Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN sự vận DỤNG và PHÁT TRIỂN SÁNG tạo lý LUẬN CHỦ NGHĨA mác lê NIN của CHỦ TỊCH hồ CHÍ MINH vào TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.25 KB, 20 trang )

SỰ VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO LÝ LUẬN
CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
VÀO TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
================================

Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống các quan điểm lý luận và phương
pháp khoa học được kết tinh và là đỉnh cao thành tựu trí tuệ của loài người,
của tinh hoa văn hoá mà nhân loại đã sáng tạo ra. Mác - Ăngghen cũng như
Lênin đã kế thừa có chọn lọc những thành tựu khoa học, những giá trị tư
tưởng và văn hoá, những tiền đề kinh tế, chính trị xã hội mà nhân loại đã đạt
được, bằng thiên tài của trí tuệ cộng với sự lao động nghiêm túc, vượt qua
mọi trở ngại, khó khăn, những cám dỗ của vật chất và vòng cương toả hà
khắc của chế độ chính trị đương thời, các ông đã để lại cho nhân loại một di
sản vô cùng quý báu, một cơ sở lý luận khoa học để giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, giải phóng con người.
Chủ nghĩa Mác-Lê nin là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra
mục tiêu, chỉ rõ con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch
và bóc lột, thoát khỏi đói nghèo và tha hoá về nhiều mặt. Đồng thời học
thuyết đó chỉ ra lực lượng cách mạng thực hiện sự nghiệp giải phóng và phát
triển xã hội là giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đem lại niềm tin vào
khả năng và sức mạnh của chính mình.
Học thuyết đó cũng chỉ ra quy luật của sự giải phóng và phát triển xã
hội. Đó là quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, về sự chuyển biến từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế
xã hội khác không phải diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua cuộc đấu
tranh giai cấp gay go, quyết liệt. Từ đó, Mác - Ăngghen và Lênin đã trực tiếp
nghiên cứu sự vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra


2


quy luật về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản, cũng như sự thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội như một tất yếu thông qua cuộc cách mạng xã hội.
Bản chất khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin còn thể
hiện ở chỗ: Đó là học thuyết mở, không cứng nhắc, bất biến mà đòi hỏi luôn
được bổ sung, tự đổi mới, tự phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân
loại. Mác - Ăngghen cũng như Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của
các ông không phải là cái đã xong xuôi, bất biến, không phải là giáo điều mà
chỉ là kim chỉ nam cho hành động. Nó gắn liền với sự phát triển của phong
trào cách mạng, với thực tiễn vận động của lịch sử, hay nói cách khác học
thuyết đó chỉ đưa ra cơ sở và phương pháp luận cho suy nghĩ và hành động.
Đó hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa giáo điều xơ cứng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết của sự phát triển, bao hàm cả sự
phát triển của chính học thuyết đó với tinh thần phê phán và tự phê phán. Bởi
có nhiều vấn đề mà các ông chưa có thời gian nghiên cứu làm sáng tỏ hoặc do
hạn chế của lịch sử, nên những luận điểm của các ông cần phải điều chỉnh
cho sát với thực tiễn, các ông cũng đòi hỏi những người cách mạng đời sau bổ
sung và phát triển làm cho học thuyết đó ngày càng hoàn thiện và gắn liền với
thực tiễn. Đó cũng chính là linh hồn sống của chủ nghĩa Mác-Lênin, thể hiện
bản chất khoa học và cách mạng của nó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 – 1969) - Anh hùng giải phóng dân tộc,
nhà văn hoá kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng
của Người gắn liền với lịch sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam. Bằng thiên tài
trí tuệ và bản lĩnh cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành
công hệ quan điểm cách mạng toàn diện, hệ thống và sáng tạo để truyền bá vào
Việt Nam, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ
nguyên độc lập, tự do. Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng
ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, về tinh thần đoàn kết chiến đấu, về đạo
đức cách mạng: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Sự nghiệp, tư tưởng, đạo



