Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

KHÁI QUÁT LỊCH SỬ MỸ THUẬT THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (871.77 KB, 9 trang )

CHƯƠNG I
MỞ ĐẦU- KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ MỸ THUẬT THẾ GIỚI
Lịch sử Mỹ thuật Thế giới là một trong những học phần cần thiết trong chương
trình đào tạo TCCN ngành Hội họa. Nội dung cơ bản của học phần Lịch sử Mỹ thuật Thế
giới trong Bài giảng này gồm 06 Chương (80 tiết):
- MỞ ĐẦU, CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ MỸ THUẬT THẾ GIỚI (05 tiết)
Khái niệm, sự ra đời và thời điểm xuất hiện nghệ thuật tạo hình, đặc điểm mỹ thuật
thời nguyên thủy, khái quát quá trình phát triển lịch sử Mỹ thuật Thế giới.
- CHƯƠNG II: MỸ THUẬT CỔ ĐẠI
(15 tiết)
Gồm Mỹ thuật Ai Cập cổ đại, Hi lạp cổ đại, La Mã cổ đại
- CHƯƠNG III: MỸ THUẬT PHỤC HƯNG
(15 tiết)
Gồm Mỹ thuật Phục Hưng Ý và giới thiệu 01 số tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
- CHƯƠNG IV: MỸ THUẬT CHÂU ÂU THẾ KỶ XVII, XVIII, XIX
(15 tiết)
Xu hướng nghệ thuật Ấn tượng, Tân Ấn tượng, Hậu ấn tượng
- CHƯƠNG V: MỸ THUẬT THẾ KỶ XX
(15 tiết)
Gồm các trường phái Dã thú, Lập thể, Trừu trượng, Siêu thực
- CHƯƠNG VI: NGHỆ THUẬT CHÂU Á
(15 tiết)
Gồm Mỹ thuật Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản
------- *O* -------KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ THẾ GIỚI (05 tiết)
I. KHÁI NIỆM:
1. Mỹ thuật là gì?
Theo từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông Mỹ thuật là ‘từ dùng để chỉ các loại
hình nghệ thuật tạo hình chủ yếu là Hội họa, điêu khắc, kiến trúc, đồ họa’. Đó là những
ngành nghệ thuật phản ánh cái đẹp bằng màu sắc, đường nét, hình khối.
Hội họa là loại hình nghệ thuật diễn tả không gian ba chiều lên mặt phẳng hai
chiều bằng các ngôn ngữ đặc trưng như hình khối, màu sắc, đường nét, bố cục.


Điêu khắc lại có tiếng nói riêng đó là khối hình. Một tác phẩm điêu khắc được làm
bằng các chất liệu như đá, gỗ, đồng, đất nung, .…
Nếu Hội họa, điêu khắc có tình độc bản thì Đồ họa lại là loại hình nghệ thuật có
khả năng nhân bản với yếu tố ngôn ngữ đặc trưng là nét, mảng, chấm, .…
Kiến trúc là loại hình nghệ thuật thẩm mỹ môi trường. Cái đẹp của tác phẩm kiến
trúc biểu hiện ở sự tạo dáng kiến trúc, đường nét, hình khối, tỉ lệ kiến trúc.
Nghệ thuật trang trí là nghệ thuật làm đẹp, nó gắn liền với nhiều lĩnh vực với con
người và cuộc sống. Trang trí cũng sử dụng ngôn ngữ tạo hình như hình vẽ, màu sắc, họa
tiết, .…


Các loại hình nghệ thuật kể trên đều có một tiếng nói chung đó là tạo hình, tạo khối
bằng một hoặc nhiều yếu tố ngôn ngữ tạo hình. Sự phát triển của mỹ thuật cũng chính là
sự phát triển của nghệ thuật tạo hình.
2. Lịch sử Mỹ thuật là gì?
Lịch sử mỹ thuật là học phần nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của
các loại hình nghệ thuật tạo hình theo tiến trình thời gian lịch sử. Học lịch sử mỹ thuật
giúp chúng ta biết được các giai đoạn phát triển của mỹ thuật. Nhờ thành tựu của nhiều
ngành khoa học tự nhiên cũng như xã hội, chúng ta có thể dựng lại bức tranh về cuộc
sống con người từ thời nguyên thuỷ. Trên cơ sở đó giúp con người ngày nay hiểu về đời
sống sinh hoạt cũng như thẩm mỹ của con người. Mỹ thuật, hay nói đúng hơn là nghệ
thuật tạo hình, đã ra đời hàng nghìn năm trước đây. Do xuất hiện trong quá trình lao động
nên nó đã trở thành hình thức thể hiện ý nghĩa, tình cảm của con người, trở thành một
phương tiện đắc lực của sự nhận thức hiện thực.
* NGHỆ THUẬT PHƯƠNG ĐÔNG & PHƯƠNG TÂY
Tìm hiểu lịch sử nghệ thuật là việc làm tất yếu của người làm nghệ thuật. Giúp họ
hiểu được bản chất của nghệ thuật, biết được vị trí của nền nghệ thuật đương thời thông
qua dòng chảy của nó.
Do đặc điểm địa lý hoặc có thể có những lý do không rõ khác, văn hóa thế giới chia
làm hai khu vực khá rõ : Văn hóa Phương Đông và Phương Tây phát triển theo những con

