Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU VỀ “CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT” CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TỪ NĂM 2011 ĐẾN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.71 KB, 25 trang )

1

BÀI TẬP LỚN
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU VỀ “CHÍNH SÁCH
LÃI SUẤT” CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM TỪ NĂM 2011 ĐẾN NAY


2

MỤC LỤC

Danh mục các chữ viết tắt
VN Việt Nam
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
NHNN Ngân hàng nhà nước
CSTT Chính sách tiền tệ

Danh mục sơ đồ, bảng biểu
Hình 1.1: Đồ thị tỷ lệ huy động vốn giữa các ngân hàng
Hình 1.2 Đồ thị thể hiện tăng CPI so với tháng trước năm 2010, 2011
Hình 2.1:Biến động lãi suất điều hành năm 2011 so với năm 2012
Hình 2.2: Biểu đồ lãi suất tiền gửi trung bình 12 tháng của năm 2012
Hình 2.3: Đồ thị CPI cả nước từ 12/2011- 12/2012
Hình 2.4: GDP các quý năm 2012


3

Hình 3.1: Đồ thị lãi suất điều hành năm 2013


Hình 3.2 :Đồ thị các loại lãi suất năm 2013

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất là một trong những biến số quan trọng được theo
dõi một cách chặt chẽ nhất bởi nó có quan hệ mật thiết đối với lợi ích kinh tế của từng cá
nhân, tổ chức trong xã hội. Lãi suất tác động đến quyết định của mỗi cá nhân: chi tiêu hay
tiết kiệm để đầu tư. Sự thay đổi lãi suất có thể dẫn tới sự thay đổi quyết định của mỗi
doanh nghiệp: vay để mở rộng sản xuất, hoặc đầu tư vào đâu có lợi nhất. Qua đó ảnh
hưởng tới sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Trong công cuộc đổi mới, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, ý thức được lãi
suất là một trong những công cụ quan trọng, cần thiết để điều hành chính sách tiền tệ
quốc gia. Chính phủ, NHNN đã có những bước cải cách quan trọng về lãi suất để tiến dần
tới tự do hoá hoàn toàn lãi suất ở nước ta – đáp ứng đòi hỏi mang tính tất yếu của nền
kinh tế thị trường. Tuy nhiên, hiện nay việc xây dựng và thực thi một chính sách lãi suất
tiến tới tự do hoá trên cơ sở vừa đảm bảo được sự kiểm soát của nhà nước đối với thị
trường nhằm phù hợp với mục tiêu và diễn biến của các biến kinh tế vĩ mô, với thực trạng
thị trường tài chính trong nước đang là một bài toán khó luôn được các nhà hoạch định
chính sách quan tâm.


4

Xuất phát từ những lý do trên, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu về
“Chính sách lãi suất” của NHNN VN từ năm 2011 đến nay”.
Chương I : Cơ sở lý luận về lãi suất và chính sách lãi suất
Chương II : Lý thuyết về NHNN Việt Nam
Chương III: Thực trạng về việc áp dụng chính sách lãi suất từ năm 2011 đến nay

CHƯƠNG I. Cơ sở lý luận về lãi suất và chính sách lãi suất
1. Khái niệm về lãi suất

Tư duy kinh tế hiện đại có nhiều cách định nghĩa về lãi suất, chẳng hạn Maynard
Keynes cho rằng lãi suất là sự trả công cho số tiền vay, nó là phần thưởng cho sở thích chi
tiêu hay sở thích thanh khoản, David Cox cho rằng lãi suất biểu hiện giá cả khoản tiền mà
người cho vay đòi hỏi khi tạm thời trao quyền sử dụng khoản tiền của mình cho người
khác, hoặc lãi suất có thể được coi là chi phí cơ hội của việc giữ tiền.
Cho dù lãi suất xuất hiện trong quan hệ tín dụng giữa các chủ thể với mục đích đầu tư,
kinh doanh, tiêu dùng hoặc trong quan hệ tín dụng giữa NHTW với các NHTM, với tư
cách là công cụ điều tiết vĩ mô, thì khái niệm lãi suất được thừa nhận phổ biến là: Lãi
suất là giá cả quyền sử dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định mà người sử
dụng phải trả cho người sở hữu. Về mặt định lượng, lãi suất là tỷ lệ phần trăm của phần
tăng thêm này so với phần vốn vay ban đầu.
2. Phân loại lãi suất
 Căn cứ vào thời hạn tín dụng lãi suất chia làm 3 loại:


5

Lãi suất ngắn hạn: Được áp dụng với các khoản tín dụng ngắn hạn có thời hạn dưới một
năm.
Lãi suất trung hạn: Áp dụng với các khoản tín dụng trung hạn. Thời hạn phụ thuộc vào
từng nước có thể từ 1-3 năm hoặc 5 năm
Lãi suất dài hạn: Áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn, có thời gian trên 5 năm.
 Theo giá trị thực của lãi suất chia làm 2 loại:
Lãi suất danh nghĩa (i): Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời điểm
nghiên cứu hay là lãi suất chưa loại trừ tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực tế (): Là lãi suất đã được điều chỉnh cho đúng với những thay đổi về lạm
phát hay là lãi suất đã loại trừ tỷ lệ lạm phát.
Phương trình Fisher:
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + Tỷ lệ lạm phát
Hay I = ir +П

 Theo phương pháp tính lãi suất chia làm 4 loại:

Lãi suất đơn: Là lãi suất tính một lần trên số vốn gốc cho suốt kỳ hạn vay. Thường sử
dụng đối với các hợp đồng có thời hạn ngắn và chỉ có một kỳ thanh toán.
Công thức:
I=Co.i.n
I: số tiền lãi
Co: vốn gốc
i:lãi suất
Trong đó thời kỳ gửi vốn phải tương đương với thời kỳ của lãi suất. Loại lãi suất này
n:kỳ hạn gửi
thường được áp dụng cho các khoản vay ngắn hạn và việc trả nợ được thực hiện một lần
khi đến hạn.
Lãi suất kép: Là mức lãi suất có tính đến giá trị đầu tư lại của lợi tức thu được trong thời
hạn sử dụng tiền vay. Thường áp dụng cho các khoản đầu tư có kỳ hạn thanh toán, trong
đó lãi của kỳ trước được nhập vào vốn gốc để tính lãi cho kỳ sau.
Công thức tính:
C=Co(1+i)n
C: Số tiền thu được sau
n kỳ
Co: Số tiền gốc
i: lãi
suất
Lãi suất hiệu quả: Là lãi suất
thực
sự phát sinh trong một năm (tương tự như lãi suất kép
n: số kỳ hạn
nhưng tính trong một năm)



6

Công thức:

ihq = ( 1 + )n -1
Phụ thuộc lãi suất danh nghĩa và số kỳ tính lãi trong năm.
Lãi suất hoàn vốn: Là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tất cả các khoản thu nhập
nhận được trong tương lai từ một khoản đầu tư với giá trị hôm nay của khoản đầu tư đó.
Ngoài những cách chia chính trên còn rất nhiều cách chia khác về lãi suất
3. Cơ chế điều hành lãi suất
Trong điều hành lãi suất NHTW có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên lãi suất.
Cơ chế tác động trực tiếp: NHTW sử dụng lãi suất với vai trò là công cụ trực tiếp của
CSTT. NHTW áp đặt một khung lãi suất , chênh lệch lãi suất tiền gửi- cho vay hoặc trần
– sàn lãi suất và buộc các TCTD phải tuân theo. Đặc trưng của cơ chế kiểm soát lãi suất,
áp dụng cho những nước đang trong quá trình phát triển, nền kinh tế không ổn định.
Cơ chế tác động gián tiếp: NHTW sử dụng các công cụ gián tiếp của CSTT tác động lên
lãi suất thông qua hành vi của ngân hàng.
Các công cụ đó là:
• Dữ trữ bắt buộc ( theo điều 9 Luật NHNN) : DTBB là số tiền mà các TCTD phải
gửi tại NHNN để thực hiện CSTT quốc gia.
• Lãi suất tái chiết khấu : Là lãi suất mà NHTW (NHNN) đánh vào các khoản tiền
cho các ngân hàng thương mại vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất
thường của các ngân hàng này.
• Nghiệp vụ thị trường mở : Là hoạt động NHTW mua vào hoặc bán ra những giấy
tờ có giá của chính phủ trên thị trường. Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có
giá, NHTW tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng,
từ đó điều tiết lượng cung ứng tiền tệ và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường.
3. Vai trò của lãi suất
 Đối với hộ gia đình
Khi lãi suất huy động vốn tăng lên thì trước hết các hộ gia đình xem xét các khoản chi

tiêu dùng thường xuyên có thể giảm chi hoặc hoãn một số khoản chi để tăng thêm khoản
tiết kiệm trong tổng thu nhập. Sau từ khoản tiết kiệm này họ sẽ hướng đầu tư vào ngân
hàng, các quỹ bảo hiểm hay đầu tư vào thị trường chứng khoán khi thấy có lợi.
 Đối với doanh nghiệp