3
đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại là tài sản tinh thần vô giá của các thế hệ
người Việt Nam, luôn tỏa sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam tiến lên giành
những thắng lợi vẻ vang và đang vững bước trên con đường đổi mới vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, xã hội công bằng, văn minh.
Hệ thống tư tưởng của Người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
được hình thành và kiểm nghiệm của lịch sử đã minh chứng một cách sinh
động Người là nhà hoạt động thực tiễn, nhà lý luận tiên phong về giải phóng
dân tộc và xây dựng CNXH. Có được hệ thống tư tưởng, cùng những giá trị
thực tiễn ấy là quá trình bôn ba hơn ba mươi năm ra đi qua các châu lục nhằm
tìm con đường cứu dân, cứu nước.
Hơn một thế kỷ đã trôi qua nhưng những giá trị lý luận và thực tiễn về
con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở Việt Nam theo
con đường cách mạng vô sản, theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã
giành được nhiều thành công lớn, có được điều đó ngoài bản chất cách mạng,
khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin , Chủ tịch Hồ Chí Minh đóng vai trò
quan trọng. Người đã vận dụng tài tình và có những sáng tạo độc đáo làm cho
chủ nghĩa Mác phát huy cao độ tính đúng đắn của nó, điều đó là hoàn toàn
phù hợp với những gì Mác, Anghen và Lênin đã nói và phù hợp với thực tiễn
cách mạng và hoàn cảnh lịch sử của dân tộc ta.
Những nét nổi bật của hoàn cảnh lịch sử và thực tiễn thời đại Hồ Chí
Minh đặt ra đó là dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn,
truyền thống đó đã được xây dựng qua hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc,
giai cấp công nhân Việt Nam ra đời muộn, đất nước bị đô hộ, nửa thuộc địa,
nửa phong kiến, các phong trào cứu nước theo con đường dân chủ tư sản đều
thất bại, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Tất cả đã
yêu cầu và đòi hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh phải vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện hoàn cảnh nước ta cho phù hợp. Như
người đã từng khẳng định ngay từ năm 1924: "Mác đã xây dựng học thuyết

của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử


4
châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại... Xem xét lại
chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương
Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xôviết đảm nhiệm (ban thuộc địa của
chúng tôi vừa nhận được thư mời chúng tôi tham gia công tác này)". Chính vì lẽ
đó ngay từ khi tiếp xúc với chủ nghĩa Mác, truyền bá con đường cứu nước vô
sản vào Việt Nam và trực tiếp lãnh đạo cách mạng nước ta Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã không ngừng vận dụng sáng tạo những lý luận của Mác, Anghen và
Lênin, sự vận dụng sáng tạo đó được thể hiện trên một số điểm cơ bản như sau:
Về quy luật hình thành đảng cộng sản:Theo nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Nếu chỉ bản thân phong trào
công nhân thì không thể dẫn tới thành lập Đảng Cộng sản, điều mà Lênin đã
từng chỉ ra: "Lịch sử tất cả các nước chứng thực rằng, chỉ do lực lượng của
độc bản thân mình thôi thì giai cấp công nhân chỉ có thể đi đến ý thức công
liên chủ nghĩa”(6). Trong điều kiện Việt Nam và các nước thuộc địa, Hồ Chí
Minh cho rằng, tính chất Đảng Cộng sản không chỉ ở thành phần xuất thân từ
công nhân hết thảy, mà là ý thức tư tưởng chính trị và theo đường lối của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Trong hoàn cảnh một nước thuộc địa lạc hậu, Việt Nam
chưa có đủ những tiền đề cơ bản cho một Đảng Cộng sản ra đời như ở Nga và
một số nước khác. Hồ Chí Minh đã sáng tạo trong việc kết hợp nhân tố dân tộc
và nhân tố giai cấp để thành lập Đảng Cộng sản. Nhân tố dân tộc là chủ nghĩa
yêu nước, nhân tố giai cấp là chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân.
Trong điều kiện giai cấp công nhân Việt Nam chưa phát triển về số lượng, để
tổ chức thành lập Đảng Cộng sản, Người coi trọng việc truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Theo Người, một đảng chân chính không thể là tổ chức biệt lập, đóng kín, mà

phải gắn bó mật thiết, hữu cơ với dân tộc và giai cấp, phải tiêu biểu cho cuộc
đấu tranh của dân tộc và giai cấp, phải là hạt nhân lãnh đạo và đoàn kết dân tộc
và giai cấp, phải đại biểu cho giai cấp dân tộc. Quan điểm đó được Người thể


