Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) – GÓC NHÌN TỪ NGÀNH NÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.08 KB, 16 trang )

HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI
BÌNH DƯƠNG (TPP) – GÓC
NHÌN TỪ NGÀNH NÔNG
NGHIỆP
Văn đức mười – tổng giám đốc công ty VISSAN
Văn đức mười – tổng giám đốc công ty VISSAN


THAM LUẬN
“HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) –
GÓC NHÌN TỪ NGÀNH NÔNG NGHIỆP”
Văn Đức Mười – Tổng Giám đốc Công ty Vissan,
Chủ tịch Hội Lương Thực Thực Phẩm TP.HCM

I.

TỔNG QUAN VỀ TPP
1. TPP là gì?
Đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP – Trans-Pacific
Parrtnership) – một Hiệp định thương mại tự do giữa 11 nước hai bờ Thái Bình Dương,
bao gồm Việt Nam, Brunei, Singapore, Malaysia, Chile, Úc, New Zealand, Peru, Mexico,
Canada và Mỹ - đến nay đã trải qua 17 vòng đàm phán.
2. Lịch sử hình thành và diễn biến đàm phán TPP
a. Lịch sử hình thành
 Đàm phán Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) hiện nay có nguồn
gốc từ Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TransPacific Strategic Economic Partnership Agreement – còn gọi là P4) - một Hiệp
định thương mại tự do được ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006 giữa
4 nước Singapore, Chile, New Zealand và Brunei.
 Năm 2007, các nước thành viên P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán của
Hiệp định này ra các vấn đề dịch vụ tài chính và đầu tư và trao đổi với Mỹ về
khả năng nước này tham gia vào đàm phán mở rộng của P4. Phía Mỹ cũng bắt


đầu tiến hành nghiên cứu vấn đề, tham vấn nội bộ với các nhóm lợi ích và Nghị
viện về vấn đề này.
 Tháng 9/2008, USTR thông báo quyết định của Mỹ tham gia đàm phán P4 mở
rộng và chính thức tham gia một số cuộc thảo luận về mở cửa thị trường dịch
vụ tài chính với các nước P4. Tháng 11 cùng năm, các nước Úc, Peru và Việt
Nam cũng bày tỏ sự quan tâm và tham gia đàm phán TPP, nâng tổng số thành
viên tham gia lên 8 nước (trừ Việt Nam đến 13/11/2010 mới tuyên bố tham gia
đàm phán với tư cách thành viên đầy đủ, các nước khác quyết định tham gia
chính thức ngay từ đầu). Cũng từ thời điểm này, đàm phán mở rộng P4 được đặt
tên lại là đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).
 Tuy nhiên đàm phán TPP mới đã bị trì hoãn đến tận cuối 2009 do phải chờ đợi
Mỹ hoàn thành kỳ bầu cử Tổng thống và Chính quyền mới của Tổng thống
1


Obama tham vấn và xem xét lại việc tham gia đàm phán TPP. Tháng 12/2009
USTR mới thông báo quyết định của Tổng thống Obama về việc Mỹ tiếp tục
tham gia TPP. Chỉ lúc này đàm phán TPP mới được chính thức khởi động
b. Diễn biến đàm phán TPP
Vòng đàm phán

Nơi tổ chức

Thời gian

Số nước
tham gia

Thứ nhất


Melbourne, Úc

15-19/3/2010

8 nước

Thứ 2

San Francisco, Mỹ

14-18/6/2010

8 nước

Thứ 3

Brunei

4-9/10/2010

9 nước

Ghi chú
Úc, Mỹ,
New
Zealand,
Chile,
Singapore,
Brunei, Peru
và Việt Nam

Thành viên
mới là
Malaysia

Ngày 13/11/2010, Việt Nam tuyên bố tham gia vào TPP với tư cách thành viên đầy đủ,
trước đó Việt Nam vẫn tham gia nhưng chỉ với vai trò là thành viên liên kết duy nhất
Thứ 4