7

Chính sách lãi suất là một bộ phận trong chính sách tiền tệ của Nhà nước nhằm điều tiết
lưu thông tiền tệ kích thích điều tiết và hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn
vụ kinh tế. Lãi suất phải trả cho khoản vay là khoản chi phí của doanh nghiệp. Do vậy,
lãi suất cho vay thấp sẽ khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh. Ngược lại, lãi suất cho vay cao sẽ thu hẹp đầu tư của các doanh nghiệp. Lãi
suất là công cụ buộc các doanh nghiệp phải sử dụng hiệu quả nguồn lực.
 Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Lãi suất tạo nên khoản chi phí của người đi vay vì vậy sự biến động của lãi suất có tác
động đến đầu tư, tiêu dùng qua đó tác động đến các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô biểu
hiện trong các trường hợp lãi suất thấp kích thích đầu tư, kích thích tiêu dùng tăng tổng
cầu, sản lượng tăng, giá tăng, thấp nghiệp giảm, nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại
tệ.
 Lãi suất tín dụng là công cụ khuyến khích cạnh tranh giữa các NHTM.
Trong khung lãi suất cho phép, để tăng khối lượng vốn huy động. Đồng thời, để mở rộng
mối quan hệ tín dụng với khách hàng, các NHTM có thể nâng mức lãi suất tiền gửi và hạ
lãi suất cho vay.Để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi, mỗi NHTM đều có chiến lược riêng của
mình. Chiến lược này được thực hiện bằng lãi suất ưu đãi. Muốn vậy các NHTM đều tìm
mọi biện pháp giảm thấp chi phí kinh doanh và chi phí quản lý. Sự cạnh tranh lành mạnh
giữa các NHTM sẽ tạo lợi ích kinh tế chung cho toàn bộ kinh tế quốc dân.
 Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng của nền kinh tế.
Người ta thấy rằng trong giai đoạn phát triển của nền kinh tế, lãi suất có xu hướng tăng do
cung cầu quỹ cho vay đều tăng. Ngược lại, trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế, lãi

suất có xu hướng giảm xuống. Do vậy, thông thường nhìn vào xu hướng biến động của lãi
suất ta có thể thấy được tình trạng sức khỏe của nền kinh tế. Lãi suất là biến số thường
xuyên thay đổi trong nền kinh tế. Căn cứ vào sự biến động đó của lãi suất người ta có thể
dự báo được các yếu tố khác của nền kinh tế như tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức
lạm phát dự tính, mức thiếu hụt của ngân sách thì người ta có thể dựa vào lãi suất trong
một thời kỳ để dự báo tình hình kinh tế tương lai.
Chương II. Cơ sở lý luận về NHNN VN
1. Giới thiệu về NHNN VN


8

NHNN VN thành lập vào ngày 6/5/1951 là bước ngoặt lịch sử trong quá trình phát
triển hệ thống tiền tệ - ngân hàng Việt Nam. Hoạt động của Ngân hàng Quốc gia trong
thời kỳ này đã góp phần rất quan trọng củng cố hệ thống tiền tệ độc lập, tự chủ của đất
nước, phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa, tăng cường lực lượng kinh tế quốc doanh,
phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp.
• Thời kì 1951 – 1954: Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập và hoạt động
độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên: Phát
hành giấy bạc Ngân hàng, thu hồi giấy bạc Tài chính; Thực hiện quản lý Kho bạc
Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách;
Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa, tăng cường
lực lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch
• Thời kỳ 1955-1975: Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia thực hiện những
nhiệm vụ cơ bản sau:
Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo
điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế trong chiến tranh phá hoại
bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc.
Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi
phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ

chiến lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền
Nam.
• Thời kỳ 1975-1985: Ngân hàng Quốc gia của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã
được quốc hữu hóa và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại tiền
mới của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả
hai miền Nam- Bắc vào năm 1978. Trong giai đoạn này, hệ thống Ngân hàng Nhà
nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các
hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường.
• Thời kỳ 1986 đến nay: Là quá trình đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống Ngân
hàng Việt Nam
Tính đến nay NHNN đã trải qua 63 năm đi vào hoạt động với nhiều giai đoạn thăng
trầm cùng đất nước mỗi giai đoạn có những mục tiêu và chính sách điều hành khác nhau
nhưng đều góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
2. Chức năng


9

Theo nghị định số 156/2013/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của NHNN VN.
Thực hiện quản lý nhà nước các hoạt động về tiền tệ và ngân hàng trong đó NHNN
có nhiệm vụ xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia đồng thời với chức năng
thanh tra giám sát toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng và ngoại hối
Thực hiện chức năng của NHTW là phát hành tiền
Ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ;
Quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của NHNN
3. Các chính sách lãi suất ngân hàng sử dụng trong các thời kì