đường khác nhau và nền nghệ thuật thế giới chia làm hai : Nghệ thuật Phương Đông và
Phương Tây.
Có thể căn cứ vào sự phát triển có tính kế thừa, chung nhau cội nguồn văn hóa, địa
giới của văn hóa Phương Tây gồm những nước Châu Âu, Tây Á, Bắc Phi và nền văn hóa
Phương Đông gồm những nước từ Ấn Độ và các nước lân cận đổ về phía Đông đến Nhật
Bản, các nước Đông Nam Á. Sự hình thành dường như xuất phát từ hai trung tâm
Phương Tây lấy Bắc Phi làm gốc và Phương Đông có cội nguồi quanh dãy Hilamia.
II. SỰ RA ĐỜI & THỜI ĐIỂM XUẤT HIỆN CỦA NGHỆ THUẬT TẠO
HÌNH (MỸ THUẬT NGUYÊN THỦY)
1. Khái niệm
Nguyên thủy là khởi nguyên hay còn gọi là khởi đầu, sơ khai. Là thời kỳ này sinh
và phát triển của chế độ công xã đầu tiên. Nguyên thủy còn có tên gọi khác là tiền sử hay
thời kỳ đồ đá.
Những con người đầu tiên xuất hiện được tiến hoá từ những giống vượn người.
Quá trình tiến hoá đó diễn ra rất chậm, trải qua hàng triệu năm. Họ có những ưu thế lớn
đó là bộ não lớn, đôi tay khỏe và khéo léo. Đặc biệt họ có thể đứng thẳng. Khoảng một
triệu năm trước đây con người đã đứng thẳng, thoát thai khỏi giới động vật. Hình thức sơ
khai nhất của xã hội loài người được hình thành: Xã hội cộng sản nguyên thuỷ . Công cụ
lao động của các cư dân đầu tiên này đều được làm từ đá. Vì vậy, theo khảo cổ học thời
kỳ này được gọi là thời kỳ đồ đá, gồm ba giai đoạn: Đồ đá cũ - đồ đá giữa và đồ đá
mới.
Ở thời kỳ đồ đá cũ con người sống bằng săn bắt và đánh cá. Họ biết chế tạo công
cụ lao động. Trải qua một thời gian dài với người Crôma nhông, dấu hiệu về sự làm đẹp


đã xuất hiện. Họ chú ý tới cách ăn mặc, trang trí vách hang bằng các hình vẽ thú vật và
họ còn làm những bức tượng nhỏ bằng nhiều chất liệu như ngà, xương, …. Tộc người này
sống vào cuối thời kỳ đồ đá cũ. Căn cứ trên các hình vẽ tìm thấy ở một số hang động như
Antamira (Tây ban nha) Látxcô (Pháp), một số bức tượng phụ nữ đã được xác định niên
đại có thể cho ta hình dung về sự ra đời của nghệ thuật tạo hình trong đời sống nguyên