Auckland, New
Zealand

6-10/12/2010

9 nước

Thứ 5

Santiago, Chile

14-18/2/2011

9 nước

Thứ 6

Singapore

24/3-1/4/2011

9 nước


Thứ 7

Tp. Hồ Chí Minh, Việt
Nam

20–21/06/2011

9 nước

Thứ 8

Chicago, Mỹ

6-15/9/2011

9 nước

Thứ 9

Lima, Peru

18-28/10/2011

9 nước

Thứ 10

Kuala Lumpur,
Malaysia


5-9/12/2011

9 nước

Thứ 11

Melbourne, Úc

1-9/3/2012

9 nước

Thứ 12

Dallas, Texas, Mỹ

8-18/5/2012

9 nước

Thứ 13

San Diego, California,
Mỹ

2-10/7/2012

9 nước


2


Thứ 14

Leesburg, Virginia, Mỹ

6-15/9/2012

9 nước

Thứ 15

Aucland, New Zealand

3-12/12/2012

11 nước

Thứ 16

Singapore

4-13/3/2013

11 nước

Thứ 17

Lima, Peru


15-24/5/2013

12 nước

Thứ 18

Kota Kinabalu,
Malaysia

14-25/7/2013

12 nước

2 thành viên
mới là
Mexico và
Canada

Thêm thành
viên mới là
Nhật

3. Các vấn đề được đàm phán trong TPP
Tháng 11/2011, một Bản khung sơ bộ (Broad Outline) của đàm phán TPP được các
nguyên thủ 09 nước thành viên công bố. Theo Bản khung sơ bộ này thì Hiệp định TPP sẽ
bao gồm các cam kết trong cả các lĩnh vực thương mại và phi thương mại.
Bảng tóm tắt các lĩnh vực và định hướng đàm phán tương ứng theo Bản
khung sơ bộ đàm phán TPP tháng 11/2011
Stt


Lĩnh vực

Các định hướng đàm phán

1

Cạnh tranh

Tạo lập và duy trì pháp luật và các cơ quan cạnh tranh, đảm bảo
công bằng trong thủ tục thực thi luật cạnh tranh, minh bạch, bảo vệ
người tiêu dùng và quyền hành động của khu vực tư nhân

2

Cơ chế hợp tác và hỗ trợ xây dựng mang tính thiết chế
Hợp tác và Xây
- Linh hoạt
dựng năng lực
- Theo cơ chế “yêu cầu - đáp ứng”
Các nguyên tắc chính điều chỉnh lĩnh vực này:

3

Dịch vụ xuyên
biên giới

- Công bằng
- Mở
- Minh bạch

- Thủ tục hải quan có thể dự đoán trước, minh bạch,

4

Hải quan

nhanh chóng và thuận lợi cho hoạt động thương mại (hướng tới việc
liên kết các doanh nghiệp TPP trong chuỗi cung cấp và sản xuất khu
3


vực);
- Hợp tác hải quan

5

Thương mại
điện tử

- Hướng tới nền kinh tế “số”
- Hướng tới các vấn đề về thuế quan trong môi trường số, chứng
thực giao dịch điện tử và bảo vệ người tiêu dùng
- Thương mại và môi trường cần phát triển tương hỗ
- Nhấn mạnh việc bảo vệ môi trường và cơ chế giám sát việc thực
thi cũng như hợp tác hỗ trợ
Đang thảo luận về một số vấn đề mới như:

6

Môi trường


- Đánh cá trên biển
- Bảo tồn đa dạng sinh học
- Chống sinh vật ngoại lai
- Biến đổi khí hậu
- Các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ môi trường
- Minh bạch, không phân biệt đối xử;

7

Dịch vụ tài
chính

- Đối xử công bằng đối với các dịch vụ tài chính mới
- Bảo hộ đầu tư và cơ chế giải quyết tranh chấp
- Đảm bảo chủ quyền của các nước, đặc biệt trong trường hợp có
khủng hoảng tài chính
Những nguyên tắc cơ bản và thủ tục đấu thầu công:

8

Mua sắm chính - Công bằng
phủ
- Minh bạch
- Không phân biệt đối xử
- Dựa trên và phát triển từ TRIPS

9

Sở hữu trí tuệ


- Phản ánh các cam kết đă nêu trong Tuyên bố Doha về TRIPS và
Y tế cộng đồng (Ghi nhận sự cần thiết của việc áp dụng linh hoạt
các quy định của TRIPS trong vấn đề quyền tiếp cận thuốc của cộng
đồng; nhưng chưa có cơ chế cụ thể cho việc này)
Phạm vi vấn đề đàm phán:
- Không phân biệt đối xử;

10

Đầu tư

- Chuẩn đối xử tối thiểu;
- Quy tắc về tịch thu tài sản;
- Các quy định cấm các yêu cầu cụ thể về hoạt động kinh doanh
4


của nhà đầu tư;
- Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước - nhà đầu tư nhanh
chóng, hiệu quả và minh bạch;
- Quyền của nước nhận đầu tư trong việc bảo vệ lợi ích công cộng
Phạm vi đàm phán:
11

Lao động

- Bảo vệ các quyền của người lao động
- Cơ chế đảm bảo hợp tác, phối hợp và đối thoại về các vấn đề lao
động

Các nguyên tắc đảm bảo thực thi Hiệp định:

12

Các vấn đề
pháp lý

- Quy tắc giải quyết tranh chấp;
- Các ngoại lệ về vấn đề minh bạch trong quá trình ban hành pháp
luật nội địa
Phạm vi đàm phán
- Lộ trình cắt bỏ thuế quan của tất cả các dòng thuế (khoảng 11.000
dòng);

