Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

TIỂU LUẬN vận DỤNG và PHÁT TRIỂN SÁNG tạo tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về DỰNG nước đi đôi với GIỮ nước TRONG GIAI đoạn mới của CÁCH MẠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.76 KB, 33 trang )

VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
DỰNG NƯỚC ĐI ĐÔI VỚI GIỮ NƯỚC VÀO XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ĐI ĐÔI VỚI BẢO VỆ TỔ QUỐC
VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Dựng nước đi đôi với giữ nước là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh về cách
mạng vô sản nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng. Tư tưởng đó kết tinh nhiều
giá trị đặc sắc tư tưởng cách mạng của nhiều dân tộc, quốc gia trên thế giới, mà cốt
lõi là chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân
tộc Việt Nam.
Tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước của Hồ Chí Minh là một hệ thống
hoàn chỉnh các luận điểm quan trọng của Người về mối quan hệ gắn bó không thể
tách rời giữa cách mạng giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con
người, giữa mục tiêu độc lập dân tộc và mục tiêu chủ nghĩa xã hội, giữa giành chính
quyền và giữ chính quyền, xây dựng chính quyền đi đôi với bảo vệ chính quyền cách
mạng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tư tưởng dựng nước đi đôi với
giữ nước của Hồ Chí Minh được thể hiện ở tư tưởng kháng chiến đi đôi với kiến
quốc, vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Khi hòa bình lập lại, miền Bắc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, miền Nam còn bị tạm chiếm, Hồ Chí Minh nêu lên tư tưởng vừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Khi đế
quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ra miền Bắc bằng Không quân và Hải quân,
Hồ Chí Minh nêu lên tư tưởng vừa sản xuất vừa chiến đấu, vừa xây dựng và bảo vệ
chủ nghĩa xã hội, vừa tiếp tục giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà
Tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước của Hồ Chí Minh đã trở thành nền
tảng lý luận trực tiếp và là kim chỉ nam cho Đảng ta trong việc đề ra đường lối cách
1
mạng qua các thời kỳ lịch sử và nhờ đó Đảng đã lãnh đạo cách mạng đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
dựng nước đi đôi với giữ nước trong giai đoạn mới của cách mạng để đi sâu phân
tích những nội dung cụ thể của việc vận dụng tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ
nước của Người trong giai đoạn mới, tạo nên sự thống nhất trong toàn Đảng, toàn


quân, toàn dân cả nhận thức tư tưởng và hành động thực tiễn trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
1. Lý luận Mác - Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nguồn gốc trực tiếp của tư tưởng Hồ Chí Minh về
dựng nước đi đôi với giữ nước.
Khi bàn đến tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước đi đôi với giữ nước là nói
đến sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời tiếp thu những kinh
nghiệm của các quốc gia dân tộc trên thế giới nhằm giải đáp những vấn đề lý luận,
thực tiễn mới về dựng nước đi đôi với giữ nước. Ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin
và kinh nghiệm của các quốc gia dân tộc trên thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm của
Cách mạng Tháng Mười Nga đã giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết thực tiễn và
phát triển tư duy của mình để hình thành, phát triển tư tưởng về mối quan hệ dựng
nước và giữ nước.
Xây dựng đất nước gắn với bảo vệ đất nước không phải là quy luật riêng của
cách mạng xã hội chủ nghĩa, cũng không phải là quy luật riêng của dân tộc Việt
Nam. Dựng nước gắn với giữ nước là yêu cầu khách quan, nảy sinh trong điều kiện
xã hội có giai cấp, nhà nước và chiến tranh, trong điều kiện tồn tại các quốc gia dân
tộc có chế độ chính trị xã hội khác nhau, đối lập nhau. Quy luật này được mọi dân tộc
nhận thức và vận dụng nhằm giữ vững nền độc lập và sự phát triển của mình.
2
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước
của Hồ Chí Minh là kết quả của sự nghiên cứu sâu sắc kinh nghiệm lịch sử của các
quốc gia dân tộc, nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản, đọc các tác phẩm của
Môngtexkiơ, Vônte, Rútxô, Tôn Dật Tiên, Tuyên ngôn độc lập của Cách mạng tư sản
Mỹ, hiến pháp Mỹ năm 1787, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng
tư sản Pháp. Với cách nhìn sáng suốt, Hồ Chí Minh đã đánh giá xác đáng các cuộc
cách mạng tư sản Mỹ và Pháp. Người viết: "Trong lời tuyên ngôn của Mỹ có câu
rằng, giời sinh ra ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính mệnh của mình, quyền làm
ăn cho sung sướng ”
Nghiên cứu những tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường

Cách mệnh (1927), Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ngày 2-9-1945 v.v , chúng ta thấy toát lên một luận điểm của Người là
các quốc gia dân tộc chậm phát triển trên thế giới luôn phải đối phó với các thế lực
thù địch, thực dân, đế quốc. Những lời lẽ về lòng nhân đạo, luân lý, luật pháp, về
quyền tự do, phát triển độc lập của mỗi dân tộc chỉ là những lời lẽ lừa mị để che đậy
những âm mưu xâm lược của chúng. Vì vậy, phải kết hợp chặt chẽ giữa cuộc đấu
tranh giành độc lập dân tộc với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội mới tốt
đẹp. Các quốc gia dân tộc không thể tồn tại và phát triển nếu quá trình xây dựng đất
nước không đi đôi với bảo vệ đất nước, bảo vệ những thành quả độc lập dân tộc đã
giành được.
1.1. Các quan điểm tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăngghen là cơ sở lý luận
trực tiếp của tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước đi đôi với giữ nước.
Các quan điểm tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăngghen về cách mạng vô sản; về
những vấn đề chiến tranh và quân đội; về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là cơ sở lý
3
luận trực tiếp của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường dựng nước đi đôi với giữ
nước.
Nghiên cứu, tổng hợp những kinh nghiệm phong phú của các quốc gia dân
tộc, cải tạo một cách có phê phán những học thuyết chính trị - xã hội đã có, C. Mác
và Ph. Ăngghen đã sáng tạo ra một thế giới quan duy vật hoàn chỉnh, bao gồm hệ
thống chặt chẽ những quan điểm chính trị, xã hội, triết học, kinh tế, chiến tranh và
quân đội. Chính sự khám phá, phát hiện khoa học của các ông về những quy luật cơ
bản của sự phát triển xã hội; về tính chất cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
và tư sản; về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; về mối quan hệ
giữa chiến tranh với chính trị, kinh tế, xã hội là cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí
Minh về dựng nước đi đôi với giữ nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đóng vai trò cực kỳ quan
trọng trong nhận thức khoa học bản chất của các quá trình lịch sử. C. Mác và Ph.
Ăngghen đã chứng minh một cách khoa học rằng, quy luật tổng quát của lịch sử