thuỷ. Từ 30.000 năm đến 10.000 năm trước công nguyên đã bắt đầu để lại những dấu vết
về nghệ thuật tạo hình, theo như cách gọi của chúng ta ngày nay.
Nghệ thuật tiền sử
NDH Money
Theo Tư liệu: />(NDH) Từ rất sớm, loài người đã có nhu cầu tạo nên những hình ảnh. Hiện tại
bức tranh sớm nhất được biết đến có niên đại 40.000 năm TCN. Ở Pech de l'Aze,
Pháp Người ta cũng tìm thấy thỏi đất sét nhỏ (cùng niên đại) được sử dụng để vẽ
trên da hay trên tường trong các hang động.
Đến những năm 10.000 TCN có một vài họa sĩ thực thụ đã làm việc chăm chỉ để
phát triển kĩ thuật cũng như chất liệu thể hiện cảm nhận, cái nhìn của họ. Họ thường sử
dụng 3 loại chất màu chính: màu vàng và màu đỏ làm từ đất sét màu và màu đen làm từ
măng-gan. Những sáng tạo trong hang động của họ ngày càng hoàn thiện như ở Lascaux
(Pháp) hay Altamira (Tây Ban Nha). Đó là những sáng tạo nghệ thuật tiền đề của Ai Cập,
Hy Lạp, La Mã và nghệ thuật bích họa của kỷ nguyên mới.
Để phân chia lĩnh vực của các tác phẩm hội họa cổ đại, chúng ta phải tìm hiểu rõ
nghệ thuật trong các hang động. Người ta đã phát thiện ra các tác phẩm tại Gasquet và
Chauvet tại miền nam nước Pháp vào nhưng năm 1991, 1994. Tại châu Âu, những tác
phẩm nghệ thuật thời Đồ đá mới (40.000-10.000 TCN) thường lấy động vật là chủ đề.
Dù ý nghĩa của những bức tranh này là gì: sự hài lòng về công việc săn bắn, sinh sản; sự
phát minh ra các cách để bẫy thú hay là việc thờ cúng đơn giản. Thì chủ đề của những bức
tranh đó là về bò rừng, ma mút, tuần lộc, hươu, dê rừng... và từ đó họ phát triển các khả
năng để thể hiện họ qua những bức họa, mô tả các ý niệm về sự chuyển động, không gian,
nhịp điệu...
Khoảng 10.000 TCN, những bức họa thường ở trong những vùng an toàn, được
bảo vệ trong hang động. Và bắt đầu xuất hiện tại những tảng đá ngoài hẻm núi. Cùng thời
gian đó, con người bắt đầu đưa động vật vào làm chủ về trong những cảnh mô tả. Ở Tây
Ban Nha, người ta khám phá ra những cảnh kích động về chiến tranh hay săn bắn trong
đó một quân đoàn được vẽ theo kiểu đồ họa với những đường vạch thể hiện một cách
đáng ngạc nhiên sự chuyển động, đánh lại một đoàn người khác (hang đá tại Los Dogues)
hoặc săn bắn (hang Remigia, hang Veieja de Alpera)

Mặc dù rất khó giải thích nhưng vẫn có thể phân biệt các thể loại nghệ thuật trong
thời kỳ này. Rất nhiều hang động tại Pháp và Tây Ban Nha gần dãy Pyrenee (nơi những
con người sống vào khoảng 30.000 và 17.000 năm trước) có hình vẽ động vật sử dụng kỹ
thuật chấm (một dải nhiều các chấm màu tạo đường nét), chấm mờ (khi màu chạy từ một
điểm tới một điểm khác, tạo nên một đường các sắc độ khác nhau) và đường đơn giản
(những đường liên tục tạo nên hình bóng của một chân dung đơn giản thường là những
đường ngắn). Thể loại này được gọi là nghệ thuật Perigordian vì những ví dụ tiêu biểu
nhất của nó đều tìm thấy tại các hang động vùng Perigord (Pháp). Những tác phẩm này là
một bước chuyển quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ hình ảnh.


Có rất nhiều các tác phẩm được tìm thấy trong một hang động được gọi là hang
nghệ thuật - hang động nổi tiếng nhất thế giới tại Lascaux (Pháp). Theo kỹ thuật Carbon
14 thì những bức tranh trong hang động này có niên đại ít nhất là 17.000 năm. Có rất
nhiều các kỹ thuật các kiểu vẽ cho thấy các tác phẩm không phải là sáng tạo của 1 người
mà là của rất nhiều các họa sĩ, nhóm họa sĩ qua các thời kỳ. Trong những tác phẩm cuối
thời kỳ tiền sử, có thể thấy trong các bức họa rất nhiều chi tiết được thể hiện, các điểm
tương đồng, các khớp nối giữa một loạt các chân dung và ngay cả dấu vết và các phiên
bản khác nhau của cùng một chủ đề, về cảm nhận không gian ba chiều và quy luật xa gần.
Đây chính là sự bắt đầu thời kỳ Magdalenian với những tác phẩm hội họa đặc biệt thời
tiền sử trong hang động Altamira (Tây Ban Nha)