5
hiện rõ trong tác phẩm Đường cách mệnh, và trước đó, năm 1924 Người đã
khẳng định: "Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước"(7).
Bằng việc tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, gồm những
người thanh niên yêu nước có học vấn, Người đã truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Hai
phong trào này hấp thụ mạnh mẽ chủ nghĩa Mác - Lênin tạo nên sự thay đổi
về chất, trở thành hành động cách mạng của các giai cấp, tầng lớp trong dân tộc
Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thích hợp với hoàn cảnh Việt
Nam lúc đó. Trên thực tế, tổ chức này đã làm nhiệm vụ chuẩn bị về chính trị, tư
tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phương thức
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam là sáng tạo của Hồ Chí Minh trên đường thành lập Đảng.
Yêu nước là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Phong
trào yêu nước ở Việt Nam được Hồ Chí Minh nhận thức, đưa vào là một nhân
tố cấu thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Phong trào công nhân dù có tiên tiến,
nhưng nếu không gắn bó mật thiết với phong trào yêu nước, không trở thành
nòng cốt của phong trào yêu nước thì không đứng vững được trong lòng dân
tộc, không đưa được sự nghiệp giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi. Dưới ánh
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh thấy rõ, trong thời đại mới,
phong trào yêu nước ở Việt Nam có khả năng hấp thụ chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bởi, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen cũng đã chỉ ra
rằng, giai cấp vô sản dù sinh sống trong từng quốc gia, dân tộc khác nhau,
nhưng về bản chất có tính quốc tế, kẻ thù của cách mạng mỗi nước xét cho
cùng, về bản chất cũng là một lực lượng quốc tế. Nhưng cách mạng lại diễn
ra tại địa bàn quốc gia, dân tộc, nên trước hết giai cấp vô sản phải tự quyết

định về vận mệnh của dân tộc mình, "trước hết phải giành lấy chính quyền,
phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc" (8). Do
đó, đối tượng để Hồ Chí Minh truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là
giai cấp công nhân, mà còn là những người yêu nước trong dân tộc Việt Nam.


6
Thời kỳ 1927 - 1929 là thời kỳ chuyển biến của cách mạng Việt Nam.
Phong trào công nhân Việt Nam chuyển mạnh từ tự phát đến tự giác, phong
trào yêu nước phát triển với chất lượng mới. Thực tế đó chứng tỏ chủ nghĩa
Mác - Lênin và những tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh thông qua Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thật sự thâm nhập vào toàn bộ phong
trào công nhân và phong trào yêu nước, tạo nên làn sóng cách mạng dân tộc,
dân chủ mạnh mẽ, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Trải qua quá trình chuẩn bị chu đáo về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930. Sau này,
Người đã tổng kết thành một luận điểm quan trọng: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết
hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Kết hợp nhân tố dân tộc và nhân tố giai cấp trong
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh.
Nét sáng tạo nữa trong việc đặt tên Đảng và chủ trương giải quyết vấn
đề Đảng trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương , trong khi Quốc tế Cộng sản
có chỉ thị thành lập một Đảng Cộng sản chung cho ba dân tộc Đông Dương.
Trong thảo luận tại Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh giải thích: "Cái từ
Đông Dương rất rộng và theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề
dân tộc là vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể bắt buộc các dân tộc
khác gia nhập Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý của chủ nghĩa Lênin.
Còn cái từ An Nam thì hẹp, mà nước ta có ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam
Kỳ. Do đó, từ Việt Nam hợp với cả ba miền và cũng không trái với nguyên lý
của chủ nghĩa Lênin về vấn đề dân tộc" (14), nên Hội nghị nhất trí với cách giải

thích của Người và đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ trương đó của
Người tuân thủ những nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác
- Lênin, có tính đến yếu tố dân tộc, nhằm thức tỉnh ý thức dân tộc, khơi dậy
sức mạnh của ba dân tộc Đông Dương, đồng thời tạo ra sự tin cậy về chính trị
để đoàn kết, giúp đỡ nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và có hiệu quả.
Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở
một nước thuộc địa đã được thực tế cách mạng Việt Nam và cách mạng thế