Giai đoạn từ tháng 3/1989 trở về trước: Thực hiện điều hành lãi suất theo cơ chế quản
lý kế hoạch hóa tập trung với lãi suất thực âm .
Giai đoạn từ tháng 3/1989 đến năm 5/1992: Chính sách lãi suất cố định
Giai đoạn 1993 đến năm 2000: Lãi suất trần cho vay và sàn lãi suất huy động có linh
hoạt
Giai đoạn 2000 đến 2002: lãi suất cơ bản kèm biên độ dao động
Giai đoạn từ 2002 đến 2010: Lãi suất thỏa thuận
Mỗi thời kì phát triển kinh tế NHNN lại đưa ra những chính sách lãi suất phù hợp
mang tính có lợi đối với nền kinh tế trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Bước
sang giai đoạn 2011 đến nay, tình hình kinh tế có nhiều biến động, chính sách lãi suất của
NHNN có những thay đổi theo hướng kiểm soát chặt chẽ hơn.
Chương III. Tình hình thực tiễn chính sách lãi suất của NHNN VN áp dụng từ 2011
đến nay
Từ năm 2011 NHNN sử dụng chính sách tiền tệ chặt chẽ, chính sách lãi suất cũng
điều chỉnh theo hướng phù hợp. Với việc quy định lãi suất huy động vốn ngắn hạn, đối
với lãi suất huy động vốn dài hạn thì áp dụng lãi suất thỏa thuận. Khởi nguồn bằng chính
sách lãi suất trần huy động theo Thông tư 02/2011 ngày 3/3/2011.
Biện pháp mà NHNN áp dụng để điều chỉnh lãi suất có tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp tới mức cung cầu tiền tệ, nhằm đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ đã đề ra:


10

kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.
Nhóm nghiên cứu chia từng năm để dễ dàng cho việc tìm hiểu và phân tích dựa trên tiêu
chí chính:



NHNN VN áp dụng điều hành lãi suất nào ?

Chính sách đó tác động đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế:
Quá trình huy động vốn và tăng trưởng tín dụng, lạm phát
Tác động đến đầu tư, tỷ lệ thất nghiệp
Tăng trưởng kinh tế

Tùy vào từng năm, với những đặc điểm năm kinh tế khác nhau nhóm phân tích nổi bật
một trong các tiêu chí trên.

1. Chính sách lãi suất của NHNN năm 2011
Năm 2011 là năm NHNN vất vả nhất trong việc khống chế lạm phát . Mức lãi suất
tiếp tục lên ở mức rất cao so với năm 2010, lãi suất cho vay tiêu dùng đã lên tới 25-30%,
còn lãi suất cho vay sản xuất cũng quanh mức 20% trong 2 tháng đầu năm.
Mặc dù lãi suất cao như vậy nhưng dưới sức ép của lạm phát cao Ngân hàng nhà
nước (NHNN) vẫn buộc phải tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ . Để thực hiện mục
tiêu trên NHNN vừa kết hợp giữa cơ chế tác động trực tiếp và gián tiếp. Cụ thể ngày
08/03/2011, NHNH ban hành quyết định tăng lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn và lãi
suất cho vay qua đêm lên 12%. Mức lãi suất tái chiết khấu chỉ còn kém 1% so với mức
đỉnh 13% của thời kỳ năm 2009. Cùng với việc nâng lãi suất chính sách, chỉ trong vòng
tháng 2 và tháng 3 năm này NHNN đã hút về gần 80 nghìn tỷ đồng trên thị trường mở.
Bất chấp lãi suất cao và căng thẳng trên thị trường tiền tệ NHNN đang cân nhắc quyết
định tăng dự trữ bắt buộc. Hiện tại tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với đồng nội tệ chỉ là 1% và
3%, với mức kỳ hạn là trên và dưới 12 tháng, đây là mức rất thấp so với khoảng thời gian
trước đó. Đối với ngoại tệ, ngày 09/03/2011, NHNN vừa quyết định nâng dự trữ bắt kỳ
hạn dưới 12 tháng từ 4% lên 6% và kỳ hạn trên 12 tháng từ 2% lên 4%.
Ngoài ra, NHNN ban hành Thông tư 02 trong đó luật hóa trần huy động lãi suất 14%
với mục đích làm giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên nó vẫn chưa
thực sự phát huy hiệu quả khi gây khó khăn cho rất nhiều ngân hàng nhỏ trong việc huy


11


động vốn trên thị trường. Thực tế thể hiện qua việc các ngân hàng lại ”chạy đua” tăng lãi
suất không kỳ hạn và lãi suất ngắn hạn 1-2 tuần lên gần bằng mức trần. Lãi suất trên thị
trường liên ngân hàng cũng lên cơn sốt. Lãi suất qua đêm cao hơn các kỳ hạn dài hơn và
có những giao dịch lãi suất đã vượt mức 20%.