Tác phẩm có niên đại từ 30.000 - 27.000 năm TCN
trong hang Chauvet - Pháp:

Tác phẩm trong hang Cosquer - Pháp
(hiện hang động này đã chìm dưới nước)


Tác phẩm trong hang Magura (Bulgari)


Cách chúng ta hơn 5.000 năm trước đây, con người mới phát hiện ra chữ viết, lúc
đầu chỉ là những hình vẽ tượng trưng, những ký hiệu để trao đổi. Ví dụ hình tròn có chấm
ở giữa là mặt trời ( ), …. Dần dần các chữ tượng hình xuất hiện. Như vậy thì từ “Nghệ
thuật tạo hình” hay “Mỹ thuật” như ta thấy ngày nay xuất hiện sau những hình vẽ trên
vách hang động thời tiền sử rất nhiều. Khi con người thời tiền sử vẽ hoặc khắc vạch lên
vách, trần hang động nơi họ sinh sống có lẽ họ cũng chưa nghĩ rằng đó là những tác phẩm
nghệ thuật tạo hình. Những hình vẽ đó gắn với cuộc sống, với các đồ vật, nơi sinh hoạt
của con người. Về một mặt nào đó, trong tư duy nguyên thuỷ việc vẽ hình cũng giống
như việc săn bắt hay các công việc khác. Nó không chỉ mang ý nghĩa nghệ thuật mà còn
gắn với cái có ích. Ngoài ra nghệ thuật tạo hình lúc này còn gắn với những tín ngưỡng,
ma thuật. Theo E. H. Gombrich, tác giả cuốn “Câu chuyện nghệ thuật” thì “Tranh và
tượng được họ dùng để thực hành pháp thuật”. “Những người thợ săn thời kỳ này nghĩ
rằng chỉ cần vẽ hình con mồi và có lẽ tấn công chúng bằng giáo mác hay rìu đá,
những con thú thật sẽ khuất phục sức mạnh của họ”. Tất nhiên đây là sự phỏng đoán
của con người ngày nay khi nghiên cứu về 2 lịch sử mỹ thuật của thời nguyên thuỷ.
Ngoài hai ý nghĩa trên, các hình vẽ còn có ý nghĩa là những thông tin nhắn gửi
cho các thế hệ sau về cuộc sống, sinh hoạt của con người thời tiền sử. Ví dụ qua các
hình vẽ thú vật như bò rừng, ngựa, voi, ma mút, … cho chúng ta biết về các động vật thời
nguyên thuỷ, ở bức tranh khác ta được chứng kiến cách đánh cá, cách quăng lưới, cách sử
dụng các con cá mồi lớn. Thậm chí con người thời kỳ đó vẽ chỉ để giải trí. Những con
người đầu tiên có mặt ở khắp nơi trên thế giới: Người Olduvai ở Đông phi, người Bắc


Kinh (Trung Quốc), người Nêanđéctan (Đức), người Crôma nhông (Pháp), …. Dấu vết về
nghệ thuật của họ vì vậy cũng trải ra trên một địa bàn rất rộng lớn: từ Châu Phi, Châu Á
đến Châu Âu (Bắc Âu).
2. Đặc điểm của mỹ thuật Nguyên thủy
2.1. Đặc điểm về đối tượng nghệ thuật
Trong các hình vẽ còn lại trên vách, hang, động nơi con người thời nguyên thuỷ