không phải cái gì khác ngoài quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Diện mạo của các thời kỳ lịch sử và các chế
độ xã hội kế tiếp nhau, thay thế nhau một cách hợp lý là do quy luật này chi phối. Và
vì vậy, sự vận động phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự
nhiên. Tính lịch sử - tự nhiên này chi phối tính chất và trình độ của tiến bộ xã hội trên
tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và quản lý.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã gắn chặt việc nghiên cứu những vấn đề xây dựng
và bảo vệ chế độ xã hội mới trong những điều kiện lịch sử cụ thể của cuộc đấu tranh
giai cấp. Trong khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, hai ông đã
chứng minh rằng, các chế độ bóc lột trước kia cho đến chế độ tư bản chủ nghĩa sẽ
4
không tránh khỏi sự sụp đổ và chế độ xã hội tiến bộ hơn sẽ thay thế nó. Theo lôgic
đó, chủ nghĩa xã hội là kết quả tất yếu hợp quy luật của sự phát triển lịch sử. Bởi lẽ
chủ nghĩa xã hội là thuộc về một trình độ mới của sự phát triển xã hội, nó đủ sức
khắc phục những mâu thuẫn và hạn chế mà chủ nghĩa tư bản không khắc phục được.
Nhưng thực tiễn cho thấy, chủ nghĩa xã hội không hình thành, phát triển một
cách tự động, nhanh chóng; không có và không thể có sự chuyển hóa trực tiếp từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mà phải trải qua một cuộc cách mạng xã hội, qua
một thời kỳ quá độ. Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội cũng như
phương thức phải trải qua để ra đời một chế độ xã hội mới đã được lịch sử xác nhận
bằng cả lý luận và kinh nghiệm thực tiễn. Chế độ phong kiến và đêm trường trung cổ
ở châu Âu suốt 900 năm, từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ XIV đã không "tự giác" ra đi,
không lặng lẽ rút lui để nhường chỗ cho trật tự tư sản. Để xác lập chế độ tư bản chủ
nghĩa, giai cấp tư sản đã trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài, không ngừng chuẩn bị và
tích lũy những tiềm lực vật chất và tinh thần của xã hội để đủ sức đè bẹp sự phản
kháng của chế độ phong kiến. Hiện diện trước lịch sử của chủ nghĩa tư bản là bằng
chứng cho một vấn đề có tính quy luật quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản phải gắn
chặt với quá trình đấu tranh chống lại chế độ phong kiến đã lỗi thời làm cản trở và
kìm hãm sự tiến bộ xã hội. Các cuộc Cách mạng tư sản Mỹ 1776, Cách mạng tư sản
Pháp 1789, cuộc Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc v.v đã chứng minh điều đó.

Trong bài Chính sách đối ngoại của chế độ Nga Hoàng, Ph. Ăngghen đã chỉ
ra rằng không phải chỉ có giai cấp địa chủ và thương nhân Nga mà cả giai cấp tư sản
Tây Âu nữa cũng muốn duy trì chế độ Nga Hoàng, với tư cách là một công cụ để đàn
áp phong trào cách mạng. Trong trường hợp cách mạng thắng lợi ở nước Nga, các
giai cấp này sẵn sàng dùng sức mạnh của lưỡi lê để ủng hộ chế độ chuyên chế. Ph.
Ăngghen còn chỉ rõ, có thể, thậm chí họ sẽ quyết định ngay cả việc đưa quân đội của
5
mình sang phục hồi chính quyền Nga Hoàng. Vì thế trong cuộc đấu tranh với bọn
phản cách mạng, giai cấp vô sản phải vũ trang toàn dân để bảo vệ thành quả cách
mạng. Hai ông đã phê phán sai lầm của Công xã Pari, vì đã không sử dụng hết mọi
khả năng của mình để đàn áp lực lượng phản cách mạng do Chie cầm đầu, vì đã để
cho các lực lượng phản động Pháp có khả năng thống nhất với nhau để chống lại
Công xã Pari. Trong tác phẩm Nội chiến ở Pháp C. Mác viết: "Từ ngày 18 tháng 3
đến ngày quân đội Vécxây tiến vào Pari, cuộc cách mạng vô sản vẫn không hề có
hành vi bạo lực"
1
. Trong khi chỉ ra khả năng không tránh khỏi cuộc chiến đấu giữa
nhà nước vô sản và các lực lượng phản cách mạng trong, ngoài nước, C.Mác và
Ph.Ăng ghen đã khẳng định, cùng với việc xây dựng chính quyền mới phải tổ chức
công cuộc bảo vệ chính quyền một cách có hiệu quả, nhưng Công xã Pari chưa làm
được điều đó. C. Mác viết: "Một Pari lao động, suy nghĩ, chiến đấu, đổ máu nhưng
rạng rỡ trong niềm hào hứng sáng tạo lịch sử mà hớn hở mải mê xây dựng xã hội
mới, hầu như quên mất bọn ăn thịt người đang ở ngay cửa ngõ nhà mình"
2
. Tuy
nhiên, do điều kiện lịch sử lúc đó cách mạng xã hội chủ nghĩa chưa giành thắng lợi,
do đó vấn đề xây dựng đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chưa đặt ra một
cách trực tiếp. Nhưng lịch sử của cách mạng vô sản từ Công xã Pa ri (1871) đến
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917), và từ cuộc chiến đấu chống lại
sự can thiệp của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động ngóc đầu dậy những năm 1918