13

Thương mại
hàng hóa

- Quy tắc xuất xứ
- TBT, SPS và Phòng vệ thương mại: Dựa trên nền của WTO (phát
triển theo hướng minh bạch hơn và hợp tác hơn)
- Dệt may: Một loạt các quy định liên quan, bao gồm cơ chế hợp
tác hải quan, thủ tục thực thi, quy tắc xuất xứ, cơ chế đàm phán đặc
biệt
Các nguyên tắc cơ bản:

14

Thương mại

dịch vụ

- Mở cửa tất cả các ngành dịch vụ (không đề cập đến cấp độ “phân
ngành”);
- Phương pháp đàm phán: Chọn bỏ + Cho phép đàm phán các ngoại
lệ trong một số lĩnh vực

***TBT (Technical Barriers to Trade): Hàng rào kỹ thuật đối với Thương mại
SPS (Sanitary and Phytosanitary Measures): Biện pháp kiểm dịch động thực vật
NHỮNG LỢI ÍCH KHI THAM GIA TPP

II.

Trong bối cảnh DN Việt Nam vẫn đang bươn chải để vượt qua khó khăn cả ở trong
nước lẫn thị trường nước ngoài, việc chúng ta trông đợi vào một Hiệp định Thương mại
Tự do (FTA – Free Trade Area) với mức độ tự do hóa cao và khả năng tiếp cận dễ dàng

5


hơn vào các thị trường quan trọng cũng là điều dễ lý giải. Một số lợi ích mà DN Việt Nam
kỳ vọng vào TPP này:
1. Thứ nhất:
 Một hiệp định với mục tiêu xóa bỏ phần lớn thuế quan cho hàng hóa giữa 12
nước TPP sẽ là con đường không thể tốt hơn cho hàng hóa xuất khẩu của Việt
Nam tăng sức cạnh tranh về giá khi tiếp cận thị trường các nước đối tác TPP.
 Là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu, lợi thế về thuế quan là rất quan trọng
với hàng hóa Việt Nam, đặc biệt ở thị trường Mỹ và khu vực Bắc Mỹ. Đây là
một thị trường đặc biệt lớn của thế giới, nơi hàng hóa Việt Nam đang phải cạnh
tranh khốc liệt với hàng hóa đến từ nhiều nước khác trong đó có những đối tác

đã được các nước này cho hưởng ưu đãi thuế quan.
 Với các nước khác trong TPP (Australia, New Zealand, các nước ASEAN –
Association of Southeast Asian Nations – Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á,
Chile, Peru), lợi thế này từ TPP có thể ít quan trọng hơn, do hàng hóa của chúng
ta đã có thể tiếp cận thị trường các nước này với thuế quan ưu đãi theo các hiệp
định đã có (ASEAN-Australia, New Zealand, AFTA – ASEAN Free Trade Area
– Khu vực mậu dịch tự do ASEAN…).
2. Thứ hai:
 Với việc mở cửa thị trường Việt Nam cho hàng hóa, dịch vụ đến từ các nước
TPP (thông qua việc cắt giảm thuế quan và các điều kiện khác), có thể kỳ vọng
về một môi trường kinh doanh cạnh tranh hơn, với hàng hóa và dịch vụ giá rẻ
hơn, chất lượng tốt hơn cho người tiêu dùng, với công nghệ, máy móc thiết bị,
nguyên vật liệu phong phú hơn và giá thấp hơn cho sản xuất trong nước, và cả
những mô hình, phương thức quản lý mới, hiện đại và hiệu quả hơn cho DN
Việt Nam. Cùng với đó là kỳ vọng về những lợi ích hữu hình và vô hình từ việc
mở rộng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, trong đó có gia tăng sản xuất, công
ăn việc làm, tăng nguồn thu từ thuế…
 Tuy nhiên, cùng với các thuận lợi chúng ta cũng phải đối mặt với những thách
thức là vấn đề đương nhiên. Mở cửa theo một FTA tham vọng như TPP, thách
thức càng lớn hơn, dưới hình thức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Việt Nam
vốn nhỏ bé và ít kinh nghiệm với những “người khổng lồ” đến từ các nước TPP
ngay ở thị trường trong nước.
 Dù vậy, chúng ta đều hiểu rằng cạnh tranh là yếu tố không thể thiếu trong một
nền kinh tế thị trường, ít nhất với tính chất là động lực, là sức ép để các doanh
nghiệp, các ngành và cả nền kinh tế phải tự điều chỉnh, tự cải thiện, tiến tới tự
hoàn thiện mình. Điều này không phải lý thuyết xa xôi mà là thực tế đã được
6


