Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học một số vấn đề về PHƯƠNG PHÁP LUẬN hồ CHÍ MINH và ý NGHĨA TRONG NGHIÊN cứu tư TƯỞNG TRIẾT học hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.65 KB, 30 trang )

1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN HỒ CHÍ MINH VÀ Ý
NGHĨA TRONG NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HỒ CHÍ MINH

Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam – Anh
hùng giải phóng dân tộc – Danh nhân văn hoá thế giới. Người đã cống hiến trọn
đời mình cho nước cho dân. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là những chuẩn
mực giá trị đạo đức lối sống. Người là hiện thân của những giá trị chuẩn mực đạo
đức cao đẹp của người Việt Nam. Những tư tưởng và chuẩn mực giá trị đạo đức
của Người cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị vĩnh hằng; vẫn mãi là cẩm nang
thần kỳ cho mọi thế hệ người Việt Nam nói chung và cán bộ chiến sĩ trong lực
lượng vũ trang nhân dân nói riêng. Cả cuộc đời phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân
dân, mặc dù với Người chưa hề có một bài viết hay một công trình nghiên cứu
riêng về triết học, song tất cả những quan điểm, tư tưởng, việc làm và những
chuẩn mực giá trị của Người lại chứa đựng một nội dung phương pháp luận, một
thế giới quan, nhân sinh quan và một triết lý hành động sâu sắc.
Bất kỳ một tư tưởng, một học thuyết nào cũng đều là sự kết hợp biện
chứng của những điều kiện khách quan với nhân tố chủ quan trong những điều
kiện lịch sử nhất định. Đây là một vấn đề có tính quy luật. Do đó, tư tưởng triết
học Hồ Chí Minh cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Tư tưởng triết học
Hồ Chí Minh được hình thành từ những cơ sở lý luận và thực tiễn cùng với phẩm
chất nhân cách, tố chất đặc biệt của chính Hồ Chí Minh, trong bối cảnh thời đại
Hồ Chí Minh.
Trước hết là bối cảnh quốc tế và trong nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX. Khi mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và
đã đặt ách đô hộ ở nhiều nước thuộc địa trên thế giới, làm cho mâu thuẫn thời
đại lúc này trở nên gay gắt và chiến tranh thế giới đã nổ ra làm cho chủ nghĩa tư


2



bản lâm vào khủng hoảng. Tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng
của giai cấp công nhân phát triển trong những năm đầu của thế kỷ XX. Lúc này
chủ nghĩa Mác đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế – thời kỳ bão táp cách mạng đã bắt đầu. Nhất là khi cách
mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển
của lịch sử xã hội loài người.
Ở Việt Nam giai đoạn này thực dân Pháp thực hiện chế độ cai trị hà khắc,
đời sống của nhân dân lầm than cơ cực, các phong trào chống Pháp nổ ra đều bị
thất bại. Cách mạng Việt Nam đứng trước một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng
về đường lối chính trị, con đường cứu nước rơi bế tắc, tiền đồ của dân tộc đen tối
“tưởng chừng như không có đường ra”. Vận mệnh lịch sử của dân tộc đã lựa
chọn và giao phó cho Nguyễn Ái Quốc. Vượt qua những hạn chế của các sĩ phu
yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra xu thế phát triển tất yếu của
thời đại mới do cách mạng Tháng Mười mở ra và Người đã tìm thấy con đường
cứu nước đúng đắn cho dân tộc - đó là “con đường cách mạng vô sản”.
Hồ Chí Minh – vị kiến trúc sư hàng đầu, tiêu biểu nhất của cách mạng Việt
Nam trong thế kỷ XX. Người đã đặt nền móng cho con đường phát triển của xã
hội Việt Nam trong thế kỷ này – con đường từ độc lập dân tộc tới chủ nghĩa xã
hội, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Không chỉ là nhà tư tưởng, nhà mác
xít sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh còn là nhà chính trị lỗi lạc
của dân tộc với đường lối độc lập tự chủ và chiến lược đại đoàn kết nổi tiếng, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc
tế đã làm nên sức mạnh và thắng lợi to lớn của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh là
sự kết hợp và toả sáng những tinh hoa tốt đẹp, cao quý nhất của trí tuệ, tâm hồn,
đạo đức và tình cảm của con người Việt Nam.
Hồ Chí Minh vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam, người chiến sĩ cộng sản lỗi lạc của phong trào



3

cách mạng và công nhân quốc tế. Tư tưởng của Người là niềm tin, là ngọn cờ
thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là di sản tinh thần vô cùng quý báu của
Đảng, dân tộc Việt Nam. Nội dung tư tưởng của Người khá toàn diện và phong
phú từ đường lối cách mạng đến các lĩnh vực cụ thể, từ tư tưởng đến đạo đức tác
phong, từ lời nói đến việc làm. Trong những di sản mà Người để lại cho chúng
ta, vấn đề phương pháp luận Hồ Chí Minh có một vị trí rất quan trọng. Phương
pháp Hồ Chí Minh và cùng với đó là phong cách của Người đã làm cho tư tưởng
và triết lý của Người vốn đã vô cùng sâu sắc, tinh tuý lại càng trở nên sâu sắc,
sống động, hấp dẫn hơn. Phương pháp luận Hồ Chí Minh đã làm lấp lánh thêm
vẻ đẹp tư tưởng Hồ Chí Minh – nhà tư tưởng mác xít hiện đại mang cốt cách
hiền triết Á Đông và Việt Nam.
Trong phạm vi bài viết này chúng tôi xin trình bày vấn đề phương pháp
luận Hồ Chí Minh và ý nghĩa trong nghiên cứu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.
1. Hướng tiếp cận phương pháp luận Hồ Chí Minh
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta xác định: Chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt
động. Từ đây tư tưởng Hồ Chí Minh mới được đặt ra và nghiên cứu một cách cơ
bản có hệ thống. Tuy nhiên đây là công việc không hề đơn giản, bởi lẽ Người
không bao giờ có chủ đích lập ngôn, không bao giờ có ý định xây dựng mặt triết
thuyết, mà mọi hoạt động của Người đều giành cho một mục đích cao cả, một
ham muốn tột bậc là làm cho nước nhà độc lập, nhân dân tự do, ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, tiến bộ và hạnh phúc - đó là lẽ sống của
Người.
Tiếp cận phương pháp luận Hồ Chí Minh còn khó khăn, phức tạp hơn, bởi
phương pháp cũng như phong cách của Người thầm sâu trong hành động, trong
suy nghĩ và trong cách ứng xử của Người, với con người và trong công việc.
Trên bình diện lý luận, nhiều luận điểm của Người vừa thể hiện quan điểm, tư