7
giới trong thế kỷ XX kiểm chứng là đúng đắn và khoa học. Đây là sự cống
hiến quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác - Lênin.
Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận
về cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin vào cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam.
C.Mác nghiên cứu CNTB trong điều kiện tự do cạnh tranh cho rằng: Cách
mạng vô sản sẽ nổ ra và giành thắng lợi ở những nước tư bản phát triển. Kế thừa
và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác trong thời đại CNTB chuyển sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin khẳng định: Cách mạng vô sản có thể nổ ra
và thắng lợi ở một số nước, thậm chí là một nước riêng lẻ của chủ nghĩa đế quốc
(một mắt xích trong sợi dây chuyền). Thời V.I.Lênin, cách mạng giải phóng dân
tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản và ông cho rằng cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc cần phải liên minh với cuộc đấu tranh của
các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa. Trên góc độ của người thuộc địa, dân tộc
bị áp bức, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Tuy nhiên, cuộc cách mạng vô sản ở đây không phải chỉ là cuộc đấu
tranh giai cấp mà là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc,
dân chủ nhân dân một phạm trù của cách mạng vô sản. Bởi vì mâu thuẫn chủ
yếu của Việt Nam lúc bấy giờ là mâu thuẩn giữa dân tộc Việt Nam với chủ

nghĩa thực dân Pháp. Điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tiễn của
cách mạng Việt Nam. Đây chính là sự vận dụng một cách tài tình, sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cách mạng Việt Nam.
Bai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về
cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc đề ra đường lối
của cách mạng Việt Nam.
Ngay trong Cương lĩnh 1930 do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo đã
khẳng định: Làm tư sản dân quyền, cách mạng và thổ địa cách mạng rồi đi tới
xã hội cộng sản. Điều đó có nghĩa là sau khi làm xong tư sản dân quyền cách


8
mạng đánh đổ thực dân Pháp xâm lược đem lại độc lập dân tộc. Làm thổ địa
cách mạng là đánh đổ bọn phong kiến, địa chủ đem lại ruộng đất cho dân cày
(sau này cả hai cuộc cách mạng cùng tiến hành song song ấy chúng ta gọi đó
là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) là đi lên CNXH tức là đi vào
giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đây là điều
hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cách mạng không ngừng của
chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc đề ra đường lối của cách mạng Việt Nam.
Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng
liên minh công - nông của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn tình hình của
cách mạng Việt Nam.
Sau khi Công xã Pari thất bại mà nguyên nhân chính là chưa thực hiện
tốt liên minh công - nông, C.Mác từng khẳng định: Cách mạng vô sản là bài
đồng ca của hai giai cấp công nhân và nông dân. Nếu không có bài đồng ca
này thì bài đơn ca ở các quốc gia nông dân sẽ là bài ai điếu. Do vậy, trong các
cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân luôn đơn độc và các cuộc cách mạng
vô sản này đã trở thành "bài ca ai điếu". Điều đó đã lý giải một cách khoa học
về vị trí và tầm quan trọng của vấn đề liên minh công - nông trong cuộc cách

mạng vô sản.
Ngay cả trong chuyên chính vô sản, V.I.Lênin khẳng định: "Chuyên
chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô
sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp
lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức, v.v.)”.
Trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề
giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân là điều tất yếu. V.I.Lênin
đặc biệt lưu ý khối liên minh công, nông trong các giai đoạn xây dựng chủ
nghĩa xã hội: "Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh
giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò
lãnh đạo và chính quyền nhà nước". Qua khối liên minh này, lực lượng đông


9
đảo nhất trong xã hội là nông dân, công nhân được tập hợp về mục tiêu chung
là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của toàn thể dân tộc. Đây là điều kiện
để giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo, đó chính là tính tất yếu về mặt
chính trị - xã hội, là yếu tố tiên quyết.
Vận dụng tư tưởng trên của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin,
trong tác phẩm Đường Kách Mệnh (viết năm 1927) cũng như việc soạn thảo
Cương lĩnh năm 1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều khẳng định: Công - nông là
gốc của cách mạng, trí thức, học trò là bầu bạn của cách mạng.
Đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam dù trong đấu tranh giành
độc lập dân tộc hay trong xây dựng và bảo vệ CNXH dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam thì liên minh công - nông - trí thức là nhân tố đóng
vai trò quyết định. Điều đó đã chứng minh một cách hùng hồn rằng: Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng liên minh công - nông
của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn tình hình của cách mạng Việt Nam.
Bốn là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về
thời cơ và tình thế cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào tình hình cách