chứng minh sau gần hai thập kỷ nền kinh tế phát triển theo hướng thị trường,

cạnh tranh, mở cửa. Cạnh tranh từ các nền kinh tế phát triển, với các quy luật
thị trường ổn định và hiện đại như các đối tác TPP càng là cơ hội học hỏi và tiến
bộ tốt hơn.
3. Thứ ba:
 Từ góc độ quản lý nhà nước, tiếp nối những gì mà WTO – World Trade
Organization – Tổ chức Thương mại Thế giới đã mang lại, TPP có thể sẽ lại là
cho một làn sóng cải cách về thể chế và hành chính mới, hiệu quả cho Việt Nam.
Các quy tắc pháp luật, quy trình hành chính và cả cách thức quản lý được chờ
mong sẽ minh bạch hơn, công bằng và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, đáp
ứng tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp và người dân.
 Tất nhiên, nếu so với những thay đổi cơ bản về thể chế và điều hành đã được
chúng ta thực hiện một cách hệ thống và trên diện rộng trong giai đoạn trước và
sau khi Việt Nam gia nhập WTO, những cải thiện mà TPP hứa hẹn đem lại có
thể là nhỏ hơn, hẹp hơn và ở mức độ hạn chế hơn nhiều. Mặc dù vậy, những
thay đổi có thể mang lại cũng sẽ không kém phần ý nghĩa trong bối cảnh chúng
ta cần có thêm động lực để việc cải cách đi vào chiều sâu, triệt để và thực tiễn
hơn.

III.

NHỮNG THÁCH THỨC CẦN ĐỐI MẶT
Bên cạnh những lợi ích mang tính lý thuyết về xuất khẩu của một hiệp định thương
mại tự do, ngay từ thời điểm bắt đầu đàm phán, cũng đã có nhiều quan ngại về những nguy
cơ có thực từ các cam kết TPP.
1. Nguy cơ mất khả năng cạnh tranh:
 Việc giảm thuế quan chắc chắn sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng trong luồng
hàng nhập khẩu từ các nước TPP vào Việt Nam với giá cả cạnh tranh. Hệ quả
tất yếu là doanh nghiệp đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, thị phần hàng hóa của
Việt Nam sẽ bị thu hẹp lại, thậm chí là nguy cơ mất thị phần nội địa. Nguy cơ
này đặc biệt nguy hiểm đối với nhóm hàng nông sản, vốn là nhóm gắn liền với

đối tượng dễ bị tổn thương trong hội nhập là nông dân. Ngoài ra, điều này cũng
dẫn đến việc doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh với nhau và doanh nghiệp
nào yếu kém sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Chỉ doanh nghiệp nào tự thích nghi,
tự điều chỉnh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình mới tồn tại được.
 Ngoài ra, tham gia TPP đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường dịch vụ, là mảng
hoạt động thương mại mà mức độ mở cửa của Việt Nam là hạn chế và dè dặt
7


nhất từ trước đến nay. Việc mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến cho các nhà cung
cấp có tiềm lực lớn, có kinh nghiệm và danh tiếng lâu năm, có ưu thế về cung
cấp dịch vụ trên thế giới "đổ bộ" vào thị trường Việt Nam, khiến cho các đơn vị
cung cấp dịch vụ của Việt Nam gặp khó khăn nghiêm trọng và việc mất thị phần
là nguy cơ có thể dự báo trước được.
 Không những thế, so với các hiệp định khác, TPP hướng tới một sân chơi bình
đẳng, không phân biệt quốc gia phát triển hay đang phát triển trong khi WTO
vẫn có chính sách ưu tien cho các quốc gia đang phát triển. Như vậy, rõ ràng
đây là bất lợi lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi không có đủ năng lực để
cạnh tranh bình đẳng, sòng phẳng với các DN của Mỹ hay Australia.
2. Điều kiện xuất xứ trong xuất khẩu hàng hóa phi nông nghiệp:
 Đối với việc xuất khẩu hàng hóa phi nông nghiệp mà chúng ta có thế mạnh (dệt
may, da giầy, đồ gỗ, điện tử, công cụ, hàng thủ công mỹ nghệ…), để được hưởng
thuế 0% hoặc thuế thấp trong TPP, doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều
kiện về xuất xứ hàng hóa trong Phụ lục của Hiệp định này. Như vậy, đàm phán
về các quy tắc về xuất xứ trong TPP phải đạt được cam kết sao đó để phù hợp
với với thực tế thu mua nguyên liệu, phương thức sản xuất của doanh nghiệp
Việt Nam.
 Trong bối cảnh phần lớn nguyên liệu sản xuất (chiếm tỷ lệ khá cao trong trị giá
sản phẩm) của nhiều ngành xuất khẩu của chúng ta đang được nhập từ Trung
Quốc, Lào, Hàn Quốc... (các nước nằm ngoài TPP). Ví dụ, ngành dệt may của