4

tưởng, lại vừa hàm chứa ý chỉ dẫn về phương pháp. Văn của Người bao giờ cũng
cụ thể, thiết thực, gợi cảm một cách trực tiếp mà vẫn giàu sức khái quát, liên
tưởng, ở đó tư tưởng thấm vào trong phương pháp và phong cách của Người và
phương pháp thể hiện phong cách và hàm chứa sự phong phú, sâu sắc, tinh tế
của tư tưởng. Trên bình diện hoạt động thực tiễn, mỗi hành động của Người ở
mọi phương diện, Hồ Chí Minh bao giờ cũng hướng tới lợi ích thiết thân hàng
ngày của quần chúng nhân dân, và hoàn toàn xa lạ với tất cả những gì phù
phiếm, khoa trương, hình thức, xa dân. Cả cuộc đời Người là sự thực hành bền
bỉ và nêu gương sáng về điều đó. Tư tưởng, phương pháp, phong cách Hồ Chí
Minh không chỉ thể hiện ở lời nói mà còn thể hiện ra trong việc làm, trong hành
động. Do đó, nghiên cứu phương pháp luận Hồ Chí Minh không thể chỉ dừng lại
ở những tác phẩm của Người để tìm trong đó những kiến giải về phương pháp,
mà còn phải tìm phương pháp của Người trong cuộc sống, trong thực tiễn đấu
tranh cách mạng. Hồ Chí Minh không chỉ thực hành phép biện chứng trong cuộc
sống, trong đấu tranh cách mạng một cách thuần thục, và ở Người không chỉ
nhận thức rằng thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cao nhất, thể
hiện bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà Người còn
thực hành quan niệm đó một cách nhất quán, nhuần nhuyễn.
Với Hồ Chí Minh, lý luận được thấm sâu vào trong thực tiễn, biến thành
phương pháp, trở thành tư tưởng thông qua tư duy khoa học, độc lập, sáng tạo của
Người. Người đề cập tới lý luận, trình bày các vấn đề lý luận một cách thực tiễn,
linh hoạt, uyển chuyển, tự nhiên, bởi Người nắm lấy thực chất lý luận đó ở tinh
thần và phương pháp của nó để soi sáng thực tiễn chứ không bó buộc bởi những
khái niệm, phạm trù một cách hình thức cứng nhắc.
Nhận thức được vai trò của thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn bám sát thực tiễn,
phân tích thực tiễn với sự sâu sắc và làm chủ lý luận, nhờ đó đưa lý luận vào thực
tiễn, kết hợp lý luận với thực tiễn và thống nhất lý luận và thực tiễn một cách nhịp

nhàng uyển chuyển và tự nhiên. Như vậy, phong cách Hồ Chí Minh mà trước hết


5

là phương pháp tư duy sáng tạo, là nhà biện chứng mà sự nổi trội ở Người là sự
thực hành phép biện chứng. Người luôn nhấn mạnh: lý luận phải đi đôi với thực
tiễn, phải khắc phục tình trạng lý luận suông, thực tiễn mù quáng. Đồng thời
Người cũng chỉ rõ: Học tập, nghiên cứu lý luận Mác – Lênin là phải nắm vững
tinh thần và phương pháp của nó để ứng xử với con người và công việc, dùng lý
luận làm kim chỉ nam cho công việc, chứ không phải thuộc lòng câu chữ.
Về phương pháp của mình, Hồ Chí Minh có một tổng kết rất tiêu biểu,
trong đó lý luận và thực tiễn gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau, là đều kiện tiền đề
cho nhau, trong đó lý luận và tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận mới có vai trò
và tác dụng quan trọng không thể thiếu để làm nên phương pháp khoa học. Người
viết: “Thực hành sinh ra hiểu biết
Hiểu biết tiến lên lý luận
Lý luận lãnh đạo thực hành”1.
Từ những vấn đề đã trình bày ở trên có thể thấy rằng: Phương pháp luận
Hồ Chí Minh là một hệ thống chỉnh thể, thống nhất hữu cơ giữa phương pháp
nhận thức, phương pháp tư duy và phương pháp hành động.
Trong phương pháp luận Hồ Chí Minh các yếu tố trên gắn bó mật thiết với
nhau tạo một chỉnh thể toàn vẹn, cái này bao chứa cái kia và ngược lại. Điều đó
phản ánh và in đậm dấu ấn độc đáo riêng biệt của nhân cách Hồ Chí Minh.
Phương pháp luận Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại, là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại trong tiến trình phát triển cách mạng
mà Hồ Chí Minh là người thể hiện.
Đối với Hồ Chí Minh, Người rất chú trọng phương pháp, người có chính
kiến, tư tưởng và có phương pháp riêng của mình, nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ
xem mình là một nhà tư tưởng, nhà phương pháp. Đó chính là sự vĩ đại của tư

1

Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 5, tr 247.


6

tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh, một vị lãnh tụ suốt đời thân dân, gần dân, vì
dân. Ở Người tư tưởng – phương pháp, tác phong không thể tách rời, đặc biệt
không thể tách rời đạo đức, lối sống, nhân cách của Người, bởi vì, phương pháp
luận Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị và ý nghĩa của phương pháp cách mạng
Việt Nam mà còn là phương pháp sống ở đời và làm người được bạn bè các tộc
trên thế giới ngưỡng mộ và noi theo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có sức sống mãnh liệt, bền vững, bởi tư tưởng ấy
được xây dựng trên một nền tảng triết lý sống, một tư tưởng nhân văn, nhân đạo cao
cả và một phương pháp luận khoa học – cách mạng. Xung quanh vấn đề phương
pháp luận Hồ Chí Minh có nhiều cách tiếp cận khác nhau, vạch ra những khía cạnh
cụ thể khác nhau, song đều tựu chung lại ở những triết lý, hành động của Người.
Nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu cho rằng: “Cụ chưa hề nói tới phương
pháp luận, nhưng trong hoạt động chính trị – văn hoá của Cụ, người nghiên cứu
dường như trông thấy một số lề lối có thể gọi là phương pháp luận, phương
pháp tư tưởng”2. Đồng chí Nguyễn Khoa Điềm thì cho rằng: “Trong hệ thống
tư tưởng Hồ Chí Minh, một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn, một cống hiến
đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phương pháp luận đã đạt đến trình độ
mới trong xem xét và giải quyết thực tiễn, vượt lên trên nhiều người đương thời
trong thế hệ chúng ta để trở thành người kế tục hiếm hoi những nhà sáng lập
chủ nghĩa duy vật trong thời đại mới”3.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp giữa truyền
thống văn hoá Việt Nam với tinh hoa văn hoá phương Đông, phương Tây, với chủ
nghĩa Mác – Lênin, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở thế giới quan phương

pháp luận, khái quát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới từ những năm
cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX. Phương pháp luận của Hồ Chí Minh, về cơ
bản là phương pháp luận Mác – Lê nin, là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
2
3

Trần Văn Giàu, Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh , Viện Hồ Chí Minh , HN, 1993, tập 2, tr 47.
Nguyễn Khoa Điềm, Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, HN, 1993, tập 2, tr 84.