Hình 1.1: Đồ thị tỷ lệ huy động vốn giữa các ngân hàng
Qua đồ thị thể hiện tỷ lệ huy động vốn giữa các ngân hàng, chúng ta có thể thấy thế
thượng phong đang thuộc về các ngân hàng lớn, đã có uy tín hoạt động nhiều năm, và có
thể coi là “đại gia” trong ngành ngân hàng Việt Nam. Chỉ riêng 7 ngân hàng này đã chiếm
77,61% tỷ lệ vốn được huy động trong năm qua. Theo số liệu cập nhật đến cuối năm
2011, Việt Nam có tất cả 62 ngân hàng dưới tất cả các hình thức. Như vậy 55 ngân hàng
còn lại chiếm tỷ lệ huy động vốn chỉ là 22,39%, chưa bằng ngân hàng có tỷ lệ huy động
vốn lớn nhất là Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (26, 09%). Các ngân
hàng có tỷ lệ huy động vốn lớn tiếp theo lần lượt là Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam BIDV (14,21%), Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam VCB
(13,66%), Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam Vietinbank (10,58%),
Ngân hàng thương mại cổ phần Á châu ACB (5,59%), Ngân hàng thương mại cổ phần Sài
Gòn Thương Tín Sacombank (4,01%) và Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương
Techcombank (3,47%). Theo Reuters, 372.000 tỷ đồng là tổng số tiền huy động của toàn


12

hệ thống ngân hàng đến tháng 7/2011, trong đó huy động trong 7 tháng năm 2011 là
35.600 tỷ đồng.
Các mức lãi suất trên thị trường đã được điều chỉnh phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ
mô và chỉ đạo của chính phủ.
Lạm phát 2011 là vấn đề nóng cần giải quyết trên nhất .Việc đưa gia mức lãi suất trần
cũng như tăng tỷ lệ bắt buộc đã góp phần tích cực trong công tác kiểm soát lạm phát của

NHNN

Hình 1.2 Đồ thị thể hiện tăng CPI so với tháng trước năm 2010, 2011
Với những tháng đầu năm 2011 khi chưa áp dụng chính sách lãi suất lạm phát tăng
nhanh, đỉnh điểm vào tháng 4 tăng 3.32% so với tháng trước tương ứng với mức CPI tăng
12,07%. Sau khi chính sách lãi suất phá huy tác dụng tốc độ tăng CPI có dấu hiệu chậm
lại. Tính đến tháng 12, CPI cả nước tăng 0,36% so với tháng trước đó kéo lạm phát cả
năm về mức 18,58%.
Do hệ quả tăng trưởng tín dụng quá nhanh tăng 27,65% vào năm 2010 kết hợp nhiều
yếu tố kinh tế khác, khiến tình trạng lạm phát tăng cao vào đầu năm 2011 hệ thống ngân
hàng đã phải "thắt lưng buộc bụng", kiềm chế tăng trưởng tín dụng ở mức thấp 10.9%


13

vượt mức dự kiến của NHNN và thấp nhất trong giai đoạn 2000-2011. Thống đốc Nguyễn
Văn Bình nhận xét, “toàn hệ thống ngân hàng năm nay đã phải hy sinh rất lớn để thực
hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế”.
Bên cạnh đó, do NHNN áp trần lãi suất huy động tối đa là 14% , NHNN gặp phải khó
khăn trong vấn đề quản lý : Do tín dụng quá nóng, với mức 14% đưa ra đã cách xa với lãi
suất cân bằng cung cầu trên thị trường nên các TCTD sử dụng các biện pháp kỹ thuật để
“lách” quy định, gây khó khăn trong quá trình điều hành chính sách lãi suất.