- 1920 đến cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô chống chủ nghĩa
phát xít (1941 - 1945) dẫn đến sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, cho
đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã khẳng định
luận điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi
đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những quan điểm của C. Mác và Ph.
1
C. Mác - Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 437.
2
C. Mác - Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 464.
6
Ăngghen về tính chất của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư
sản, về điều kiện tiến hành cách mạng vô sản, về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội chính là thế giới quan, phương pháp luận giúp Hồ Chí Minh
hình thành, phát triển tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước.
Cùng với những quan điểm trên, hệ thống các quan điểm của C. Mác và Ph.
Ăngghen về chiến tranh và quân đội cũng là một nguồn gốc lý luận trực tiếp của tư
tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước đi đôi với giữ nước. C. Mác và Ph. Ăngghen đã
giải thích sâu sắc nguồn gốc, bản chất của chiến tranh, vạch ra những điều kiện lịch
sử - xã hội và tính chất giai cấp của nó.
Những tác phẩm quân sự của Ph. Ăngghen là kiểu mẫu của sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử vào một hiện tượng xã hội phức
tạp là chiến tranh. Ph. Ăngghen đã luận giải những vấn đề cơ bản của chiến tranh và
khoa học quân sự một cách duy vật. Ông đã chỉ ra mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau
giữa chiến tranh và kinh tế, chiến tranh và chính trị, mối quan hệ giữa kỹ thuật quân
sự và con người trong chiến tranh, vai trò của nhân tố tinh thần; vạch ra tính quy luật
của sự phát triển của ngành quân sự. Xuất phát từ tư tưởng coi phương thức sản xuất
ra đời sống vật chất quyết định các quá trình chính trị, xã hội và tinh thần của đời
sống xã hội nói chung C.Mác và Ph.Ăngghen đã xác định bản chất giai cấp của chiến
tranh và quân đội. Hai ông đã chứng minh một cách rõ ràng rằng đã có thời kỳ xã hội
không có chiến tranh và chiến tranh, quân đội sẽ mất đi khi mà những nguyên nhân

và nguồn gốc sinh ra nó không còn nữa, đó là chế độ tư hữu và giai cấp bóc lột bị thủ
tiêu. Và đến khi ấy thì vấn đề xây dựng đi đôi với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ những
thành quả cách mạng không phải đặt ra nữa.
Dựa trên quan điểm duy vật về các quá trình lịch sử xã hội, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ ra sự lệ thuộc của các phương thức tiến hành chiến tranh vào cơ
7
sở kinh tế của xã hội, vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ph. Ăngghen chỉ
ra rằng, "Không có gì lại phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế tiên quyết hơn là
chính ngay quân đội và hạm đội. Vũ trang, biên chế, tổ chức, chiến lược, chiến thuật
phụ thuộc trước hết vào trình độ của sản xuất đã đạt được trong một thời điểm nhất
định, và vào phương tiện giao thông"
35
. Phát triển tư tưởng này, Ph. Ăngghen khẳng
định, toàn bộ việc tổ chức và phương pháp chiến đấu của quân đội và do đó thắng lợi
hay thất bại, đều rõ ràng là phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện
kinh tế, vào nhân lực và vũ khí, nghĩa là vào chất lượng và số lượng dân cư và của cả
kỹ thuật nữa. Luận điểm này đã chỉ ra rằng giữa kinh tế và chiến tranh, quân đội có
mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Trong mối quan hệ đó, kinh tế và
quân đội bao giờ cũng giữ vai trò là cơ sở vật chất đối với chiến tranh và quân đội.
Xây dựng, phát triển kinh tế nhằm tạo cơ sở vật chất kỹ thuật và của cải cho xã hội,
trong đó có cả chiến tranh và quân đội. Chính vì vậy, xây dựng đất nước vững mạnh
về mọi mặt có vai trò quyết định đối với tăng cường tiềm lực chính trị - tinh thần,
tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học, tiềm lực quân sự của nền quốc phòng đất nước
nói chung, quân đội nói riêng.
1.2 Ảnh hưởng sâu sắc và quyết định đến sự hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước đi đôi với giữ nước là lý luận của Lênin về xây
dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đây là một trong những quy luật chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong những điều kiện lịch sử mới của những thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, đồng thời với việc phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác về cách mạng vô sản, V.I.