7

nghĩa duy vật lịch sử. Nhưng, phương pháp luận Mác – Lê nin được Hồ Chí Minh
tiếp thu có sự bổ xung phát triển mang những sắc thái, đặc trưng mới độc đáo của
Hồ Chí Minh. Sự độc đáo mang dấu ấn riêng của Người chính là sự “chế biến” tài
tình những tinh hoa của dân tộc và thế giới để tạo nên nét đặc sắc của Người.
2. Một số quan điểm, nguyên tắc cơ bản trong phương pháp luận
Hồ Chí Minh
2.1. Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn
Đây là nguyên tắc phương pháp luận cơ bản xuyên suốt có ý nghĩa cơ sở
xuất phát và quyết định mọi nhận thức, tư duy của Hồ Chí Minh.
Là một con người của thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn xuất phát từ thực tiễn
và hết sức coi trọng thực tiễn. Chính xuất phát từ yêu cầu thực tiễn Việt Nam cuối
thế kỷ XIX mà người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã quyết định đi sang phương
Tây để tìm đường cứu nước, và chính từ thực tiễn của quá trình bôn ba khắp năm
châu bốn biển, Người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin, tìm ra con đường cứu
nước. Từ thực tiễn và tồn tại phát triển của xã hội Việt Nam, Người đã vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tìm ra bản chất, quy luật vận động đặc thù của
xã hội Việt Nam, đề ra đường lối độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo cho cách
mạng Việt Nam. Tổng kết cách mạng Việt Nam, Người đã rút ra kết luận: Nếu kết

hợp đúng đắn những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin với thực tiễn
nước ta thì sẽ giành thắng lợi. Ngược lại, sẽ dẫn đến sai lầm.
Với tư duy biện chứng, mặc dù rất coi trọng thực tiễn, song Hồ Chí Minh cũng
đã nhận thức và đánh giá đúng vai trò, ví trí của lý luận đối với thực tiễn. Ngay từ tác
phẩm “Đường cách mệnh”, Người đã nhấn mạnh: “Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, tầu không có bàn chỉ nam”4. Nhưng lý luận phải
gắn với thực tiễn, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn. Người khẳng định: Sự thống nhất
4

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 2, tr 268.


8

giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cao nhất của chủ nghĩa Mác – Lênin. Học tập
chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập tinh thần, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
học lập trường, phương pháp cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin để mà giải quyết
những vấn đề thực tiễn cách mạng đặt ra với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo chứ
không phải là dừng lại ở câu chữ, không phải học tập, vận dụng một cách giáo điều,
máy móc.
Theo Hồ Chí Minh, lý luận chính là sự khái quát từ thực tiễn và quay trở lại
chỉ đạo thực tiễn. Do đó, Người rất coi trọng tổng kết kinh nghiệm, xem tổng kết
kinh nghiệm là một biện pháp để thực hiện “thống nhất lý luận với thực tiễn”,
vừa nâng cao trình độ lý luận vừa nâng cao trình độ hoạt động thực tiễn. Người
chỉ rõ nguyên nhân của bệnh chủ quan, duy ý chí là do kém lý luận, coi thường lý
luận, hoặc lý luận suông. Người yêu cầu phải gắn lý luận với thực tiễn, tránh lý
luận suông, tránh thực tiễn mù quáng; coi trọng thực tiễn nhưng không đồng nghĩa
với thực dụng, thiển cận, kinh nghiệm chủ nghĩa; coi trọng học tập lý luận nhưng
không giáo điều, không tầm chương trích cú, phải học tập lấy cái tinh thần,
phương pháp của lý luận để vận dụng vào thực tiễn.

Kết hợp lý luận với thực tiễn, giữa biết với làm, lời nói đi đôi với việc làm …
là một đặc trưng sâu sắc trong phong cách, tác phong và phương pháp Hồ Chí Minh.
2.2. Nguyên tắc toàn diện, hệ thống, trọng điểm và thiết thực
Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển nguyên tắc toàn diện trên cơ sở thực tiễn.
Phát triển nguyên tắc toàn diện trong tính chỉnh thể hệ thống có trọng điểm và
thiết thực. Đây là nguyên tắc cơ bản phản ánh phong cách, phương pháp Hồ Chí
Minh trong xem xét đánh giá và giải quyết công việc.
Trong xem xét, đánh giá xã hội, Hồ Chí Minh luôn phân tích toàn diện tất
cả các mặt của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; cả quá
khứ, hiện tại và tương lai, cả truyền thống và hiện đại. Quan điểm này đã được


9

Người vận dụng trong việc lựa chọn con đường cứu nước, trong chỉ đạo cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trong việc giành chính quyền về tay
giai cấp cách mạng.
Khi xem xét, đánh giá con người, Hồ Chí Minh luôn chú ý toàn diện cả
nhận thức, ý thức, tình cảm và cả khả năng hoạt động thực tiễn; cả đức và tài, cả
mặt mạnh lẫn mặt yếu; cả cá nhân, tập thể và cộng đồng.
Trong đánh giá sức mạnh, trong so sánh lực lượng, Người coi trọng tất cả
các yếu tố, đánh giá toàn diện, hệ thống các yếu tố tạo thành sức mạnh tổng hợp:
kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự … cả sức mạnh vật chất lẫn sức mạnh tinh
thần, cả sức mạnh truyền thống-hiện tại-tương lai, cả sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại, cả thế và lực, cả thiên thời, địa lợi và nhân hoà.
Quan điểm và phương pháp toàn diện của Hồ Chí Minh là cơ sở để Đảng
ta định ra đường lối chiến lược, sách lược trong chỉ đạo và tiến hành cách mạng
giành thắng lợi.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển quan điểm toàn diện mác xít, Hồ Chí Minh
cũng đã đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng yếu tố và sự tác động biện chứng của

các yếu tố đó trong một hệ thống, một chỉnh thể thống nhất. Để từ đó xác định
tính thiết thực, tính trọng điểm trong hệ thống toàn diện ấy.
Do đó, theo Hồ Chí Minh, cần nắm vững toàn diện, hệ thống, nhìn xa,
trông rộng, đồng thời phải chú ý trọng điểm, cụ thể, thiết thực. Người chỉ rõ: Làm
việc gì cũng phải có trọng tâm, trọng điểm, cụ thể, thiết thực. Nói được, làm được,
đến được với mọi người; kế hoạch một, biện pháp mười, chiến lược thì phải nhìn
xa trông rộng, kế hoạch thì phải cụ thể, chu đáo.
Nguyên tắc toàn diện, kết hợp với trọng điểm, nhìn xa trông rộng với cụ thể,
thiết thực, trở thành phong cách, phương pháp của Hồ Chí Minh trong xem xét và