Việt Nam là ngành xuất khẩu chủ lực nhưng 75% nguyên vật liệu phải nhập từ
Trung Quốc trong khi Trung Quốc không tham gia TPP. Nếu kết quả đàm phán
về xuất xứ trong TPP đòi hỏi trị giá nội địa hoặc nội khối TPP quá cao thì hàng
hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ không đáp ứng được điều kiện hưởng ưu đãi
thuế trong TPP khi xuất khẩu sang các nước TPP.
 Thêm nữa, có lẽ không có doanh nghiệp xuất khẩu nào không biết rằng thuế
quan chỉ là một phần của câu chuyện xuất khẩu. Thuế giảm hoặc được loại bỏ
hoàn toàn nhưng các quy định kỹ thuật (còn gọi là các biện pháp “TBT”) khắt
khe về bao gói, nhãn mác, về mức độ/dư lượng hóa chất tối đa trong sản phẩm,
về tính hợp pháp của nguyên liệu sử dụng… có thể là những rào cản khiến hàng
hóa Việt Nam, thậm chí là không có đường vào thị trường các nước TPP. Lợi
ích thuế quan trong TPP vì vậy cũng sẽ chỉ là “lợi ích trên giấy”.
3. Sản xuất nông nghiệp và nông thôn:
a. Đối với thị trường trong nước

8


 Việt Nam phải mở cửa thị trường, tức phải loại bỏ 100% dòng thuế (thuế quan
nhập khẩu) đối với các sản phẩm nông nghiệp, trong khi rào cản kỹ thuật chưa
có hoặc không cao, nên thị trường nội địa cũng gặp bất lợi.
 Đối với Việt Nam, với tính chất là một nước có khu vực sản xuất nông nghiệp
khá lớn, Việt Nam có nhu cầu cao trong việc yêu cầu các đối tác mở cửa thị
trường nông nghiệp cho nông sản Việt Nam. Vấn đề khó khăn là ở chỗ các nước
TPP đều có xu hướng đàm phán hạn chế, giữ bảo hộ đối với nông sản nội địa
(không mở cửa).
 Trong khi đó, vì nền nông nghiệp của Việt Nam chưa được bền vững, thu nhập
không cao và nhóm nông dân đồng thời là nhóm dễ bị tổn thương trong hội nhập
nên Việt Nam cần bảo hộ một số lĩnh vực nhất định trước sức ép cạnh tranh từ
bên ngoài (giữ mức thuế cao trong một số dòng thuế, đặc biệt là với những sản

phẩm mà các nước TPP có thế mạnh...).
b. Đối với thị trường xuất khẩu
 Rào cản kỹ thuật của các nước sẽ khắt khe hơn, trong khi năng lực cạnh của Việt
Nam không cao dẫn đến khó tận dụng lợi ích từ việc giảm thuế quan.
 Điều này gây bất lợi cho nông sản Việt Nam dù thuế suất có là 0%, đó là một
số nước thuộc TPP đang ra sức bảo hộ, hạn chế nhập khẩu nông sản để bảo vệ
nền nông nghiệp trong nước. Nông sản là vấn đề rất khó đàm phán vì từ xưa đến
nay trong khuôn khổ đàm phán các hiệp định tự do thương mại hay gia nhập
WTO... nông sản luôn là lĩnh vực được các nước bảo hộ mạnh mẽ.
 Vấn đề TBT (hàng rào kỹ thuật thương mại) và SPS (biện pháp vệ sinh dịch tễ)
rất quan trọng đối với khả năng tiếp cận thị trường các nước của nông sản Việt
Nam bởi dù thuế quan (nhập khẩu vào các nước) có được cắt bỏ hết nhưng việc
kiểm dịch, kiểm tra dư lượng kháng sinh, các đòi hỏi về nhãn mác bao gói... của
các nước vẫn ngăn chặn khả năng xuất khẩu của nông sản Việt Nam, thậm chí
là còn rủi ro hơn nhiều so với thuế quan.
 Đàm phán TPP trong vấn đề này hiện hầu như không giải quyết được vướng
mắc này của Việt Nam vì các nội dung đàm phán không đề cập tới vấn đề hạn
chế quyền ban hành các điều kiện SPS, TBT mới của các nước TPP (và vì vậy
các nước này vẫn được đơn phương đưa ra các điều kiện SPS, TBT mới hoặc
điều chỉnh, từ đó ngăn chặn việc nhập khẩu của nông sản Việt Nam vào các
nước này). Thực tế, đàm phán chỉ xoay quanh vấn đề hợp tác để xử lý vướng
mắc, một vấn đề chỉ liên quan tới rút ngắn thời gian xử lý khiếu nại, còn các
điều kiện kiểm dịch thì vẫn giữ nguyên.