mạng Việt Nam.
Nếu như chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định về tình thế cách mạng:
Giai cấp thống trị không còn thống trị như trước nữa
Giai cấp bị trị không còn chịu sự thống trị như trước nữa
Tầng lớp trung gian đã đứng về phía giai cấp bị trị.
Thì tình thế và thời cơ cách mạng Việt Nam tháng Tám năm 1945 đã
được Người vận dụng một cách sáng tạo.
Nhật đầu hàng đồng minh ngày 15 tháng 8 năm 1945. Ngày 16-8-1945,
Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào, tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của
Đảng Cộng sản Đông Dương, lập Uỷ ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch. Ngay sau Đại hội Quốc dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu
gọi đồng bào cả nước: “Giờ quyết định vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn
quốc đồng bào hãy đứng lên đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. “Lúc này


10
thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường
Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Năm là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo quan
điểm về vai trò quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác-Lênin vào tình hình
cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam mà trọng tâm chính là khối đại
đoàn kết dân tộc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, quần chúng nhân dân là
những người sáng tạo nên lịch sử. Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất
vật chất, sản xuất các giá trị tinh thần, là lực lượng hùng hậu của các cuộc
cách mạng xã hội.
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ tự do cạnh tranh, C.Mác
khẳng định: Cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân, những người
bị áp bức, bất công, bị bóc lột.
Phát triển toàn diện chủ nghĩa Mác trong điều kiện CNTB chuyển sang

giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin từng chỉ rõ: Lực lượng sản xuất hàng
đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động.
Nghiên cứu về tình hình thực tế lúc bấy giờ, V.I.Lênin viết: Cách mạng
là ngày hội của những người bị áp bức và bị bóc lột. Không lúc nào quần
chúng nhân dân có thể tỏ ra là người sáng tạo trật tự xã hội mới tích cực như
trong thời kỳ cách mạng. Trong những thời kỳ như thế… thì nhân dân có thể
làm được những kỳ công. Nhờ sức mạnh của quần chúng nhân mà thời kỳ
cách mạng có một tính sáng tạo lịch sử rộng lớn hơn, phong phú hơn, tự giác
hơn, có kế hoạch hơn, có hệ thống hơn, dũng cảm hơn và rõ ràng hơn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò quần chúng nhân dân vào tình hình cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Người khẳng định: Quần chúng là
những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần
chúng không chỉ sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội, quần chúng còn là
những người sáng tác nữa.


11
Bằng thực tiễn của ba cuộc tổng diễn tập trong 15 năm mà đỉnh cao là
cách mạng Tháng Tám năm 1945 với cuộc tổng khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi, sức mạnh vĩ đại ấy chính là sức mạnh của quần chúng nhân
dân.
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, những khó khăn trước tình thế
nghìn cân treo sợi tóc của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, việc xây dựng,
củng cố, gìn giữ chính quyền còn non trẻ, vượt qua bao sóng gió để chuẩn bị
cho cuộc kháng chiến chín năm, những thành quả ấy thuộc về quần chúng
nhân dân dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện…để có một chiến thắng lừng lẫy
Điện Biên Phủ năm 1954, chấn động địa cầu đó cũng là thành quả cách mạng
của quần chúng nhân dân; cuộc trường chinh chống Mỹ 21 năm sau với chiến

thắng vang dội của cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 đã
đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, thành quả cách mạng ấy quần chúng
nhân dân là lực lượng quyết định.
Sáu là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo vấn đề dân
tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin vào cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân
ở Việt Nam.
Khi nghiên cứu về CNTB ở điều kiện còn phát triển tự do cạnh tranh,
bàn về vấn đề dân tộc, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản tháng 2 năm
1848, C.Mác đã khẳng định: Hãy xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì
tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ.
Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn
nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo.
V.I.Lênin phát triển chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
từ thực tiễn tình hình nước Nga, một nhà tù dân tộc, V.I.Lênin đã nêu lên
Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa đây được xem như là
cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin.