10

giải quyết công việc. Một biểu hiện sinh động, chân thực cho phương pháp toàn
diện cụ thể, trọng điểm trong phương pháp luận Hồ Chí Minh đó là: Sau cách mạng
Tháng Tám, trước muôn ngàn công việc, khó khăn phức tạp phải làm, phải đối phó,
trong buổi họp đầu tiên của chính phủ, Người đã đề ra sáu nhiệm vụ cụ thể, thiết
thực, sau đó lại khái quát lại thành ba nhiệm vụ lớn: “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt,
diệt giặc ngoại xâm”5, mà mọi người, mọi cấp đều phải nhớ và quyết tâm thực
hiện.
Lúc còn sống, Người và Bộ Chính trị thường xuyên có những buổi họp thân
mật để trao đổi ý kiến, những buổi họp mà Người thường nói vui là để “nhìn quanh
chân trời”, ý nói nhìn toàn cục tình hình thế giới va trong nước, xem nổi lên những
vấn đề gì cấp bách cần phải giải quyết. Cũng trong những buổi họp đó, Người
thường nhắc nhở phải nhìn toàn cục, chớ có địa phương cục bộ, phiến diện. Những
vấn đề giao cho đồng chí, hay bộ phận có trách nhiệm nghiên cứu, xem xét, chuẩn
bị, đưa ra Bộ Chính trị thảo luận và giải quyết. Chính trong một cuộc họp như vậy,
Bộ Chính trị đã phát hiện ra sai lầm trong cải cách ruộng đất và cũng đã đưa ra
được những quyết sách để giải quyết, khắc phục, sửa sai những sai lầm khuyết điểm
đó.

2.3. Phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn với phương thức,
phương pháp phù hợp có hiệu quả nhất
Trong quá trình hoạt động cách mạng giải phóng dân tộc, giai cấp, xây dựng xã
hội mới là quá trình phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn. Chính trong quá
trình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp biện chứng của chủ nghĩa
Mác – Lênin để phân tích hình thái kinh tế - xã hội của Việt Nam và cục diện thế giới
nhằm xác định những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở
đó đề ra con đường cách mạng giải quyết mâu thuẫn, đưa sự nghiệp cách mạng đến
thắng lợi. Ngay từ những năm 1930, trên cơ sở phân tích, nhận thức được điều kiện
5

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 6, tr 163.


11

lịch sử đặc thù của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử thế giới, trong “Chính
cương vắn tắt” do Người soạn thảo đã vạch ra hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt
Nam lúc đó là: Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn
giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến Việt Nam. Từ đó, Người chỉ ra nhiệm
vụ của cách mạng Việt Nam là phải làm cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng
thổ địa, sau đó bỏ qua chủ nghĩa tư bản và tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, nghệ thuật giải quyết mâu thuẫn là phải đi sâu phân tích,
nắm thật vững tính chất, đặc điểm, xu thế của từng mặt đối lập và quy luật vận động
của mâu thuẫn mà tác động vào các mặt đối lập bằng phương thức, phương pháp phù
hợp có hiệu quả nhất.
Thừa nhận mâu thuẫn tồn tại trong mọi sự vật, tồn tại trong mọi sự việc,
nhưng mỗi loại mâu thuẫn lại cần có phương thức, phương pháp giải quyết khác
nhau sao cho có hiệu quả. Trong giải quyết những mâu thuẫn xã hội, Hồ Chí
Minh hết sức coi trọng phân hoá, thu hẹp, cô lập tới mức cao nhất kẻ thù của cách

mạng, đồng thời hết sức coi trọng đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết được,
tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ, kể cả những lực lượng, cá nhân từ phía
mặt đối lập, từ phía kẻ thù; tạo nên sự so sánh lực lượng có lợi nhất cho cách
mạng, tạo điều kiện tiêu diệt triệt để mặt đối kháng theo tinh thần: “Hễ còn một
tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải chiến đấu quét sạch chúng đi”6.
Trong những năm tháng đầu tiên sau khi cách mạng Tháng Tám thành
công, tình thế đất nước lâm vào cảnh thù trong giặc ngoài, Hồ Chí Minh đã khéo
léo lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù giữa Anh-Pháp-Tưởng tìm cách phân
hoá nội bộ của chúng để tìm ra cách giải quyết thích hợp; từ đó tập trung mũi
nhọn vào kẻ thù chính của dân tộc là thực dân Pháp, nhờ đó mà giữ vững được
chính quyền cách mạng trong điều kiện ngàn cân treo sợi tóc. Đảng ta đã từng

6

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 12, tr 407.


12

tổng kết và coi đó là một mẫu mực thành công về phát hiện mâu thuẫn và giải
quyết mâu thuẫn.
Với nhãn quan chính trị nhạy bén và sâu sắc, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện
ra mâu thuẫn khi nó mới xuất hiện, đặc biệt trong những bước ngoặt lịch sử. Khi
quân Đồng minh thắng Nhật, Người đã nhận thấy thực dân Pháp sẽ quay trở lại
xâm lược nước ta, hoặc ngay sau chiến thắng Điện biên phủ, Người đã sớm thấy rõ
Mỹ sẽ thay chân Pháp xâm lược nước ta và dân tộc ta còn phải tiếp tục đánh Mỹ.
Trong quan hệ nội bộ, khi xuất hiện mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ, cách
giải quyết của Người là phát huy mặt tích cực, nêu cao tinh thần đồng chí, yêu
thương nhau; đề cao phê bình và tự phê bình, đặc biệt là tự phê bình, biến đại sự
thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự, có lý có tình, bảo đảm sự đoàn kết thống

nhất vì sự nghiệp chung.
Trên cơ sở nắm vững tư tưởng bản chất của phép biện chứng, là “tự thân
vận động”, “tự thân phát triển”, thông qua đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên
trong. Trong xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng cho ngang tầm với nhiệm vụ cách
mạng, Người luôn nêu cao tinh thần “tự chỉnh đốn”, “tự đổi mới” để chiến
thắng giặc “nội xâm”, chiến thắng giặc “ngoại xâm”. Vận dụng quy luật phê
bình và tự phê bình, Người luôn nhắc nhở là phải coi trọng cả phê bình và tự phê
bình, nhưng trước hết là phải đề cao “tự phê bình”, tự phê bình thường xuyên,
hằng ngày như soi gương rửa mặt. Trong kháng chiến và kiến quốc, Hồ Chí
Minh và Đảng ta luôn nêu cao tinh thần “độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường”, và
đề ra phương châm “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, đồng thời ra
sức tranh thủ sự chi viện quốc tế”.
2.4. Quan điểm phát triển, đổi mới, hướng về cái mới