Lênin đã xây dựng một học thuyết về xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Người trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong những năm chính quyền Xô viết non trẻ. Ông đã chỉ
8
rõ, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trước tiên ở một số nước hoặc thậm chí ở một nước
riêng biệt, nhất định sẽ gặp phải sự chống quyết liệt của giai cấp tư sản mong muốn
tiêu diệt giai cấp vô sản, vì thế tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là hợp lý và
chính nghĩa. Đó là một cuộc chiến tranh vì chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giải phóng
các dân tộc khác khỏi ách áp bức của giai cấp tư sản. Sau cuộc Cách mạng Tháng
Mười, chủ nghĩa đế quốc đã tiến công xâm lược nước Nga Xôviết và nhân dân các
dân tộc Nga buộc phải cầm vũ khí để bảo vệ nền tự do độc lập của mình. V.I. Lênin
khẳng định: "Từ ngày 25 tháng Mười 1917, chúng ta là những người chủ trương bảo
vệ tổ quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là tổ quốc"
1
.
V.I. Lê-nin không những chỉ ra xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa do quy luật của cuộc đấu tranh giai cấp chi phối mà ông
còn phân tích về mặt lý luận sự phụ thuộc của tiến trình và kết cục của chiến tranh
vào những điều kiện kinh tế và những điều kiện xã hội khác; vạch ra những quy luật
cơ bản của sự hình thành sức mạnh quân sự của các nước và sức chiến đấu của lực
lượng vũ trang. V.I. Lênin đã phát triển sáng tạo quan điểm của C. Mác và Ph.
Ăngghen về các vấn đề quân sự, đặt tiến trình và kết cục của chiến tranh phụ thuộc
vào những điều kiện kinh tế và chính trị - xã hội. Ông viết: "Chưa bao giờ mối liên hệ
giữa tổ chức quân sự của một nước với toàn bộ chế độ kinh tế và văn hoá của nước
ấy lại hết sức chặt chẽ như ngày nay"
2
. Chúng ta chủ trương bảo vệ tổ quốc, nên
chúng ta đòi hỏi phải có một thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng
và đối với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà. Cuộc chiến tranh này cần được
chuẩn bị trước, lâu dài, nghiêm túc, bắt đầu từ kinh tế"

3
. Chính sự nghiệp xây dựng
1
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 36, Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ Mát xcơ va. 1978, tr. 102.
2
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, Mát xcơ va, 1979, tr. 192
3
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 35, Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, Mát xcơ va, 1976, tr. 480.
9
chủ nghĩa xã hội trực tiếp tạo ra tiềm lực kinh tế, tiềm lực tinh thần, tiềm lực quân sự
cho chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Nhìn lại lịch sử Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết, thắng lợi của
nhân dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại (1941 - 1945) đã chứng
minh những quan điểm lý luận của V.I. Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi
đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh giữ
nước, sự nghiệp xây dựng đất nước và sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng Cộng
sản và nhân dân Liên Xô tiến hành một cách kiên quyết. Đảng Cộng sản, Nhà nước
Xôviết, nhân dân Liên Xô đã tập trung mọi nỗ lực phát triển kinh tế - xã hội, đồng
thời tăng cường khả năng quốc phòng của đất nước, ngăn chặn và đập tan mưu toan
của những lực lượng phản cách mạng trong nước câu kết với chủ nghĩa đế quốc để
gây nội chiến dọn đường cho các cuộc can thiệp vũ trang nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã
hội. Nhờ có sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự, Liên bang Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Xôviết đã chiến thắng, góp phần quyết định, tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa phát
xít, tránh cho loài người phải chịu thảm họa diệt chủng.
Xuất phát từ quan điểm cho rằng xây dựng đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa được thực hiện không phải một cách tự phát mà là hoạt động tự giác của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, V.I. Lênin khẳng định Đảng Cộng sản là
người lãnh đạo, động viên tổ chức nhân dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ Đảng Cộng sản là người nắm vững lý luận Mác -
Lênin, hiểu rõ các quy luật của sự phát triển xã hội và của chiến tranh, vận dụng sáng

tạo các quy luật đó để giải quyết những vấn đề về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Đảng Cộng sản được nhân dân lao động tin tưởng và ủng hộ, vì ngoài lợi
ích của giai cấp công nhân và dân tộc, Đảng Cộng sản không có lợi ích nào khác.
Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
10
nghĩa thể hiện trước hết là ở chỗ Đảng đề ra đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa; đề ra đường lối đối nội và đối ngoại; đề ra đường lối quân sự để
lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của nhân dân và quân đội; xác định nội dung và phương
hướng xây dựng các lực lượng vũ trang v.v
V.I. Lênin còn chỉ rõ hai mặt hoạt động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa phải đan xen, xâm nhập vào nhau. Bất cứ hoạt động xây dựng nào cũng
phải nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa.
Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là chống sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc mà còn là sự
tự bảo vệ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để phát triển vững chắc, ngăn chặn
được các nguy cơ nội chiến. Vì vậy, ông yêu cầu tất cả các hoạt động đối nội, đối
ngoại, quân sự, chính trị, kinh tế và khoa học phải nhằm tạo nên sức mạnh toàn diện
của đất nước, đặc biệt là sức mạnh quân sự để đẩy lùi, ngăn chặn, đập tan mọi âm
mưu lật đổ và vũ trang xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ vững chắc độc lập
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và mọi thành quả xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo
đảm cho chủ nghĩa xã hội phát triển vững chắc. Nếu coi nhẹ một trong hai mặt đó,
hoặc tách rời giữa chúng thì chủ nghĩa xã hội sẽ thất bại.
Chính các quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin về xây dựng chủ
nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và thực tiễn xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc của nhân dân Liên Xô đã là cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về dựng nước đi đôi với giữ nước. Người đã viết nhiều bài báo tố cáo
chế độ thực dân, đề cập đến mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng giải phóng dân tộc
và cách mạng vô sản thế giới. Bản án chế độ thực dân Pháp không chỉ nêu lên những
vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc, tư tưởng cách