12
Trên cơ sở Bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và Bản Tuyên
ngôn nhân quyền, dân quyền của Pháp năm 1791, đồng thời kế thừa và phát
huy các bản tuyên ngôn trong thời kỳ chống quân xâm lược Tống tại sông
Cầu năm 1077 với bài thơ Nam quốc sơn hà; Bình ngô đại cáo của Nguyễn
Trãi thời chống quân Minh xâm lược, Người đã viết Bản Tuyên ngôn độc lập
ngày 2 tháng 9 năm 1945 khẳng định tinh thần độc lập dân tộc và bản chất
nhân dân của cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt
Nam Dân chủ Công hoà trước hàng triệu quốc dân đồng bào.
Thông qua lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến ngày 19 tháng 12 năm
1946 và lời kêu gọi Toàn quốc chống Mỹ cứu nước năm 1967, một lần nữa

Người khẳng định tinh thần độc lập dân tộc và bản chất nhân dân của cách
mạng Việt Nam trong xây dựng CNXH ở miền Bắc và tiến hành cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam tiến tới thống nhất đất nước với khẩu
hiệu: Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Nước Việt Nam là một, dân tộc
Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao
giờ thay đổi. Đó chính là sự kế thừa và phát huy tinh thần độc lập dân tộc.
Bảy là,, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về
vấn đề xây dựng đảng cầm quyền của chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong Di chúc của Người, khi nói về Ðảng, một lần nữa khẳng
định: “Ðảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Theo tư tưởng của Bác Hồ và Ðảng ta từ trước đến nay, khái niệm Ðảng “nắm
chính quyền” hay “cầm quyền” là đồng nghĩa với Ðảng lãnh đạo chính quyền.


13
Năm 1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác Hồ viết: “Ðảng
không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”.
Năm 1960, trong bài nói tại lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Ðảng,
Người nhấn mạnh:“Ðảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân,
của dân tộc, Ðảng ta không có lợi ích gì khác”.
Quan điểm xuyên suốt trong các tác phẩm của Bác là Ðảng (nói chung) và
cán bộ, đảng viên (nói riêng) “phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ
thật trung thành của nhân dân”. Muốn vậy, Ðảng và cán bộ, đảng viên phải không
ngừng rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Năm 1953, trong thư gửi Lớp chỉnh Ðảng Liên khu 5, Bác viết: “Mục

đích chỉnh Ðảng là để dùi mài cán bộ và đảng viên thành những chiến sĩ xứng
đáng là người đày tớ của nhân dân”.
Năm 1968, làm việc với một số cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương
Ðảng về việc xuất bản loại sách “Người tốt, việc tốt”, Bác nói: “Một dân tộc,
một Ðảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Tám là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về
nhà nước vô sản vào tình hình cách mạng Việt Nam, xây dựng nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo Người là “Trong bầu trời không
có gì quí bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn
kết của nhân dân”. Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (1946) do đích
thân Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, ngay từ Điều 1 đã khẳng định: “Tất cả
quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt
nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp”.


14
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng một Nhà nước của dân “Chính
quyền từ xã đến chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương
đến xã do dân tổ chức nên”.
Nhà nước của dân, do dân và vì dân không phải nhà nước siêu giai cấp
mà là nhà nước do Đảng Cộng sản - Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Nhà nước của dân, do dân phải là một nhà nước được tổ chức và hoạt
động trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật, thể hiện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân. Ngay từ những năm 1922, trong bài “Việt Nam
yêu cầu ca” có 8 điều thì có một điều (Điều 7) Người viết:
“Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”

Theo Người: “Pháp luật là phép của dân, dùng để ngăn cản những hành
động có hại cho dân, để bảo vệ lợi ích chung của đại đa số nhân dân”.
Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Hồ Chí Minh là lấy “nhân trị” kết hợp
“pháp trị” và “đức trị”.
Nhà nước do dân bởi vì “lực lượng bao nhiêu là nhờ dân hết Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói: “dân như nước, mình như cá”; phải “đem tài dân, sức dân,
của dân làm lợi cho dân…Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động”.
Nhà nước vì dân, Người chỉ rõ: Chế độ ta là chế độ dân chủ, nhân dân
là chủ, Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê
bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ
lợi ích của nhân dân “Các công việc của chính phủ làm phải nhằm vào mục
đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên chính phủ
nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi
cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì tránh”.
Bác đã dạy rằng: Phải xây dựng một nền chính trị liêm khiết, kiên quyết
đấu tranh với ba thứ giặc nội xâm là: tham ô, lãng phí, quan liêu.