13

Trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, nguyên tắc phát triển được quán
triệt, vận dụng hết sức phong phú, gắn với sự đổi mới, phát triển của cách mạng,
của xã hội và của mỗi con người.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng là đổi mới, xã hội và con người cũng
luôn đổi mới. Do vậy, cần nắm vững quy luật, xu hướng phát triển của cách mạng,
của xã hội, của con người; nhạy bén phát hiện cái mới, tin tưởng ở cái mới, bồi
dưỡng và phát huy cái mới để mà tiến lên. Đồng thời, phải phê phán cái bảo thủ, lạc
hậu.
Nắm vững quy luật, xu hướng phát triển của cách mạng, của cuộc kháng
chiến, kết hợp với những tư tưởng triết học phương Đông, Hồ Chí Minh đã có
những dự báo hết sức đúng đắn, thần kỳ. Ngay khi cách mạng còn trong bóng tối,
từ những năm 1940 -1942, khi cách mạng mới chuyển lên cao trào, trong diễn ca
“Lịch sử nước nhà”, Người đã dự đoán: “1945 – cách mạng thành công”. Ngay

trong lúc khó khăn phức tạp nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp, Người vẫn
rất lạc quan, tin tưởng vào sự thành công của cuộc kháng chiến ấy, Người đã nói:
“Ngày nay tuy châu chấu đá voi. Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”7.
Trong những ngày vô cùng ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta, Người đã chỉ rõ: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân ta dù phải kinh qua gian khổ, phải hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất
định thắng lợi hoàn toàn”8; và Người cũng khẳng định: “Còn non, còn nước, còn
người; Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”9.
Trong xem xét và hành động, Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc phát hiện cái
mới, tin ở cái mới, thực hiện cái mới, luôn chú ý ủng hộ vun đắp cái mới, Người chỉ
rõ: “Xã hội, con người đều đổi mới, không đổi mới là lạc hậu”. Người đã trực tiếp

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995,tập 6, tr 164.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995,tập 12, tr 509.
9 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995,tập 12, tr 511.
7
8


14

“Đời sống mới”, “Người tốt, việc tốt”… lấy thi đua yêu nước làm động lực, khuyến
khích sáng tạo, xây dựng điển hình tiên tiến, thúc đẩy nhân tố mới phát triển.
Trong “Di chúc” của mình để lại, Người căn dặn: Phải xoá bỏ cái cũ, đem
lại cái mới; xoá bỏ cái xấu xa, đem lại cái tốt tươi. Đó là một công việc khổng lồ,
phải động viên toàn Đảng, toàn dân mới làm được.
2.5. Quan điểm về con người, quan điểm về nhân dân
Tư tưởng về con người, về nhân dân được Hồ Chí Minh kế thừa từ những tinh
hoa của dân tộc, đó là tư tưởng: “Nước lấy dân làm gốc”, “Khoan thư sức dân để
làm kế sâu rễ bền gốc”, “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”… Đồng

thời, Người cũng quán triệt quan điểm mác xít: Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân. Từ những kinh nghiệm hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí
Minh đã nêu cao quan điểm về con người, về nhân dân: Tất cả vì con người và do
con người, tất cả vì dân và do dân; con người là vốn quý nhất, to lớn nhất. Tư tưởng
nhân văn đó của Hồ Chí Minh được thể hiện trên nhiều phương diện:
Trước hết, đó là triết lý sống, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh: Sống vì
nước, vì dân, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xã hội, con người.
Không chỉ là triết lý sống, mà nó còn trở thành mục tiêu chiến lược phát
triển con người – con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực, mọi sự phát triển
đều hướng vào con người, vì con người, do con người và cho con người. “Phải
biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống tươi vui
hạnh phúc”10. Phải dựa vào sức mạnh, trí tuệ của nhân dân. Do đó, phải hết sức
quan tâm đến giáo dục, đào tạo, đến chính sách khoa học, công nghệ, đến sự
nghiệp trồng người và chính sách bồi dưỡng nhân lực, phát triển nhân tài cho đất
nước.

10

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 8, tr 494.


15

Với Hồ Chí Minh, quan điểm về con người, về nhân dân còn được thể hiện
ở tư tưởng chính trị – xã hội, khẳng định vai trò của nhân dân: “dân làm chủ”,
“dân làm gốc”. Bao nhiêu lợi ích đều thuộc về dân, bao nhiêu quyền lực đều của
dân; mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi nhân dân. Trong công cuộc kháng
chiến phải “động viên toàn dân, vũ trang toàn dân”. Trong sự nghiệp xây dựng
phát triển đất nước cũng phải “động viên nhân dân, tổ chức và giáo dục toàn dân,
dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.

Quan điểm về nhân dân, về con người của Hồ Chí Minh đã trở thành tác
phong, phương pháp công tác và là lẽ sống của Người: Tin ở dân, dựa vào dân,
học hỏi dân, có dân là có tất cả “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần
dân liệu cũng xong”11. Trong tư tưởng của Người về nhân dân, về con người với
những nét đắc sắc riêng có: Vì dân nhưng không phải theo kiểu ban ơn, quý dân
nhưng không phải là sự thương sót của kẻ bề trên, trồng người phải quan tâm phát
huy sức mạnh của dân, lấy sức dân để giải phóng cho dân.
2.6. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp
Đây là một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản trong giải quyết những
vấn đề xã hội của Hồ Chí Minh, Người đã giả quyết mối quan hệ này rất phù hợp
và sát với tư tưởng của người phương Đông.
Trong xem xét động lực phát triển xã hội, người không chỉ dừng lại ở
nguyên lý chung của chủ nghĩa duy vật lịch sử coi “đấu tranh giai cấp là động
lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng” và “quan hệ giai cấp là quan hệ
xã hội cơ bản chi phối toàn bộ những quan hệ khác trong xã hội có giai cấp”.
Xuất phát từ thực tiễn lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc
Việt Nam, từ tính chất xã hội Việt Nam từ khi thực dân Pháp xâm lược, thống trị.
Trên cơ sở kế thừa quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh

11

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 12, tr 212.


16

không những đã thấy rõ vai trò của vấn đề giai cấp, mà còn khẳng định vai trò to
lớn quan trọng của vấn đề dân tộc.
Trong điều kiện cụ thể xã hội Việt Nam, mối quan hệ dân tộc và giai cấp,
theo Hồ Chí Minh cần được giải quyết trong sự tương tác, trong một chỉnh thể

thống nhất đó là:
- Trong dân tộc, giai cấp công nhân và giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại
đa số. Do đó, “Giải phóng dân tộc cũng là giải phóng giai cấp, thực chất là giải
phóng giai cấp”.
-Quyền lợi của dân tộc và quyền lợi của giai cấp cơ bản là thống nhất với
nhau. Có giải phóng được dân tộc thì mới giải phóng được giai cấp. Không giành
được độc lập dân tộc thì quyền lợi của bộ phận, của giai cấp ngàn năm cũng
không giành lại được, không thể giải phóng được. Do đó, giai cấp công nhân phải
nắm lấy ngọn cờ dân tộc, dương cao ngọn cờ cách mạng. Như vậy, theo Hồ Chí
Minh: giai cấp là một bộ phận của dân tộc, nằm trong dân tộc, từ đó Người đã giải
quyết đúng đắn hài hoà mối quan hệ chung – riêng, mối quan hệ giữa cái toàn cục
với cái bộ phận một cách biện chứng, khoa học.
- Quyền lợi của dân tộc chỉ được đảm bảo triệt để khi đặt dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân, gắn với quyền lợi của giai cấp công nhân và giai cấp nông
dân. Do đó, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và
giải phóng con người.
- Sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc là bản chất
của Đảng ta, Nhà nước ta. Cơ sở xã hội – giai cấp và sức mạnh của chế độ ta, Nhà
nước ta là sức mạn đại đoàn kết toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh công - nông
– trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam - đội tiền phong của giai
cấp công nhân.