11
mạng triệt để mà còn thể hiện tư tưởng của Người về dựng nước đi đôi với giữ nước.
Theo Người, cách mạng vô sản ở "chính quốc" và cách mạng giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa có mối quan hệ biện chứng không thể tách rời. Bởi vì, "Chủ nghĩa
tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái
vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta
phải đồng thời cắt cả hai cái vòi. Nếu người ta chỉ cắt một cái vòi thôi, thì cái vòi còn
lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật tiếp tục vẫn sống và cái vòi bị
cắt đứt sẽ lại mọc ra v.v "
1
.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu các quan điểm của V.I. Lênin về xây dựng đi đôi
với bảo vệ Tổ quốc, về những vấn đề chiến tranh, quân đội và khoa học quân sự của
giai cấp vô sản. Người đã quán triệt và vận dụng những quan điểm đó để đề ra các
luận điểm có tính chất cương lĩnh của Đảng về đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, về các vấn đề quân sự, về việc thành lập lực lượng vũ trang nhân dân, về kết
hợp kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam. Không chỉ tiếp thu sâu sắc quan điểm lý
luận của C. Mác, Ph.ăngghen, V.I. Lênin về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, mà trong những điều kiện lịch sử mới của đất nước và thời đại, Hồ Chí Minh
đã phát triển và làm phong phú thêm lý luận đó bằng những nguyên lý mới. Ngay sau
khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã trực tiếp và chỉ đạo việc xây
dựng Hiến pháp và các bộ luật của Nhà nước ta. Người đã ra một loạt sắc lệnh về
thiết lập hệ thống chính quyền các cấp, tổ chức quân đội cách mạng, toà án nhân dân,
thủ tiêu đặc quyền đặc lợi của thực dân, phong kiến, xây dựng nền kinh tế mới, văn
hoá giáo dục mới nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu
gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn để giải
1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 120.
12

phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc tiến tới thống nhất nước nhà, cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Người xác định cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược: Xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam. Miền Bắc phải trở thành hậu phương lớn của cách mạng miền Nam
và là nhân tố quyết định nhất đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước. Để thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược đó phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Đó
là nền quốc phòng do toàn dân xây dựng và dựa vào sức mạnh toàn diện của nhân
dân, của đất nước, nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng và
tạo điều kiện cho miền Bắc đủ sức đập tan âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ, đồng
thời phát huy tác dụng của miền Bắc là căn cứ địa, hậu phương lớn của sự nghiệp
cách mạng của cả nước. Muốn xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh phải
đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Có như
vậy mới bảo đảm cho việc xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực kinh tế,
tiềm lực khoa học, tiềm lực quân sự v.v của nền quốc phòng toàn dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước đi đôi với giữ nước được hình thành
phát triển từ nhiều nguồn gốc, trong đó nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây
dựng đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nguồn gốc lý luận trực tiếp chủ
yếu. Bước ngoặt trong nhận thức và hình thành tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ
nước của Hồ Chí Minh là từ nghiên cứu Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười
Nga và nghiên cứu các quan điểm tư tưởng của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin về
cách mạng vô sản. Đồng thời thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
phong trào giải phóng dân tộc, cuộc đấu tranh cho hoà bình, độc lập, tự do, dân chủ
và tiến bộ xã hội, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô, đã tác động lớn đến sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng
nước đi đôi với giữ nước.
13
2. Một số nội dung vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
dựng nước đi đôi với giữ nước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước đi đôi với giữ nước được Đảng Cộng

sản Việt Nam quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo trong quá trình cách mạng Việt
Nam. Trong các giai đoạn cách mạng khác nhau, việc vận dụng tư tưởng của Người
có những yêu cầu, nội dung và phương thức khác nhau. Trong sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung,
tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước của Người nói riêng vẫn là nền tảng tư
tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và nhân dân ta. Việc vận dụng,
phát triển tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước của Hồ Chí Minh trong giai đoạn
mới của cách mạng là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, đòi hỏi sự nhận
thức thấu đáo, nghiên cứu công phu và tổ chức thực hiện có hiệu quả của toàn Đảng,
toàn dân ta. ở đây đề cập đến việc vận dụng một số vấn đề với tư cách là những nội
dung cơ bản trong tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước của Hồ Chí Minh trong
giai đoạn cách mạng mới.
2.1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh và Đảng ta
giương cao hơn bảy thập kỷ qua đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc,
thu giang sơn về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung cốt lõi, bao trùm
nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước đi đôi với giữ nước là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội không những thể hiện sự nhất quán, trung thành với con đường mà dân
14
tộc ta đã lựa chọn, mà còn là sự vận dụng đúng đắn tư tưởng của Hồ Chí Minh về
dựng nước đi đôi với giữ nước trong điều kiện mới.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là trung thành với con
đường mà dân tộc ta đã lựa chọn; thể hiện sâu sắc tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ
nước của Hồ Chí Minh; là sự bảo đảm chắc chắn nhất cho dân tộc Việt Nam phát
triển ở thế kỷ XXI. Trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, vận mệnh của dân tộc Việt Nam không
thể tách rời con đường xã hội chủ nghĩa; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa
xã hội; xây dựng đất nước là xây dựng chủ nghĩa xã hội; bảo vệ giang sơn gấm vóc

còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bài học đầu tiên và cơ bản nhất của quá trình đổi mới đất nước được Đảng ta
tổng kết là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”
1
. Kiên
định con đường xã hội chủ nghĩa là giải pháp tổng quát duy nhất đúng, tối ưu nhất để
xây dựng một nước Việt Nam thật sự giàu mạnh, văn minh, nhân dân Việt Nam thật
sự tự do, ấm no, hạnh phúc, và dân tộc Việt Nam mới có thể “sánh vai với các cường
quốc năm châu” như mong muốn của Hồ Chí Minh. Sự kiên định đó không phải chỉ
là tình cảm cách mạng, không chỉ là sự trung thành với truyền thống lịch sử cách
mạng của dân tộc, mà dựa trên sự phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế một cách
tỉnh táo và đúng đắn.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trước hết và quyết
định nhất là kiên định, trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình cách mạng Việt Nam.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 81.
15
Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin không có nghĩa là tiếp thu một cách máy
móc. Mọi sự tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin một cách giáo điều đều là sự tước bỏ
bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa ấy. Lênin đã từng dạy chúng ta, phân
tích cụ thể tình hình cụ thể là linh hồn sống của chủ nghĩa Mác. Chúng ta cần quán
triệt sâu sắc phương pháp luận của Lênin khi Người nghiên cứu chủ nghĩa Mác:
không nên coi chủ nghĩa Mác như một cái gì đã xong xuôi hẳn, mà phải đẩy nó lên
nếu những người cách mạng không muốn lạc hậu.
Trung thành và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước đi
đôi với giữ nước trước hết phải kiên định và thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
sự thể hiện tổng quát nhất, bao trùm nhất tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước của