2. Chính sách lãi suất của NHNN năm 2012

Sau một loạt hành động trực tiếp cũng như gián tiếp tác động làm lãi suất thị trường
tăng cao, tình hình kiểm soát lạm phát trở lên ổn định hơn. Bước sang năm 2012, NHNN
thực hiện các bước điều chỉnh giảm dần lãi suất. Ngay từ đầu tháng 1/2012 – 4/2012 ,
NHNN quy định “ trần “ lãi suất huy động cố định theo xu hướng giảm dần ( 14%/năm,
13%/năm , 12%/năm, 11%/năm ) và lãi suất cho vay thỏa thuận ở tất cả các đối tượng và

kỳ hạn vay vốn của khách hàng.
Tiếp tục tháng 5/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động (11%/năm) và “trần”
lãi suất cho vay ngắn hạn theo biên độ ( lãi suất cho vay = lãi suất huy động + 3%) với
bốn đối tượng cho vay ưu tiên ( nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp vừa và
nhỏ, công nghiệp phụ trợ ), còn các đối tượng cho vay khác và cho vay trung dài hạn đều
theo lãi suất thỏa thuận.
Ngày 08/6/2012, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời ban hành Thông tư số
19/2012/TT-NHNN và Thông tư số 20/2012/TT-NHNN, quy định “ trần” lãi suất huy
động cố định (9%/năm) và “ trần” lãi suất cho vay cố định (13%/năm ) với bốn đối tượng
sản xuất kinh doanh ưu tiên còn các đối tượng khác đều cho vay theo lãi suất thỏa thuận.
Các mức lãi suất khác cũng đồng thời giảm mạnh: Lãi suất chiết khấu giảm từ
13%/năm xuống còn 7%/năm trong khi lãi suất tái cấp vốn giảm từ 15%/năm xuống
9%/năm.Lãi suất cho vay giảm mạnh từ 3- 8%/năm. Lãi suất cao nhất chỉ còn


14

15%/năm.Lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh 8 – 9%/năm so với đầu năm 2012, thị
trường tiền tệ đã có sự cải thiện tích cực hơn nhiều so với năm 2011.

Hình 2.1:Biến động lãi suất điều hành năm 2011 so với năm 2012
Bảng 2.1 Bảng thống kê lãi suất trung bình 12 tháng của năm 2012
Tháng
Lãi suất
(%)

1

2


3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13.14 13.17 12.45 11.58 10.57 9.32 9.33 9.33 9.56 9.54 9.54 9.25

(Bảng lãi suất huy động trung bình 12 tháng của 40 ngân hàng. Nguồn: Laisuat.vn)

Hình 2.2 Biểu đồ lãi suất tiền gửi trung bình 12 tháng của năm 2012
Mục tiêu kiềm chế lạm phát tiếp tục được phát huy khi tốc độ tăng CPI năm 2012 chậm
dần và hoàn thành chỉ tiêu lạm phát cả năm 2012 là 6,81% thấp hơn hơn mức chỉ tiêu kế
hoạch 7% Quốc hội đề ra.



15

Hình 2.3 Đồ thị CPI cả nước từ 12/2011- 12/2012 (Nguồn tổng cục thống kê)
Tuy nhiên, vẫn chưa xác định được số nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Tăng trưởng
nền kinh tế năm 2012 lại ở mức thấp. Tăng trưởng GDP của cả nước chỉ dừng lại con số
5.03% và không đạt mức 5.2% như đã dự báo. GDP quý I và II chỉ tăng lần lượt 4,64% và
4,8%, quý III và quý IV tăng 5,05% và 5,44%.

Hình 2.4. GDP các quý năm 2012
Đáng chú ý, số vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2012 theo giá hiện hành ước tính
đạt 989,3 nghìn tỷ đồng, tăng 7% so với năm trước và bằng 33,5% GDP, đây là năm có tỷ
trọng vốn đầu tư so với GPD đạt thấp nhất kể từ năm 2000 tới năm 2012.


16
3. Chính sách lãi suất của NHNN năm 2013

Lãi suất huy động và cho vay đều ở xu hướng giảm mạnh. Trong 6 tháng đầu năm,
NHNN có 3 lần điều chỉnh giảm lãi suất :
Ngày 26/3, NHNN giảm 1% các lãi suất chủ chốt gồm tái cấp vốn ( còn 8%) , tái chiết
khấu (6%), cho vay qua đêm trong thanh toán liên ngân hàng (9%), lãi suất cho vay 5 lĩnh
vực ưu tiên (10%/năm). Trần lãi suất huy động giảm từ 8% xuống 7,5%/năm.
Ngày 10/5, NHNN giảm tiếp 1% các lãi suất chủ chốt. Lãi suất tái cấp vốn còn
7%/năm, lãi suất chiết khấu còn 5%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán liên
ngân hàng còn 8%/năm. Lãi suất cho vay với các lĩnh vực ưu tiên giảm còn 10%/năm.
Ngày 28/6, NHNN giảm 0.5% trần lãi suất huy động kỳ hạn 1 tháng đến dưới 6 tháng
xuống 7%/năm, kỳ hạn 6 tháng trở lên được thả nổi, trần lãi suất kỳ hạn dưới 1 tháng còn
1,2%/năm.