17

Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giai cấp – dân tộc một cách sáng tạo,
linh hoạt là một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của Hồ Chí Minh trong xem
xét và giải quyết những vấn đề đặt ra của xã hội, của cách mạng. Đó cũng là cơ sở
phương pháp luận của đường lối “Độc lập, tự chủ và chủ nghĩa xã hội” của Đảng
ta. Nhờ nguyên tắc đúng đắn sáng tạo đó, Đảng ta đã tạo nên sức mạnh to lớn

chưa từng có trong lịch sử của dân tộc ta, đưa dân tộc ta đi từ thắng lợi to lớn này
đến thắng lợi vĩ đại khác, chiến thắng mọi kẻ thù.
2.7. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
Là một quan điểm tư tưởng đối nhân xử thế, thể hiện tư tưởng biện chứng
sâu sắc của người phương Đông, nó phù hợp với đặc tính dễ “thích ứng”, phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh của con người Việt Nam. Do đó, trong thực tiễn tư
tưởng quan điểm này đã được nhân dân ta và các nhà chính trị – quân sự nhận
thức, vận dụng và sử dụng nó.
Với Hồ Chí Minh, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là nguyên tắc tối cao số
một trong tư duy và hành động, trong xem xét và giải quyết những vấn đề thực
tiễn đặt ra, những vấn đề chiến lược và sách lược. Người đã vận dụng nguyên tắc
này hết sức hiệu quả trong cuộc đời hoạt động cách mạng nhiều gian nan, thử
thách và cũng hết sức vẻ vang của mình. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là nguyên
tắc và cũng là phương pháp cách mạng quan trọng mà Người đã dặn lại cụ Huỳnh
Thúc Kháng, quyền Chủ tịch nước và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước,
khi Người sang dự Hoà đàm Phông-ten-nơ-blô với tư cách là thượng khách của
chính phủ Pháp. Cụ Huỳnh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước khi đó đã
sử dụng một cách hiệu nghiệm lời căn dặn của Người, góp phần giữ vững chính
quyền cách mạng, ổn định chính trị – xã hội trong những ngày Người xa đất nước.
Theo Hồ Chí Minh, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” vì tình hình, xã hội, con
người luôn luôn biến đổi, thiên biến vạn hoá. Tuy nhiên, trong đó lại có những yếu tố
có tính ổn định, có tính bất biến, những chân lý vĩnh hằng. Người đã nói: Nước Việt


18

Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý
ấy không bao giờ thay đổi. Người cũng đã từng khẳng định: Lòng yêu thương nhân
dân và nhân loại của tôi không bao giờ thay đổi. Nhưng, Người lại nói: “Thế giới,
con người đều đổi mới”, cách nhìn, cách xử lý cũng đổi mới, luôn linh hoạt.

Nguyên tắc, phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là phải lấy cái căn
bản, cái nguyên tắc, cái không thể thay đổi làm trọng, trên cơ sở đó tuỳ vào điều
kiện cụ thể để giải quyết cho phù hợp. Do đó, trong mỗi giai đoạn cách mạng,
cũng như suốt tiến trình cách mạng, chiến lược cách mạng là không thể thay đổi,
là “bất biến”, còn sách lược cách mạng, các hình thức, biện pháp cách mạng thì
hết sức linh hoạt, là “ứng biến”, thay đổi cho phù hợp với tình hình cụ thể.
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, là quan điểm, phương pháp luận cách mạng,
khoa học, là sự vận dụng tổng hợp các nguyên tắc, các quy luật của phép biện
chứng, từ nguyên tắc khách quan, đến toàn diện, lịch sử, cụ thể đến phát triển. Do
đó, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” không chỉ là một nguyên tắc cụ thể mà là phép
biện chứng Hồ Chí Minh, là phương châm xem xét và hành động đúng đắn, khoa
học được Người vận dụng, sử dụng, xử lý thành công trong mọi trường hợp, mọi
hoàn cảnh, mọi tình huống.
Như vậy, chúng ta khẳng định rằng: Có một phương pháp luận Hồ Chí
Minh. Về bản chất nó là phương pháp luận Mác – Lênin trong điều kiện cách
mạng Việt Nam, phù hợp với điều kiện cách mạng Việt Nam. Sự vận dụng, bổ
xung và phát triển, kết hợp với truyền thống tư duy dân tộc, tinh hoa triết học thế
giới, tạo nên đặc sắc trong sự vận dụng, xem xét, xử trí của người phương Đông
và của riêng Hồ Chí Minh. Nội dung của phương pháp luận Hồ Chí Minh bao
gồm những đặc trưng cơ bản như đã được trình bày, tuy nhiên, đó chưa phải là tất
cả, mà nó còn cần phải được tiếp tục nghiên cứu cho xứng đáng với tầm vóc của
tư tưởng Hồ Chí Minh.


19

Phương pháp luận Hồ Chí Minh, đó là một phần trong di sản tư tưởng mà
Người để lại cho các thế hệ đời sau tiếp thu, lĩnh hội và vận dụng xử trí những vấn
đề đặt ra trong cuộc sống và trong công việc. Phương pháp luận Hồ Chí Minh
ngày nay đang được biểu hiện sinh động, sáng tạo và phát triển trong đời sống và

lối sống của người Việt Nam.
Phương pháp luận Hồ Chí Minh rất vĩ đại mà giản dị, thực sự giản dị tới
mức lão thực. Người rất coi trọng kinh nghiệm thực tiễn mà không rơi vào chủ
nghĩa kinh nghiệm, Người rất coi trọng lý luận mà không rơi vào giáo điều sách
vở. Người rất thiết thực, coi trọng thực tế mà không rơi vào thực dụng, Người rất
coi trọng ý chí mà không rơi vào duy ý chí, Người rất dân tộc, là hình ảnh tiêu
biểu của dân tộc mà không rơi vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi, biệt phái.
Người là mẫu mực của tinh hoa truyền thống mà vẫn không xa cách hiện đại, thời
đại. Người không chỉ là hiện thân của những giá trị tinh hoa lung linh hiện tại mà
còn là đại biểu củ những giá trị ưu tú trong tương lai…Chính đó là những nét độc
đáo tạo nên sự đặc sắc riêng có của tư tưởng – phương pháp luận Hồ Chí Minh.
3. Vận dụng phương pháp luận Hồ Chí Minh để tìm hiểu tư tưởng
triết học Hồ Chí Minh
Trong cuộc đời hoạt động đấu tranh cách mạng của mình để cứu nước,
cứu dân, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã kết hợp
học đi đôi với hành, lý luận gắn với hoạt động thực tiễn. Người đã khổ công trong
rèn luyện, học tập, nghiên cứu, không chỉ để tích luỹ tri thức, học vấn và văn hoá
mà còn để trau dồi phương pháp, tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản lĩnh hành động
sáng tạo và nhất quán, tự hình thành cho mình lý thuyết khoa học, chủ kiến chính
trị và đạo lý nhân văn. Tất cả những cái đó, với Hồ Chí Minh, không phải là để
cứu cánh mà để thực hiện đến cùng mục đích, ham muốn tột bậc của Người: Giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người; đi tới
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Do đó, toàn bộ lý luận và phương pháp của