9


 Như vậy, để những lợi ích thuế quan đối với nông sản của Việt Nam được hiện
thực hóa, TPP cần có những cam kết ràng buộc và hạn chế quyền tự do, độc
đoán của các nước TPP trong việc ban hành các quy định biện pháp kỹ thuật

hay vệ sinh dịch tễ.
Cũng liên quan tới nông sản, nhưng ở khía cạnh sản xuất, một số cam kết trong TPP
ở những lĩnh vực tưởng như không liên quan nhưng nếu không được đàm phán quyết liệt
cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất và triển vọng của hàng nông sản.
Ví dụ, trong một dự thảo Chương Sở hữu trí tuệ TPP, Mỹ đề xuất các điều khoản
để tăng cường mức độ và thời gian bảo hộ bản quyền sáng chế đối với các loại thuốc bảo
vệ thực vật, phân bón (hóa chất nông nghiệp), thuốc thú y. Và chúng ta biết rằng bảo hộ
càng cao thì giá của sản phẩm càng đắt (vì phải bao gồm trong đó cả phí bản quyền). Giá
nông hóa phẩm và thuốc thú y càng đắt thì chi phí sản xuất của người nông dân càng lớn,
sức cạnh tranh của nông sản vì thế sẽ càng giảm.
Hoặc cũng trong dự thảo này, Mỹ đề xuất bảo hộ chỉ dẫn địa lý (các loại tên gọi sản
vật gắn với khu vực địa lý đặc trưng) như bảo hộ thương hiệu. Tức là cho phép một cá
nhân được quyền đăng ký tên gọi đó cho riêng mình, và nếu đã có người đăng ký thì những
người khác không được sử dụng tên gọi đó cho sản phẩm của mình nữa hoặc nếu muốn sử
dụng phải trả tiền cho “chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý”. Điều này nếu xảy ra sẽ là rủi ro lớn,
những tỏi Lý Sơn, nước mắm Phú Quốc, vải thiều Thanh Hà, cam Vinh, hoa Đà Lạt... nếu
không may bị ai đó nhanh chân đăng ký trước sẽ không còn được sử dụng các tên gọi đó
nữa.
Hay như trong dự thảo Chương lao động, nếu điều khoản về việc chặn và buộc trả
lại toàn bộ hàng xuất khẩu được làm từ lao động trẻ em tại biên giới không được đấu tranh
loại bỏ, những làng nghề thủ công, với những sản phẩm được làm ra trong quy mô hộ gia
đình, với sự tham gia của trẻ em nông thôn Việt Nam sẽ là nhóm đầu tiên phải chịu thiệt
thòi.
IV.

KHUYẾN NGHỊ VỀ PHƯƠNG ÁN MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN
TRONG TPP
Để có thể đưa ra những đề xuất thích hợp trong việc xây dựng phương án bảo vệ
ngành nông nghiệp Việt Nam trước các đối thủ cạnh tranh từ các nước TPP, cần có đánh
giá đầy đủ về tương quan năng lực cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam với các đối tác

TPP, đặt trong bối cảnh các cam kết mở cửa thương mại hiện có của Việt Nam với các
nước này.
Cụ thể, trong số các nước đàm phán, nước ta đã tham gia các FTA khu vực (tức là
đã có cam kết cắt giảm thuế quan xuống bằng 0% theo lộ trình đối với các sản phẩm hàng
10


hóa nói chung và nông nghiệp nói riêng) với các nước hiện là thành viên đàm phán TPP
như sau:
1. Đối với Brunei, Malaysia và Singapore:
 Việt Nam đã tham gia thỏa thuận Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA)
trong đó có cam kết về mở cửa thị trường nông sản cho ba nước này.
 Theo cam kết trong khuôn khổ AFTA, thuế quan của Việt Nam đối với tất cả
các mặt hàng nông sản nhập khẩu từ 03 nước này đều đã ở mức từ 0-5%, kể cả
các mặt hàng nông sản nhạy cảm như đường ăn (mặc dù đường vẫn được duy
trì hạn ngạch thuế quan -TRQ theo cam kết WTO). Như vậy, về mặt thuế quan,
việc mở cửa thị trường nông sản hoàn toàn cho các nước này trong khuôn khổ
TPP sẽ không làm thay đổi tình hình cạnh tranh của Việt Nam với các đối tác
này so với AFTA đã có.
 Về năng lực cạnh tranh thực tế, Brunei và Singapore tuy là hai nước có thu nhập
cao nhưng nước nhỏ và không có sản xuất nông nghiệp đáng kể. Vì vậy, khả
năng nông sản Việt Nam bị cạnh tranh mạnh từ các nước này khi Việt Nam mở
cửa thị trương theo TPP hầu như không có. Đối với Malaysia, do nước này hiện
đang nhập siêu nông sản từ VN (đặc biệt là gạo, rau quả, kể cả thịt) nên nguy
cơ rủi ro khi Việt Nam mở cửa thị trường nông sản cho Malaysia theo TPP cũng
không đặt ra.
 Tóm lại, vấn đề mở cửa thị trường nông sản trong TPP đối với Brunei, Singapore
và Malaysia không đặt ra vấn đề gì nghiêm trọng đối với nông nghiệp Việt Nam.
2. Đối với Úc và New Zealand:
 Việt Nam đã có thỏa thuận mở cửa thị trường nông sản với trong khuôn khổ