15
Tóm lại, nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu
mới - Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân là:
+ Nhà nước do nhân dân lập ra và thông qua tổng tuyển cử phổ thông
đầu phiếu
+ Quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân là thống nhất nhưng có sự
phân công, phân cấp và phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận ở tất cả các cấp.
+ Hệ thống chính quyền địa phương với tính độc lập của Hội đồng nhân
dân trên cơ sở quản lý của Chính phủ.
+ Một hệ thống tài chính mạnh mẽ, sáng suốt, và tập trung.
+ Một nền tư pháp với nguyên tắc độc lập xét xử của Toà án.
+ Một cơ chế kiểm soát quyền lực có hiệu quả do nhân dân thực hiện.

+ Một nhà nước của khối đại đoàn kết toàn dân.
Chín là, từ tình hình cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng
một cách sáng tạo công tác vận động quần chúng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cách đây hơn 60 năm, với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết bài báo “Dân vận” đăng trên Báo Sự thật số ra ngày 15-10-1949.
Bài báo chỉ có 612 chữ, nhưng là một tác phẩm kinh điển, mẫu mực, là cẩm
nang của cán bộ, đảng viên trong công tác vận động quần chúng hiện nay và mai sau.
Với bài báo ấy, người đọc dù ở trình độ nào cũng hiểu. Bác đã dùng
cách đặt câu hỏi và trả lời ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu để làm rõ một số vấn đề
cơ bản của công tác dân vận.
Mở đầu bài báo, Bác viết: “Vấn đề dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ
nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng cho
nên cần phải nhắc lại”. Tiếp đó Bác Hồ đề cập, lý giải 4 vấn đề cơ bản, quan
trọng và rất thiết thực trong công tác dân vận:
Thứ nhất, tiền đề, cơ sở của công tác dân vận: Nước ta là nước dân
chủ “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”; “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”;
“Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”, “Sự nghiệp kháng


16
chiến, kiến quốc là công việc của dân”; “Chính quyền từ xã đến Chính phủ
Trung ương do dân cử ra”; “Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức
nên”; “Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Thứ hai, dân vận là gì? “Dân vận là động viên tất cả lực lượng của mỗi
một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn
dân, để thực hành những công việc Chính phủ và Đoàn thể giao cho”.
Sau định nghĩa ngắn gọn, dễ hiểu về dân vận, Bác Hồ chỉ ra 4 bước
quan trọng, nhất thiết phải làm trong công tác dân vận.
1. Phải “tìm mọi cách làm cho mỗi người dân hiểu rõ ràng: việc đó có
lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”.

2. Làm “bất cứ việc gì cũng đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh
nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa
phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành”.
3. Phải “theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc khuyến khích dân”.
4. “Khi làm xong phải cùng dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh
nghiệm, phê bình, khen thưởng”.
Thứ ba, “Ai phụ trách dân vận?”. “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán
bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân đều phải phụ trách
Dân vận”. Bác Hồ lưu ý “Những hội viên các đoàn thể thì phải xung phong
thi đua làm để làm kiểu mẫu cho dân, giúp dân làm”.
Thứ tư, “Dân vận phải thế nào?”. Bác Hồ chỉ rất rõ những người làm
công tác dân vận phải“óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay
làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”. Sau đó, Bác chỉ
ra “khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc Dân vận. Cử ra một ban hoặc
một vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì
tốt, vận không được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom, giúp đỡ,
tự cho mình không có trách nhiệm Dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có hại”.