Hình 3.1 Đồ thị lãi suất điều hành năm 2013

Mặt bằng lãi suất duy trì xu hướng giảm nhưng tốc độ đã chậm lại. Khoảng cách giữa
tăng trưởng huy động vốn & cho vay được thu hẹp so với năm 2012.


17

Hình 3.2 Đồ thị các loại lãi suất năm 2013
Mặt bằng lãi suất thị trường tiếp tục giảm thêm 1-4% chủ yếu do tác động từ định
hướng điều hành chính sách của NHNN.
Mặt bằng lãi suất theo đó cũng giảm từ 2-5%/năm so với năm 2012 và trở về mức lãi
suất giai đoạn 2005-2006. Ngoài ra, NHNN cũng chỉ đạo giảm mặt bằng lãi suất các
khoản vay cũ về dưới 13%, gia tăng thêm các lĩnh vực ưu tiên để được hưởng lãi suất cho
vay ở mức thấp. Tác động từ chính sách tiền tệ đã giúp mặt bằng lãi suất thị trường 1
giảm thêm 1-4%/năm.
Với những tiêu chí phân tích như hai năm bên trên. Năm này là năm có nhiều mục
mục tiêu đặt ra nhưng chưa thực hiện được Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ước tăng
trưởng 5,42%. Mức tăng này tuy thấp hơn mục tiêu 5,5% đề ra nhưng lại cao hơn mức
tăng 5,25% của 2012. Tăng trưởng tín dụng 2013 ước tăng 8,83%, tuy thấp hơn kế hoạch
là 12% nhưng vẫn cao hơn 2012. Đáng chú ý nhất trong năm 2013 là chỉ số lạm phát thấp
nhất trong 10 năm trở lại đây, đạt 6,04% và thấp hơn mức kế hoạch 8% thông qua hồi đầu
năm

4. Chính sách lãi suất của NHNN năm 2014


18

Năm 2014 chính phủ tiếp tục triển khai các giải pháp tiền tệ, tín dụng ngân hàng
theo mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức
hợp lý, bảo đảm thanh khoản của các tổ chức tín dụng và nền kinh tế. Theo số liệu thống

kê ba tháng đầu năm 2014 nếu tính CPI theo năm thì của tháng 1 tăng 5,45%, của tháng 2
còn tăng thấp hơn (4,65%), tháng 3 tăng 4,39% và tính bình quân 3 tháng đầu năm 2014
chỉ tăng 4,83%. CPI ba tháng đầu năm thấp là tín hiệu khả quan tạo điều kiện thuận lợi
chính phủ đưa ra nghị quyết 14/NQ-CP ngày 05/3/2014 và thông tư 08/2014 TT- NHNN
giảm lãi suất điều hành.
Cơ quan quản lý quy định giảm 0,5 % với các lãi suất điều hành lãi suất tái cấp vốn,
lãi suất tái chiêt khấu, lãi suất cho vay qua đêm. Cụ thể như sau đối với lãi suất tái cấp
vốn giảm từ 7%/năm xuống 6,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5%/năm xuống
4,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay
bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng chỉ còn
7,5%/năm.
Lãi suất huy động vốn cũng giảm xuống 1%, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi
không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 1,2%/năm xuống 1%/năm; lãi suất tối đa
áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 7%/năm xuống
6%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng tại
Quỹ tín dụng nhân dân, Tổ chức tài chính vi mô giảm từ 7,5%/năm xuống 6,5%/năm;
hiện nay lãi suất huy động từ 1 đến 6 tháng của các ngân hàng rơi vào khoảng 5-6%.
Đáng chú ý trong đợt giảm lãi suất lần này có nhiều ngân hàng giảm sâu lãi suất kì hạn từ
6 đến 9 tháng cụ thể Seabank giảm từ 7,7% xuống còn 6,5% đối với kì hạn 6 tháng, từ 8
xuống 6,8% đối với kì hạn 9 tháng
Lãi suất huy động giảm là cơ sở để giảm lãi suất cho vay, giảm chi phí cho các
doanh nghiệp . Lãi suất cho vay vốn trên 12 tháng vẫn áp dụng chính sách lãi suất thỏa
thuận, đối với 5 lĩnh vực ưu tiên NHNN quyết định giảm mức lãi suất tối đa cho vay từ
9% xuống còn 8% giúp các hộ gia đình, doanh nghiệp sản xuất vùng khó khăn có thể tiếp
cận với nguồn vốn dễ dàng hơn nữa. Tăng trưởng tín dụng có tín hiệu tích cực: tính đến
13/3 tín dụng đang ở mức tăng trưởng âm 1,05% so với năm 2013 đến tháng 30/9 tín