20

Hồ Chí Minh đều lấy thực tiễn làm điểm xuất phát, lấy giải phóng và phát triển
con người làm mục tiêu, động lực.
Quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu,

nghiên cứu các chủ nghĩa, các trào lưu tư tưởng, các học thuyết trên khắp thế giới
để cuối cùng Người lựa chọn chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học,
vì theo Người, đó là thứ chủ nghĩa chân chính nhất, tiên tiến nhất và cách mạng
nhất nên Người ủng hộ và tin theo. Là nhà triết lý trong hành động, cho nên triết
lý Hồ Chí Minh luôn nhằm vào mục đích đấu tranh xoá bỏ áp bức, bóc lột, giành
lấy độc lập tự do cho dân tộc, cho các dân tộc, đem lại hạnh phúc cho nhân dân
mình và tất cả mọi người trên thế giới. Đó là một triết lý nhân sinh mà Người đã
theo đuổi suốt cả cuộc đời.
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là thế giới quan duy vật và phương pháp
biện chứng mác xít, được cụ thể hoá và hiện thực hoá một cách sinh động ở trong
điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó không chỉ là quan niệm mà là hành
động, hơn thế nữa, đó chính là thực hành triết học duy vật biện chứng vào cuộc
sống và thực tiễn cách mạng.
Hồ Chí Minh là nhà triết lý hành động, triết lý thực tiễn. Do đó, đặc trưng
nổi bật trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là triết học chính trị – thực tiễn, triết
học hành động, triết học nhân sinh và cách mạng. Người là bậc thầy trong thực
hành phép biện chứng duy vật vào lĩnh vực chính trị – xã hội. Nói cách khác triết
học Hồ Chí Minh là triết học giải phóng, triết học phát triển. Có một triết lý sâu
sắc, phong phú, đa dạng ẩn chứa trong mọi tác phẩm của Người, trong triết học
nhân sinh của Người, trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.
Từ góc độ nhận diện đặc trưng lô gíc triết học Hồ Chí Minh chúng ta sẽ
thấy, bắt nguồn từ những kiến giải lý luận và tổng kết thực tiễn, Người đã xây
dựng hệ thống và phương pháp của mình theo ba lớp quan hệ chủ yếu sau đây:


21

- Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đây chính là đường lối triết học Hồ Chí Minh thể hiện sự kiên định và nhất quán
của Người trong suy nghĩ và trong hành động.

- Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về giải phóng và phát triển. Thể hiện
phương pháp triết học hành động.
- Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về con người và văn hoá. Thể hiện mục
tiêu triết học nhân sinh Hồ Chí Minh.
Những lớp quan hệ chủ yếu này như những dòng tư tưởng lớn chi phối
nhận thức và hành động của Hồ Chí Minh. Nó không những thấm nhuần và thấu
suốt trong các tác phẩm thành văn của Người, mà nó còn được chứng thực trong
thực tiễn cách mạng, trong cuộc đời và sự nghiệp của Người, gắn bó hữu cơ dân
tộc và nhân dân mình, với thế giới nhân loại, với truyền thống và thời đại.
3.1. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội
Đây là nội dung cơ bản chủ đạo trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, có ý
nghĩa xuyên suốt và nhất quán trong hoạt động lý luận và thực tiễn của Người.
Muốn thực hiện độc lập dân tộc thì phải tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc theo lập trường của giai cấp vô sản do giai cấp vô sản mà đội tiền phong
của nó là Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Như vậy, cách mạng giải phóng dân
tộc nằm trong quỹ đạo vận động của cách mạng vô sản, mang bản chất của cách
mạng vô sản, để từ mục tiêu độc lập dân tộc phát triển tới mục tiêu xã hội chủ
nghĩa. Độc lập dân tộc là tiền đề đi tới chủ nghĩa xã hội và chỉ có chủ nghĩa xã hội
mới bảo đảm đầy đủ, thực chất và bền vững cho độc lập dân tộc. Ở đây, có biện
chứng nhân quả, có sự gặp gỡ tự nhiên, tất yếu giữa yêu cầu bức xúc của dân tộc
với xu thế cơ bản của thời đại được mở ra từ cách mạng Tháng Mười. Đây là câu


22

trả lời mà Hồ Chí Minh đã tìm thấy, đã phát hiện ra về con đường phát triển của
xã hội Việt Nam, về quy luật vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam
trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Khẳng định mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí

Minh đã tỏ rõ năng lực tư duy biện chứng và tính nhất quán triệt để về quan điểm
chính trị của mình. Đây là chỗ vượt trước của thế giới quan triết học Hồ Chí
Minh, và đường lối chính trị của Hồ Chí Minh so với các thế hệ đương thời, kể cả
các bậc tiền bối của mình.
Chính ở trong quan điểm triết học Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội mà hình thức của nó như một cặp phạm trù và nội dung như một
nguyên lý, một tư tưởng, một quy luật của cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỷ
XX. Hồ Chí Minh đã thấm nhuần bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa
Mác – Lênin, thống nhất lý luận và thực tiễn của phong trào vận động chính trị,
kết hợp hài hoà mục đích trực tiếp, trước mắt với triển vọng lâu dài của đường lối
chính trị đó. Gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã vận
dụng quan điểm và phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin
một cách sáng tạo để xác lập đường lối chính trị của cách mạng Việt Nam ở thế
kỷ XX. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đó là triết học chính trị của
Việt Nam mà người đặt nền móng và phát triển nó, thực hành và khẳng định nó là
Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là tư tưởng triết học chủ đạo, nhất
quán của Hồ Chí Minh, cho thấy rõ một trong những đặc trưng nổi bất trong triết
học của Người là triết học chính trị thực tiễn, triết học hành động, triết học nhân
sinh và cách mạng; triết học hướng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra
thông qua hành động vì con người.
3.2. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về giải phóng và phát triển