17
Cuối cùng, Bác Hồ kết thúc bài báo bằng một câu mang tính chân lý: “Dân vận
kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Chúng ta hoàn toàn có thể vận dụng những điều Bác Hồ nói trong bài
báo vào công tác dân vận hiện nay. Ở mọi miền đất nước, tất cả cán bộ, đảng
viên đều thực hiện tốt 6 thao tác như điều Bác dạy đó là phải “óc nghĩ, mắt
trông, tai nghe, chân đi, miệng, nói, tay làm” thì công tác dân vận chắc chắn
đạt hiệu quả cao.
Khi nghiên cứu về “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” chúng ta cũng
nhận thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng tài tình và sáng tạo nhiều luận
điểm mà Mác và Anghen đã đề ra. Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận

dụng một cách sáng tạo tư tưởng về cách mạng vô sản của C.Mác trong
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở
Việt Nam. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”.
Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về
cách mạng không ngừng của C.Mác trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
đối với việc đề ra đường lối của cách mạng Việt Nam. “Làm tư sản dân
quyền, cách mạng và thổ địa cách mạng rồi đi tới xã hội cộng sản”.
Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng
liên minh công- nông của C.Mác trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào
thực tiễn tình hình của cách mạng Việt Nam. Công - nông là gốc của cách
mạng, trí thức, học trò là bầu bạn của cách mạng.
Bốn là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về
thời cơ và tình thế cách mạng của C.Mác vào tình hình cách mạng Việt Nam.
Năm là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo quan
điểm về vai trò quần chúng nhân dân của C.Mác vào tình hình cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam mà trọng tâm chính là khối đại đoàn kết dân
tộc. Người khẳng định “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là
những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không chỉ sáng tạo ra của cải vật
chất cho xã hội, quần chúng còn là những người sáng tác nữa”.


18
Sáu là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo vấn đề dân
tộc của C.Mác trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào cuộc cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân ở Việt Nam. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể
mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.”
Bảy là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo vấn đề
xây dựng đảng cầm quyền của C.Mác trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản

vào việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. “Ðảng ta là một đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của
nhân dân”.
Tám là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận
về chuyên chính vô sản, nhà nước vô sản của C.Mác vào tình hình cách mạng
Việt Nam, xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả
quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi
giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp”. Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung
ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng của
C.Mác trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chống Mỹ cứu
nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng
của C.Mác về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội vào miền Bắc sau
1954. “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là thời kỳ
cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là
một thời kỳ quá độ về chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái
gì khác hơn nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.


19
Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng
về vấn đề dân chủ của C.Mác trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào việc
thực hành dân chủ ở Việt Nam.
Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về
vấn đề tôn giáo của chủ nghĩa Mác vào việc giải quyết tình hình tôn giáo ở
Việt Nam. “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của
thế giới không có trái tim, cũng như là tinh thần của những trạng thái xã hội
không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.
Bốn là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo quan
điểm về vấn đề gia đình của C.Mác vào việc xây dựng gia đình ở Việt
Nam. “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng
tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”. (Hồ Chí
Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002, t.9, tr.523).
Năm là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận
về vấn đề con người xã hội chủ nghĩa của C.Mác trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản vào việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa làm động lực
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. (Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002, t.10, tr.310)


20
Sáu là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo quan điểm
về vấn đề văn hóa xã hội chủ nghĩa của C.Mác vào việc xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ

thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn
hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà loài người đã sản sinh ra. Nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Bảy là, từ thực tế tình hình cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã vận dụng một cách sáng tạo những giá trị lý luận và thực tiễn về đạo đức
của C.Mác và đề ra những chuẩn mực về đạo đức cách mạng của người cộng
sản. “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Tám là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo tinh thần
quốc tế vô sản của C.Mác trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào cách mạng
Việt Nam. “Quan sơn muôn dặm là nhà. Bốn phương vô sản điều là anh em”.
Tóm lại, khi nghiên cứu về lịch sử tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa
học.Đặc biệt là người Việt Nam chúng ta không thể không lưu tâm đến những
cống hiến về mặt lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, chính sự vận
dụng thiên tài đó của Người đã giúp cho dân tộc ta “từ người nô nệ thành
người tự do”,nhân dân ta làm chủ vận mệnh của mình, đồng thời nó cùng làm
giàu thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác.Đất nước đang từng ngày thay ra
đổi thịt, công cuộc đổi mới đa giành được nhiều thành tựu, vị trí của Việt
Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định. Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo nhân dân ta xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ


21
chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng.Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta
không ngừng tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận. làm cho chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi




×