sinh sống chủ yếu là các hình thú hoặc đơn lẻ hoặc bầy đàn, ở một số tác phẩm đã có ý
thức bố cục các hình tượng theo một chủ đề nhất định. Người nguyên thuỷ đã rất thành
công khi vẽ con vật, các hoạt động của chúng được diễn tả khá điêu luyện và rất sống
động. Đối tượng chủ yếu trong nghệ thuật giai đoạn này là các con thú như ngựa, bò,
hươu, tuần lộc, … điều này có thể lý giải được. Với cuộc sống nguyên thuỷ, các con vật
đó đã góp phần nuôi dưỡng con người, chúng là nguồn thức ăn chính của họ, là đối tượng
gần gũi nhất đối với con người.
Nghệ thuật luôn bắt nguồn từ thực tế, người nguyên thuỷ cũng không thể vượt quá
cuộc sống hiện thực của mình, tầm hiểu biết của mình. Cuộc sống ấy hướng vào những gì
gần gũi, thân quen nhất. Đó chính là sự tìm hiểu các loài thú để có thể săn bắt được, hoặc
tránh xa những con thú nguy hiểm, dữ tợn, .… Tất cả những điều đó được thể hiện qua
hình vẽ. Nghệ thuật nguyên thuỷ vì vậy mới chỉ dừng lại ở việc diễn tả một cách tài tình
các con thú. Hình tượng con người cũng được đề cập tới, nhưng nghệ sĩ nguyên thuỷ đã
sử dụng các sơ đồ hoá, hoặc phong cách hoá đơn giản và ước lệ khi vẽ con người.
Ngược lại trong điêu khắc lại phát hiện thấy hầu hết là tượng người, mà chủ yếu là
phụ nữ, được phát hiện nhiều nơi trên thế giới. Tượng có thể có kích thước to nhỏ khác
nhau. Cái nhỏ nhất khoảng 3,5cm, cái lớn nhất khoảng 23cm. Các bức tượng này được
làm bằng nhiều chất liệu như ngà, sừng, xương, đá hoặc đất nung chúng có chung đặc
điểm là: Tỉ lệ chung chưa được chú ý, chưa cân đối. Phần đầu và tay chân không được
diễn tả kỹ. Phần được chú trọng nhất là phần thân cùng với sự cường điệu phóng đại các
chi tiết: Ngực, mông, bụng. Phần chân dung hầu như không được diễn tả. Có lẽ các nghệ
sĩ khi làm những pho tượng này đã bị chi phối bởi những suy nghĩ đặc biệt, mang theo
tinh thần tư duy nguyên thuỷ.
Minh họa
2.2. Tính tả thực
Phong cách bao trùm mỹ thuật nguyên thuỷ là phong cách tả thực. Nghệ sĩ
nguyên thuỷ đã đi từ đơn giản đến phức tạp dần. Nhưng dù đơn giản hay phức tạp họ đều
đi đến một cái đích: Đó là cố gắng diễn tả đối tượng một cách đúng nhất và sống động
nhất. Điều này chứng tỏ sự quan sát kiên trì và chính xác những đặc điểm của đối tượng.
Sở dĩ người nguyên thuỷ thích tả thực vì những bức vẽ đó chưa đơn thuần là nghệ thuật

mà nó còn gắn liền với nhiều chức năng khác. Những chức năng đó đòi hỏi hình vẽ phải
chính xác, phải giống thực một cách tối đa. Lúc ban đầu, hình vẽ được diễn tả bằng nét là
chính.
Người thời nguyên thuỷ chú ý nhất đến đường sống lưng của con vật. Có thể nói đó
chính là trục tạo dáng cho hình tượng nghệ thuật. Sau này, khi tư duy đã phát triển, con
người biết tìm ra các màu vẽ, rồi tìm cách diễn tả chỗ đậm, chỗ sáng. Từ nét đậm nhạt,
màu sắc, từ những hình đơn lẻ đến các bức tranh có ý thức bố cục, đề tài, đó chính là sự


phát triển của mỹ thuật thời nguyên thuỷ thông qua loại hình nghệ thuật vẽ hình, chạm
khắc hình lên vách, trần hang động.
Cùng với phong cách tả thực, các nghệ sĩ nguyên thuỷ còn biết cách điệu, ước lệ
hoá, sơ đồ hoá. Lấy bức chạm “Một đàn hươu qua sông” trên một mảnh xương tìm thấy ở
hang Mê - ri làm ví dụ. Tác giả đã rất giỏi khi chạm hình 3 con hươu đầu đàn và một con
cuối đà, ở giữa tác giả chỉ diễn tả các cặp sừng cao dần, phía dưới dùng các gạch chéo với
cách làm như vậy tác giả đã cho chúng ta thấy một đàn hươu rất đông đang di chuyển.
Các hoa văn gạch chéo, hay những cặp sừng như một rừng cây đã thay thế cho những con
hươu giữa đàn. Như vậy trong bức chạm này, tác giả của nó đã dùng bút pháp tượng
trưng, ước lệ xen với lối tả thực đạt tới trình độ cao.
Minh họa
2.3. Đặc điểm về kỹ thuật, chất liệu
Một vấn đề đặt ra: Người nguyên thuỷ vẽ bằng gì? Và cách họ vẽ ra sao? Màu vẽ
được gọi là mầu thổ hoàng. Đó là một loại màu được chế tạo bằng cách mài các khoáng
chất thành bột rồi pha với nước. Màu đỏ lấy từ đá hematite (ôxit sắt hay đất son) màu
trắng từ đá Kalin hoặc phấn, màu đen từ dioxýt mangan hay than đá. Một số cộng
đồng người còn biết đun nóng các khoáng chất để tạo ra màu mới. Đôi khi để có chất kết
dính màu thổ hoàng người nguyên thuỷ đã biết dùng mỡ, hoặc tuỷ sống động vật và nhựa
cây. Kỹ thuật vẽ thì đơn giản, có thể dùng que, tay để vẽ. Chất liệu của điêu khắc phong
phú hơn, họ khắc chạm lên xương, sừng, ngà voi hay đá mềm, ….
3. Một số di tích nghệ thuật tạo hình nguyên thuỷ tiêu biểu