Hồ Chí Minh, đồng thời là sự phản ánh sâu sắc tính chính trị - giai cấp trong tư tưởng
của Người. Dựng nước đi đôi với giữ nước là để cứu nước, cứu dân; là để xây dựng
đất nước phồn vinh, giang sơn bền vững, trong đó mọi người dân đều được tự do, ấm
no, hạnh phúc thực sự. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nhằm đạt đến
mục tiêu đó. Tuy nhiên cần thấy rằng, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang đi không phải là thẳng tắp, không phải là
không có chông gai. Đồ thị phát triển của con đường ấy có thể còn có đoạn gấp khúc,
nhưng mũi tên cơ bản của hướng đồ thị là theo chiều tiến lên. Sự nghiệp xây dựng xã
hội mới thật sự là sự nghiệp khó khăn, phức tạp và lâu dài, nhưng con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ ràng hơn, có những thuận lợi
căn bản và thời cơ lớn. Với thế và lực của đất nước ta hiện nay, với sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân
ta sẽ tận dụng được thuận lợi, tranh thủ được thời cơ, vượt qua khó khăn, khắc phục
16
nguy cơ, thực hiện thắng lợi những mục tiêu theo con đường xã hội chủ nghĩa mà
dân tộc ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Thực hiện mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"
là sự hiện thực hoá một cách sinh động và cụ thể lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay. Chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi
mới, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội IX của Đảng
đã xác định. Chủ nghĩa xã hội sinh động và cụ thể trong đời sống hiện thực. Quá trình
phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là
quá trình hiện thực hoá và thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa trong
thực tiễn, trong cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân, làm cho nhân dân càng thêm
gắn bó với Đảng, với chế độ, ra sức đóng góp sức mình vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2.2. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam:
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là sự vận dụng sáng tạo quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước của dân

tộc Việt Nam, cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước đi đôi với giữ nước
trong điều kiện lịch sử mới. Tại Đại hội V, lần đầu tiên Đảng ta xác định hai nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: “Một là, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội; Hai là, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”
1
. Đến Đại hội VI và các Đại hội sau đó, mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc được Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc, luôn coi đó là hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam, cần phải thực hiện nghiêm ngặt. Tư tưởng dựng
nước đi đôi với giữ nước của Hồ Chí Minh được Đảng ta quán triệt sâu sắc và vận
1
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội 1982, tr. 4
17
dụng sáng tạo trong quá trình cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội VIII, Đảng ta nhấn
mạnh: “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta
không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc luôn luôn coi trọng quốc phòng,
an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ”
1
.
Hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa có mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau, không thể tách rời trong sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược cần phải kết hợp chặt chẽ với
nhau. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, không có nghĩa coi quốc phòng
là nhiệm vụ thứ yếu; xác định bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu thường xuyên”
không có nghĩa là không tập trung cho nhiệm vụ xây dựng đất nước, phát triển kinh
tế.
Trong điều kiện hòa bình xây dựng đất nước và phải đối phó với các âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, Đảng ta chỉ rõ bảo vệ không chỉ là
phòng ngừa mà trước hết phải chăm lo xây dựng đất nước mạnh lên, khắc phục được

nguy cơ tụt hậu về kinh tế cũng là biện pháp bảo vệ, là tạo điều kiện vững chắc cho
bảo vệ. Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX chỉ rõ:
“Dựng nước đi đôi với giữ nước” là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, quy luậy đó được biểu hiện tập trung trong hai
nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ hữu cơ gắn bó với nhau: xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”
2
.
1
ĐCSVN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 117.
2
Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 BCHTW Đảng khoá IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003, tr. 23 - 24.
18
Như vậy là, xây dựng và bảo vệ gắn liền chặt chẽ với nhau, đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ kia không có nghĩa là coi nhẹ nhiệm vụ này; xác định bảo vệ Tổ quốc là
nhiệm vụ “trọng yếu thường xuyên” không có nghĩa là không chú ý đến nhiệm vụ
trung tâm là xây dựng kinh tế; đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phát triển kinh tế không có
nghĩa là quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ thứ yếu. Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc
ngày nay, thì xây dựng cũng là một phương thức để bảo vệ, trong xây dựng có bảo
vệ, trong bảo vệ có xây dựng. Khắc phục, đẩy lùi được nguy cơ tụt hậu về kinh tế
cũng là bảo vệ, là tạo điều kiện vững chắc cho bảo vệ. Tăng cường quốc phòng, an
ninh là trực tiếp nhằm giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia, tạo sức mạnh cần
thiết ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh cũng là tạo điều kiện cho sự phát triển
bền vững.
Theo đó, vấn đề nâng cao ý thức quốc phòng, ý thức bảo vệ Tổ quốc cho mọi
tầng lớp nhân dân là đòi hỏi bức thiết, càng trở nên quan trọng trong bối cảnh mới.
Đứng trước những thử thách của lịch sử, trước những diễn biến phức tạp của tình
hình, thì bao giờ cũng vậy, mỗi quốc gia - dân tộc phải tự xác định chỗ đứng, khẳng
định chính mình và tìm cách bảo vệ mình. ý thức tự bảo vệ là yêu cầu nội tại sống
còn của bất cứ con người nào, cộng đồng xã hội nào, dân tộc nào.