FTA giữa ASEAN và hai nước này (AANZFTA).
 Theo FTA này, Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường theo lộ trình nhất định
(tùy thuộc từng dòng thuế) cho nông sản đến từ Úc và New Zealand.
 Lộ trình mở cửa theo FTA này (mặc dù vẫn còn một số năm nữa mới tới hạn
loại bỏ thuế hoàn toàn, tùy loại nông sản) thực sự là một thách thức đối với Việt
Nam bởi đây là hai nước có năng lực cạnh tranh thuộc vào diện cao nhất thế giới
ở các sản phẩm ngành chăn nuôi bò (thịt bò, sữa), quả ôn đới (táo, cam…).
 Trong khi đó, khả năng tiếp cận thị trường hai nước này của nông sản Việt Nam
hầu như không đáng kể do dung lượng thị trường nhỏ (dân số của cả nước chỉ
khoảng 25 triệu người), các yêu cầu kỹ thuật (rào cản kỹ thuật) cao và khả năng
cạnh tranh nội địa về nông sản của nước họ thuộc loại cao nhất trên thế giới.

11


 Do đó, ngay cả với AANZFTA đã ký, lợi ích đối với nông sản của nước ta hầu
như không có, trong khi thách thức lại rất đáng kể. Vì vậy, việc đưa ra cam kết
mở cửa thị trường nông sản trong TPP đối với hai đối tác này chỉ nên dừng lại
ở mức bằng với mức đã cam kết trong AANZFTA để tránh làm trầm trọng hơn
tình hình.
3. Đối với Chi Lê và Pêru:
 Mặc dù Việt Nam mới có FTA với Chi lê năm 2011 và chưa có FTA nào với
Pêru nhưng đây là hai thị trường tương đối xa (về khoảng cách địa lý), quy mô
nhỏ (về dân số) và khả năng cạnh tranh cũng gần như tương đương Việt Nam.
 Vì vậy, việc mở cửa thị trường nông sản Việt Nam cho hai nước này trong khuôn
khổ TPP (dù bằng hoặc sâu hơn mức cam kết trong FTA mới ký với Chi lê) sẽ
không tạo ra thách thức lớn (tại thị trường Việt Nam) và cũng không nhiều hứa
hẹn (tại hai thị trường Chi lê và Pêru).
4. Đối với Mỹ:
 Việt Nam chưa có thỏa thuận thương mại tự do nào với Mỹ (cả song phương và

đa phương), và do đó mức độ cam kết mở cửa thị trường nông sản của Việt Nam
đối với đối tác này hiện tại đang dừng lại ở cam kết WTO.
 Về triển vọng xuất khẩu, TPP có thể mang lại cho nông sản nhiệt đới, nhất là
rau quả chế biến, của nước ta cơ hội tiếp cận thị trường quan trọng này thông
qua việc loại bỏ thuế quan. Tuy nhiên, Mỹ áp dụng hàng rào kỹ thuật, vệ sinh
dịch tễ cao (TBT, SPS) nên khả năng thực tế để nông sản nhiệt đới xâm nhập
được vào thị trường này có thể bị hạn chế nhiều.
 Ngoài ra, Mỹ có thế mạnh trong các sản phẩm như sữa, thịt bò, thịt gia cầm, thịt
lợn và với mức thuế suất hiện tại, Việt Nam cũng đang nhập khá nhiều từ Mỹ,
nếu mở cửa các mặt hàng này, nguy cơ sản phẩm tương tự của Việt Nam gặp
khó khăn khi cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu từ Mỹ là rất lớn.
Như vậy, có thể nói, trong TPP, ba nước Mỹ, Úc, New Zealand là đáng lo ngại nhất
đối với Việt Nam khi đàm phán và thực hiện cam kết về mở cửa hàng nông sản, đặc biệt
đối với các sản phẩm chăn nuôi. Khả năng cạnh tranh của ngành này của Việt Nam còn
tương đối thấp, năng lực sản xuất và công nghệ còn hạn chế trong khi phải đối mặt thường
xuyên với các loại dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm. Trong khi đó chăn nuôi hiện vẫn
đang là ngành tạo công ăn việc làm cho nông dân, nhóm chiếm tới trên 80% dân số, có thu
nhập thấp, không ổn định và trước nay vẫn là đối tượng “dễ bị tổn thương” trong quá trình
mở cửa thị trường. Vì vậy, đối với nhóm này, trong mọi trường hợp, cần có mức độ bảo
hộ nhất định.
12


