủ,
nhân quyền” ở Việt Nam. Họ đã dùng nhiều biện pháp để tuyên truyền, xuyên
tạc tình hình, vu cáo Việt Nam thiếu dân chủ, vi phạm nhân quyền, không có
tự do tôn giáo, đối xử không công bằng với người dân tộc. Qua đó, tìm mọi
cách đưa người vào Việt Nam với danh nghĩa khác nhau để xúc tiến việc tìm

hiểu tình hình, thu thập thông tin và lợi dụng vấn đề “dân chủ, nhân quyền”
để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Sau vụ người Mông ở Mường Nhé
(5/2011), các thế lực xấu ở phương Tây, bằng nhiều cách đã “hỗ trợ” nhóm
phản động người Mông ở Tây Nguyên để vận động người Mông ở đây ra các
tỉnh phía Bắc “đón vua”; đồng thời lôi kéo người Mông từ Điện Biên vào các
tỉnh Tây Nguyên để “lánh nạn”, chờ cơ hội lập lại “Vương quốc Mông”. Hơn
thế, còn tài trợ, giúp đỡ, huấn luyện một số cốt cán “tin lành Đề-ga” ở nước


ngoài để đưa về Việt Nam hoạt động thông qua các bức bình phong “tổ chức
phi chính phủ”. Việc làm này ít nhiều đã gây sức ép đối với chính quyền địa
phương sở tại, gây mất ổn định trật tự và ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất ở
một số địa phương.
Nham hiểm, xảo quyệt hơn, một số chiến lược gia của phương Tây
cho rằng, lực lượng có tính chất quyết định, nòng cốt cho việc chuyển hóa,
thúc đẩy “tự diễn biến” ở Việt Nam là “những người cấp tiến” trong nội bộ
Đảng, Nhà nước ta. Vì vậy, họ đã và đang tìm mọi cách “lôi kéo”, “mua
chuộc” nhằm xây dựng “đội ngũ mới” (lực lượng đối lập trong Đảng và Nhà
nước); từ đó, đẩy mạnh việc gieo “mầm mống dân chủ” phương Tây, hình
thành các phe phái, khuynh hướng trong nội bộ Đảng, Nhà nước. Mặt khác,
các thế lực thù địch tìm mọi cách để đẩy mạnh tham nhũng và lợi dụng
chống tham nhũng, lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của Đảng để kích động,
gây chia rẽ, tạo sự hoài nghi, mâu thuẫn trong nội bộ Đảng; chia rẽ Đảng với
quần chúng nhân dân. Qua đó, từng bước thực hiện ý đồ “dùng cộng sản lật
đổ cộng sản”, làm tê liệt hệ thống chính trị XHCN ở nước ta. Gần đây,
hướng tiếp cận của họ là hỗ trợ hoặc tiếp tay cho các cuộc “cách mạng màu
sắc” tại một số nước trên thế giới, và đưa các tổ chức này vào Việt Nam hoạt
động để tránh sự chú ý của các cơ quan chức năng Việt Nam. Các tổ chức
như Quỹ Dân chủ quốc gia (NED), có kế hoạch mỗi năm sẽ đào tạo ít nhất
10 sinh viên Việt Nam làm “hạt giống” sau khi trở về Việt Nam công tác sẽ

thúc đẩy “phong trào dân chủ”, tổ chức tuyên truyền “dân chủ” và kêu gọi
nhân dân hướng tới “xã hội dân sự”.
Điều đó chứng tỏ, bản chất của chủ nghĩa tư bản không hề thay đổi,
chúng tìm mọi cách để xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, trong đó có con
đường tham gia hội nhập quốc tế. Vì vậy, trong quá trình hội nhập, chúng ta
cần phải thận trọng, nhất quán giữa nguyên tắc với chiến lược và sách lược,
nếu không, chúng ta sẽ mắc mưu chiến lược “Diễn biến hoà bình” của chúng.


×