Ngày nay chúng ta đã tìm được trên một trăm hang động có hình vẽ. Phần lớn đều
nằm ở miền Bắc Tây Ban Nha và miền Nam nước Pháp. Tuy vậy có hai hang còn lưu giữ
nhiều hình vẽ đẹp. Đó là hang Anta - mi - ra (Tây Ban Nha) và hang Látxcô (Pháp). Đây
được coi là hai bảo tàng lớn của nguyên thuỷ. Hang Anta - mi - ra được phát hiện năm
1863 do một sự tình cờ. Sau 16 năm tìm hiểu, nghiên cứu về các hình vẽ bò rừng ở trong
hang con người thế kỷ XIX mới tin rằng hang Anta - mi - ra chính là một trong những địa
điểm nổi tiếng của mỹ thuật thời nguyên thuỷ. Trong hang có nhiều hình vẽ con bò rừng
(Bi đông) trong các dáng khác nhau và rất sống động. Ngoài những đặc điểm được miêu
tả chính xác các hình vẽ này còn được thể hiện với những đường nét mềm mại, đậm nhạt
sinh động. Nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật còn gọi hang Anta - mi - ra là “Toà tiểu giáo
đường Xicxtin của thời nguyên thuỷ”.
Tác phẩm trong hang Altamira - Tây Ban Nha


Hang Latxcô (Pháp) lại do một nhóm trẻ em đi chơi trong khu rừng Latxcô, do một
sự bất ngờ chúng tìm thấy một chiếc hang lớn. Trên vách và trần hang chúng thấy có
nhiều hình vẽ thú vật. Trong đó rõ và đẹp nhất là hình ngựa, bò, …. Ngựa ở hang Latxcô
được thể hiện có màu sắc và đậm nhạt gợi khối. Những hình vẽ này thành công đến mức
người ta có thể ví nó với hình vẽ ngựa của các hoạ sĩ Trung Quốc, những bậc thầy về diễn
tả con vật.
Tác phẩm trong hang Lascaux - Pháp
Tranh săn hươu 15.000 năm TCN

Tranh bò rừng 13.000 năm TCN

Tranh ngựa 15.000 năm TCN
Theo một số nhà nghiên cứu cho rằng lối vẽ màu ở đây khá độc đáo. Màu được
thổi lên hình vẽ qua một ống sậy hoặc ống xương.
Các hình vẽ được tô màu đỏ là chủ yếu. Trên hình vẽ có một số mảng màu được
cạo bớt đi để diễn tả khối, tạo sự sinh động cho hình tượng. Các tranh vẽ còn lại đến ngày

nay được định tuổi từ khoảng 15.000 đến 10.000 năm trước công nguyên.
Bên cạnh hình thú, ở đây còn có hình tượng con người: Những người đi săn bị
thương ở giữa các con vật, hình người ném lao hoặc hình người nhảy múa với mặt nạ thú.


Bích họa bò rừng bison, hang Altamira, chứng tỏ óc thẩm mỹ và kỹ năng vẽ
cực kỳ điêu luyện của những “người tiền sử”. Màu vẽ gồm 4 loại, làm từ khoáng
chất, không bị phai, khiến bức tranh vẫn tươi sáng dù đã trải qua 16.000 năm. Màu
vẽ chứa sắt dùng làm màu đỏ, vàng và nâu, còn màu đen là MgO. Nhiều nhà nghiên
cứu cho rằng để vẽ nên các tác phẩm ấy, người họa sỹ thượng cổ phải có dụng cụ vẽ
đặc thù và tiên tiến



×