2.3. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc
phòng - an ninh.
Vận dụng tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước của Hồ Chí Minh trong
điều kiện mới đòi hỏi trong phát triển kinh tế - xã hội phải có sự kết hợp với củng cố
quốc phòng - an ninh; trong xây dựng, củng cố quốc phòng- an ninh phải kết hợp
chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội. Đây chính là sự biểu hiện cụ thể một nội dung
chủ yếu của mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây còn là vấn đề có tầm quan trọng to lớn bao
19
quát không chỉ ở tầm quốc gia, mà còn ở từng đơn vị cơ sở; phản ánh một nội dung
cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước đi đôi với giữ nước trong bối cảnh
lịch sử mới. Trong lãnh đạo các cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc, Hồ
Chí Minh luôn thấy rõ sự cần thiết phải kết hợp kháng chiến với kiến quốc. Mối quan
hệ hữu cơ tác động lẫn nhau giữa kháng chiến với kiến quốc được Người chỉ rõ:
“Phải cải cách ruộng đất để bồi dưỡng lực lượng nhân dân, đảm bảo kháng chiến
thắng lợi. Phải đẩy mạnh kháng chiến để bảo đảm cải cách thành công”
1
.
Chẳng phải cho đến bây giờ chúng ta mới đặt vấn đề phải “kết hợp chặt chẽ
giữa phát triển kinh tế - xã hôị với củng cố quốc phòng - an ninh và ngược lại”, mới
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết sự kết hợp này. Vấn đề là, trong bối
cảnh hiện nay, nhất là trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và những âm mưu, thủ đoạn
lợi dụng xu thế này của các thế lực thù địch để chống phá cách mạng Việt Nam, thì
sự kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh theo tư
tưởng Hồ Chí Minh đã đặt ra những vấn đề rất mới, đòi hỏi sự kết hợp đó càng phải
chặt chẽ hơn với những nội dung và phương thức mới.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh
trong điều kiện mới vừa phải giữ vững về nguyên tắc, vừa phải mềm dẻo về sách
lược. ở đây, tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục soi
sáng, dẫn đường cho nhận thức và hành động của Đảng và nhân dân ta. Những cái gì

là “bất biến” phải kiên định, để có thể “vạn biến” được với tình hình. Sự lãnh đạo duy
nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, định hướng xã hội chủ nghĩa, độc lập chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, lợi ích đất nước, bản sắc văn hoá dân tộc, cuộc
sống hoà bình của nhân dân là cái “bất biến”, chúng ta phải kiên quyết bảo vệ, giữ
gìn. Dù có thể có những áp lực từ những “luật chơi” trong quan hệ kinh tế quốc tế,
1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 192.
20
những áp lực từ những quốc gia là đối tác quan trọng của chúng ta thì vẫn không bao
giờ được từ bỏ những cái “bất biến” ấy; trái lại càng phải với tinh thần chủ động
tranh thủ, tận dụng những điều kiện quốc tế thuận lợi vừa phục vụ cho sự phát triển
kinh tế - xã hội, vừa bảo vệ vững chắc những cái gì thuộc về “bất biến”.
Tại Đại hội IX, Đảng ta chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế xã hội với
xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, được
thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước,
của các ngành , các địa phương và trong các dự án đầu tư lớn. Phân phối hợp lý việc
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật trên các vùng của đất nước, vừa phát huy hiệu quả
kinh tế - xã hội , vừa sử dụng được cho quốc phòng, an ninh khi cần thiết”
1
.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như trong
từng kế hoạch, quy hoạch cụ thể ở các địa phương, các ngành không chỉ tập trung
chú ý đến mục tiêu kinh tế, đến phát triển kinh tế; mà còn cần phải tính đến hiệu quả
xã hội; không chỉ vì lợi ích kinh tế, mà còn phải tính đến lợi ích quốc phòng, an ninh,
phải tính đến việc sử dụng được cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh khi cần thiết.
Trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, các quy luật của nền kinh tế thị
trường ngày càng phát huy mạnh mẽ, người ta quan tâm nhiều đến lợi nhuận, đến
cạnh tranh để tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, điều đó cũng
làm cho vấn đề kết hợp kinh tế với xã hội, kinh tế với quốc phòng, an ninh gặp nhiều
khó khăn nan giải, không dễ dàng khắc phục. Người ta dễ dàng đồng ý với quan

điểm: phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh,
nhưng lại cho đấy là ở tầm chiến lược vĩ mô, là công việc của Đảng, của Nhà nước!
Nhưng trong từng dự án, từng vùng, từng ngành, từng doanh nghiệp, vì lợi ích kinh tế
1
ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 167 - 168.
21
trước mắt mà có thể người ta không muốn xem xét đến, hoặc “ngại” đề cập đến phải
gắn với quốc phòng, an ninh ngay tại đơn vị và doanh nghiệp của mình.
Phát triển kinh tế - xã hội không chỉ tạo điều kiện để tăng cường tiềm lực
quốc phòng của đất nước, mà còn phải tạo cơ sở cho việc xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Nói cách khác, phát triển kinh tế - xã
hội cũng phải có “thế trận”, có “thế trận” của nền kinh tế. Đó là thế bố trí chiến lược
phát triển kinh tế trên tất cả các vùng, miền của Tổ quốc, trong tất cả các cấp, các
ngành, tạo ra sự liên hoàn và phát triển nhịp nhàng của toàn bộ nền kinh tế; đồng thời
thế bố trí chiến lược ấy phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn
dân và thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Thế trận đó
phải đáp ứng yêu cầu: trong thời bình thì mọi tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua lao
động sản xuất, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh; khi chiến tranh xảy ra thì toàn dân đoàn kết, cả nước
một lòng, quân với dân một ý chí, quyết tâm chiến thắng quân thù.
Quốc phòng, an ninh gắn kết với kinh tế - xã hội trước hết là nhằm bảo vệ sự
ổn định xã hội, sự phát triển lành mạnh, bền vững và độc lập tự chủ về kinh tế, “phục
vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng kinh tế đối ngoại”. Như vậy, quốc phòng,
an ninh là phải bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội. Giữ
vững ổn định chính trị, bảo vệ hoà bình, ngăn chặn và đẩy lùi mọi nguy cơ chiến
tranh, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch cả
bên trong và bên ngoài, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là những nội dung cụ thể
phản ánh nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2.4. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