23

Hồ Chí Minh thực sự tỏ rõ là một người có tư tưởng đổi mới, có đầu óc
cách tân, có năng lực và bản lĩnh sáng tạo lớn trong tư duy và hành động. Đổi mới
và sáng tạo để thực hiện mục tiêu giải phóng và phát triển, là tư tưởng triết học
đặc sắc của Hồ Chí Minh. Nhờ đó, triết học Hồ Chí Minh từ quan niệm đến

phương pháp nổi bật một đặc trưng tương ứng là tính hiện đại, linh hoạt và năng
động. Nhờ đặc trưng này mà tư tưởng triết học Hồ Chí Minh không những có sức
thuyết phục về lý luận và phương pháp mà còn có sức truyền cảm về đạo đức và
tinh thần, sự thúc đẩy, hướng dẫn và hành động và lối sống vớ con người và cộng
đồng xã hội.
Tư tưởng giải phóng của Hồ Chí Minh, trước hết là giải phóng dân tộc
mình ra khỏi kiếp nô lệ lầm than, rộng hơn là giải phóng tất cả các dân tộc thuộc
địa bị áp bức, bóc lột trên thế giới. Được suy tôn là lãnh tụ của phong trào giải
phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã có những cống hiến xuất sắc với phong trào cách
mạng thế giới ở thế kỷ XX, bởi Người đã vạch ra lý luận chống chủ nghĩa thực
dân, đồng thời truyền bá và thực hành lý luận đó ở Việt Nam. Thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam có sức cổ vũ to lớn đối với các dân tộc đang
bị áp bức trên thế giới đấu tranh cho độc lập tự do. Nó chứng thực sức sống của tư
tưởng triết học Hồ Chí Minh về giải phóng. Nếu độc lập dân tộc là tiền đề và điều
kiện để đi tới chủ nghĩa xã hội, thì giải phóng cũng là tiền đề và điều kiện của phát
triển. Lô gíc này cho thấy, giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc trước hết là một
cuộc giải phóng chính trị. Tính nhiều hàm nghĩa của giải phóng là ở chỗ đó, là giải
phóng ý thức, tinh thần xã hội, giải phóng mọi năng lực xã hội, nhằm huy động
mọi khả năng, mọi tiềm lực và tiềm năng cho phát triển. Khi quyết định lựa chọn
con đường phát triển cho cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh
cũng đã ý thức rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo chắc chắn, bền vững
nhất của độc lập dân tộc; chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể đem lại độc lập – tự
do – hạnh phúc cho tất cả các dân tộc và loài người trên trái đất. Phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa cũng chính là xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, làm


24

cho chế độ xã hội đó luôn phát triển, tiến bộ, hoàn thiện không rơi vào trì trệ, xơ
cứng, hay suy thoái. Vì vậy, Người đứng trên quan điểm động để trình bày bản

chất của chủ nghĩa xã hội, quan niệm chủ nghĩa xã hội như một cơ thể sống, luôn
biến đổi và phát triển: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội mà đời sống vật chất
ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày một tốt, xã hội ngày một tiến.
Một xã hội được coi là phát triển thì phải là một xã hội giàu có và văn
minh, mọi người trong xã hội đều được giải phóng, đều có cơ hội phát triển cá
nhân một cách toàn diện. Một xã hội phát triển đồng đều trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội. Muốn đạt được mục tiêu của giải phóng và phát triển thì phải đổi
mới cách nghĩ, cách làm, bước đi và biện pháp. Hồ Chí Minh là người thiết kế và
thực hành chương trình đổi mới của cách mạng Việt Nam. Người đã vượt ra khỏi
lối mòn cũ từ sự lựa chọn con đường và giải pháp cứu nước, cứu dân. Người luôn
nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, chủ động sáng tạo trong tư duy và hành động.
Không có đầu óc đổi mới, không thể có cách tiếp cận độc đáo, mới mẻ của Hồ
Chí Minh đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, đối với chủ nghĩa xã hội và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Một biểu hiện sinh động, chân thực điển hình về sự
cách tân và đổi mới trong cách nghĩ và trong cách hành động của Hồ Chí Minh đó
là, việc Người coi chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ là học thuyết lý luận khoa
học mà còn là phương pháp, đạo lý, văn hoá. người chủ trương tìm tòi chân giá trị
của chủ nghĩa đó ở tinh thần và phương pháp để ứng xử với con người và công
việc. Người định nghĩa chủ nghĩa xã hội là xa lạ, đối lập với chủ nghĩa cá nhân.
Người xem chân lý không chỉ có ý nghĩa nhận thức luận mà còn từ phương diện
nhân bản của nó, cái gì có lợi cho dân, đem lại điều gì tốt đẹp cho dân, cái đó là
chân lý.
Tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc”(1947) là tác phẩm lý luận về đổi mới
được Người viết cách đây 60 năm. “Di chúc”(1969) của Người là một luận
cương đổi mới và một kế hoạch trù tính rất nhiều việc phải làm trong công cuộc


25

đổi mới. Đó là cuộc chiến đấu chống lại mọi cái cũ kỹ, lạc hậu, hư hỏng và xây

dựng cái mới, cái tốt tươi, tiến bộ.
3.3. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh bàn về vấn đề con người và văn
hoá
Con người và văn hoá là tiêu điểm, là mục tiêu cao quý nhất của toàn bộ
triết lý và tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh, đó là giá trị cốt lõi của chủ nghĩa
nhân văn Hồ Chí Minh. Hơn nữa nó còn là động lực của phát triển, động lực thúc
đẩy Người hành động, là những giá trị thiêng liêng nhất mà vì nó Người đã ký
thác cả cuộc đời và sự nghiệp của mình, Người đã dâng trọn đời mình cho độc
lập, tự do của Tổ quốc, của nhân dân. Do đó, trong tư tưởng triết học của Hồ Chí
Minh còn nổi bật một đặc trưng đó là tầm cao của chủ nghĩa nhân đạo kết hợp với
chiều sâu của chủ nghĩa nhân văn. Đó là sự gắn liền trong chỉnh thể lý luận của
Người các thuộc tính căn bản nhất của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh: Thực tiễn,
cách mạng – khoa học và nhân văn.
Văn hoá có một giá trị đỉnh cao, quy tụ mọi giá trị, đó là giá trị bản chất
người – giá trị người, và con người trong sự hoàn thiện của nó là giá trị cao nhất.
Sự hoàn thiện nhân cách người, đó còn là chiến thắng lớn nhất của con người, của
văn hoá người.
Thấu hiểu được điều đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới công việc giáo
dục, đào tạo con người và phát triển văn hoá. Ở đây có sự hoà quyện mật thiết
giữa chiến lược con người “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người”12; “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con
người xã hội chủ nghĩa”13, với chiến lược văn hoá “Văn hoá phải soi đường cho
quốc dân đi”, làm cho dân tộc ta trở thành một dân tộc thông thái, phải chu trọng
mở mang giáo dục, nâng cao học thức, văn hoá cho nhân dân, phải diệt dốt đi đôi
12
13

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 9, tr 222.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 9, tr 375.



×