Thông thường, trong thương mại nông sản, bảo hộ được thực hiện theo nhiều cơ
chế (hợp pháp). Áp dụng trong hoàn cảnh cụ thể của TPP (với các nguyên tắc và tiến triển
như đã phân tích phía trên) thì:
 Bảo hộ bằng thuế quan: Trong TPP, có vẻ như bảo hộ theo cơ chế này đang
gặp thách thức lớn nếu xu hướng đàm phán trong Khung sơ bộ đàm phán TPP
nói trên (loại bỏ 100% dòng thuế, kể cả nông sản) không thay đổi trong những
Vòng đàm phán tới hoặc không có ngoại lệ;

 Bảo hộ bằng lộ trình thuế quan: Cách thức bảo hộ này tuy không triệt để (chỉ
thực hiện được trong một khoảng thời gian hạn chế) nhưng khả thi trong khuôn
khổ TPP. Do đó, cần được tận dụng triệt để cơ chế này cho những mặt hàng
nông sản nhạy cảm, đặc biệt là chăn nuôi. Trong trường hợp cụ thể của TPP,
một kết quả đàm phán mở cửa nông sản, đặc biệt là sản phẩm chăn nuôi, theo lộ
trình bằng với lộ trình mà Việt Nam đã cam kết trong AANZFTA là hợp lý và
khả thi;
 Bảo hộ bằng hạn ngạch thuế quan (TRQ): Cách thức bảo hộ này dường như
là khả thi nhất nếu như biện pháp thuế quan không thể áp dụng được. Trên thực
tế, đây cũng là cơ chế hợp lý hợp tình và do đó dễ được chấp nhận bởi các đối
tác nói chung và đối tác trong TPP nói riêng;
 Bảo hộ bằng các biện pháp kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ (TBT, SPS): Nhóm biện
pháp này, mặc dù được thừa nhận trong WTO và được sử dụng rất phổ biến ở
các nước đối tác TPP như Mỹ, Úc, New Zealand nhưng lại rất khó thực hiện
trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam (bởi nhiều lý do, trong đó có thực tế là
 Một số các biện pháp TBT, SPS nếu sử dụng sẽ phải được áp dụng không
phân biệt đối xử giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu – mà như vậy nếu
tiêu chuẩn quá cao sẽ gây khó cho nông sản nội địa;
 Và Việt Nam chưa có đủ nguồn nhân lực, phương tiện và kỹ năng để thực
hiện việc đảm bảo tuân thủ các biện pháp này của hàng hóa nước ngoài nhập
khẩu vào Việt Nam).
Từ các thực tế này, trong quá trình đàm phán TPP, phương án tốt hơn cả là đề nghị
các nước đối tác phát triển trong TPP có cam kết hỗ trợ kỹ thuật theo các hình thức cụ thể,
khả thi và hiệu quả để thực hiện các biện pháp này.

13


TP.HCM, ngày 10/07/2013
Thông tin công ty

CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN VIỆT NAM KỸ NGHỆ SÚC SẢN (VISSAN)
Địa chỉ : 420 Nơ Trang Long, P. 13, Quận Bình Thạnh, Tp.HCM, Việt Nam
Điện thoại: (84 8) 3553 3999 - 3553 3888
Fax: (84 8) 3553 3939
Email:
Website:

14


Tài liệu tham khảo
1. Diễn biến đàm phán tpp (Trung tâm WTO - VCCI)
/>2. VCCI khuyến nghị phương án hành động cho hiệp hội, doanh nghiệp về một số vấn
đề nóng trong TPP
/>3. Khuyến nghị của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam về phương án mở cửa thị
trường nông sản trong TPP
/>4. Để TPP mang lại những lợi ích kỳ vọng
/>5. Doanh nghiệp Việt Nam phải làm gì khi tham gia TPP?
/>6. Phân tích những lợi ích Việt Nam có thể thu được từ TPP
/>7. Phân tích những bất lợi tiềm tàng của TPP đối với Việt Nam
/>8. Việt Nam và TPP - Những suy tính thiệt hơn
/>
15



×