22
Độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là sự phản ánh mối quan
hệ giữa xây dựng đất nước với bảo vệ đất nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh trên lĩnh
vực kinh tế trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và mở rộng hợp tác, giao lưu kinh tế
quốc tế hiện nay.
Độc lập tự chủ là sự vận động tự thân của đất nước, huy động tối đa và đầy
đủ sức mạnh bên trong của cả dân tộc trên tất cả các mặt, các yếu tố hợp thành, các
nguồn lực quốc gia để phát triển. Sức mạnh quốc gia là do nguồn lực bên trong quyết
định, không phụ thuộc và lệ thuộc một chiều những yếu tố từ bên ngoài. Tuy nhiên,
độc lập tự chủ không có nghĩa là "bế quan tỏa cảng" mà không có sự hợp tác với bên
ngoài, không tận dụng những điều kiện của bên ngoài để phát triển. Hơn bảy thập kỷ
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn có đường lối đúng đắn, độc lập, sáng tạo
nhằm phát huy cao nhất sức mạnh bên trong của cả dân tộc thực hiện thắng lợi những
mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ, giai đoạn cụ thể.
Tư tưởng "đem sức ta mà giải phóng cho ta", “dựa vào sức mình là chính”,
“tự lực cánh sinh” của Hồ Chí Minh là tư tưởng cơ bản chỉ đạo và tạo ra động lực to
lớn làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám vĩ đại. Tư tưởng ấy tiếp tục được
thể hiện trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Trong các cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm ấy, tuy có sự giúp đỡ to lớn và có hiệu quả của hệ thống xã
hội chủ nghĩa thế giới, cũng như sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên
thế giới, nhưng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn xác định tư tưởng cơ
bản chỉ đạo của cuộc kháng chiến là: “Nâng cao tư tưởng trường kỳ kháng chiến, tư
lực cánh sinh”
1
. Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, tư tưởng này lại một
lần nữa được Đảng ta nhấn mạnh và vận dụng sáng tạo tại Đại hội XI: Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu
1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 137.
23

quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
Độc lập tự chủ trước hết là độc lập tự chủ về đường lối chính trị, phương
hướng phát triển đất nước; đồng thời phải có tiềm lực đủ mạnh để phát triển. Tại Đại
hội IX, Đảng ta nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh
đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và
nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội". Đây là tư tưởng cơ bản của
Đảng và Nhà nước ta về việc phát huy nội lực trong điều kiện mới đòi hỏi phải được
quán triệt sâu sắc và thực hiện đầy đủ.
Muốn phát huy được nội lực, muốn thực hiện được nền kinh tế độc lập tự chủ
nói riêng cũng như độc lập tự chủ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói
chung thì vấn đề cơ bản là phải xây dựng và phát huy được sức mạnh của đại đoàn
kết toàn dân. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong việc sử dụng và
phát huy sức mạnh của nội lực làm động lực thúc đẩy sự nghiệp cách mạng, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nhiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng thành công
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại đoàn kết toàn dân là
đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Đó vừa là điều kiện vừa là yêu cầu của việc thực hiện quan điểm độc lập tự
chủ của Đảng ta.
Độc lập tự chủ không chỉ về kinh tế, mà độc lập tự chủ trên tất cả các lĩnh
vực. Tuy nhiên, độc lập tự chủ về kinh tế, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ có tầm
quan trọng đặc biệt, nhất là trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ đòi hỏi phải thực hiện chính sách đổi mới sâu sắc, đồng bộ
về kinh tế, xã hội hướng vào giải phóng triệt để và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
24
xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là yếu tố quyết định thắng lợi của việc
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở nước ta. Chúng ta xây dựng đất nước trong bối
cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp và sự chống phá quyết liệt của các thế lực

thù địch thì việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ còn nhằm bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc
Muốn xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ cần phải có tiềm lực kinh tế đủ
mạnh, có mức tích lũy cao từ nội bộ nền kinh tế, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức
cạnh tranh cả ở trong và ngoài nước, có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ,
giữ vững ổn định kinh tế - tài chính vĩ mô, có lực lượng vật chất đảm bảo an toàn và
điều kiện cơ bản cho cuộc sống xã hội và phát triển kinh tế như an ninh lương thực,
an toàn năng lượng, an toàn tài chính, an toàn môi trường, xây dựng cơ sở hạ tầng
ngày càng hiện đại và một số ngành công nghiệp then chốt đáp ứng yêu cầu tái sản
xuất mở rộng không ngừng trên cơ sở kỹ thuật ngày càng cao Cần tăng cường vai
trò của Nhà nước trong việc phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt tiêu cực của cơ
chế thị trường thông qua các công cụ quản lý vĩ mô. Thực hiện các giải pháp đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý, hoàn chỉnh hệ thống luật
pháp, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế,
bồi dưỡng và rèn luyện năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại
giao và kinh tế đối ngoại. Có kế hoạch tổng thể tham gia hội nhập kinh tế, xây dựng
chương trình phát triển hợp lý cho từng thời kỳ, phát huy quyền chủ động của các
cấp, các ngành, các doanh nghiệp và toàn xã hội.
Trong điều kiện mới, việc tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
được Đảng ta xác định với tư tưởng: chủ động hội nhập. Đây là sự vận dụng sáng tạo
tư tưởng chủ động tiến công của Hồ Chí Minh vào quá trình hợp tác kinh tế với các
25

×