19


dụng toàn hệ thống tăng 7,26% so với cuối năm 2013 và có hi vọng hoàn thành chỉ tiêu đề
ra từ tăng trưởng từ 12- 14%.
Tính đến cuối tháng 9, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay bằng VND đã giảm
0,5-1,5%/năm so với cuối năm 2013 và vẫn đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn
định thị trường tiền tệ. Lãi suất của các khoản vay cũ tiếp tục được các TCTD điều chỉnh
giảm. Đến ngày 18/9, dư nợ cho vay bằng VND có lãi suất trên 15%/năm chiếm 4,25%,
giảm so với tỷ trọng 6,3% cuối năm 2013; dư nợ có lãi suất trên 13%/năm chiếm 12,16%
tổng dư nợ cho vay bằng VND, giảm so với tỷ trọng 19,72% cuối năm 2013
Các hoạt động đầu tư cũng trở lên sôi nổi hơn: vốn đầu tư toàn xã hội trên tất cả các
khu vực đều có xu hướng tăng so với cùng kì năm ngoái

Tốc độ phát triển vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện
9 tháng các năm 2012, 2013 và 2014 so với cùng kỳ năm trước
(Theo giá hiện hành)
Đơn vị tính: %
9 tháng
năm 2012
Tổng số

105,4

9 tháng

9 tháng

năm

năm

2013


2014

106,1

110,3


20

Khu vực Nhà nước

108,7

104,2

110,7

Khu vực ngoài Nhà nước

104,9

108,5

112,8

101,6

105,6


105,8

Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài

Theo thông tin từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, đến hết tháng 9/2014, nền kinh tế
Việt Nam đã tăng trưởng 5,54%, trong đó, khu vực nông - lâm nghiệp và thủy sản tăng
3,17%; công nghiệp và xây dựng tăng 6,12%; dịch vụ tăng khoảng 6,02%. Chỉ số sản
xuất công nghiệp (IIP) 9 tháng tăng 6,7%; sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng
3,5%; tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 109,6 tỷ USD, tăng 14,1% so với cùng
kỳ năm 2013. Theo báo cáo đánh giá tại cuộc họp thứ 8 của Quốc hội tăng trưởng ước
tính sẽ vượt mục tiêu 5.8% như đã đề ra.
Dự đoán các hoạt động lãi suất cuối năm 2014. Với dự báo lạm phát vẫn ổn định từ
nay đến cuối năm và kết quả cuộc điều tra xu hướng kinh doanh đối với các TCTD và chi
nhánh ngân hàng nước ngoài của Việt Nam quý IV/2014 do Vụ Dự báo, thống kê Ngân
hàng Nhà nước vừa thực hiện mới đây, cho thấy có 85%-88% TCTD kỳ vọng mặt bằng
lãi suất huy động vốn và cho vay VND tiếp tục duy trì ổn định hoặc giảm trong 3 tháng
cuối năm 2014, trong đó 43-51% TCTD kỳ vọng “không đổi”, 35% kỳ vọng giảm lãi suất
huy động và 44% kỳ vọng giảm lãi suất cho vay với mức giảm bình quân tương ứng là
0,12%/năm và 0,22%/năm so với cuối quý III/2014.


21

Chương IV. Đánh giá về chính sách lãi suất từ năm 2011 đến nay và đưa ra ý kiến
chính sách lãi suất 2015
1. Đánh giá chính sách lãi suất từ năm 2011 đến nay

Lãi suất là công cụ của CSTT nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế đề ra. Mục tiêu dài
hạn trong giai đoạn năm 2011 đến nay là: ” Tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát

lạm phát gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế; nâng cao
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế ”. Lạm phát và lãi suất huy động
có mối quan hệ đồng chiều. Lãi suất qua các năm có xu hướng giảm xuống, thì tỷ lệ lạm


22

phát cũng giảm theo từ mức 18.58% ( 2011), 6.81% ( 2012), 6.04%(2013), dự tính 5.8%
(2014). Đạt theo mục tiêu phát triển kinh tế xã hội , chứng tỏ sự phù hợp của chính sách
lãi suất trong thời gian qua.
Việc NHNN đẩy lãi suất cho vay từ mức rất cao về cân bằng. Đó là một tin rất tốt đối
với doanh nghiệp. Khi lãi suất cho vay giảm thấp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ giai đoạn trước gặp nhiều khó khăn trong cách tiếp cận nguồn vốn nay sẽ dễ dàng
hơn. Tuy nhiên có một nghịch lý xảy ra ngân hàng đã giảm lãi suất nhiều lần nhưng
doanh nghiệp không mặn mà. Nguyên nhân một phần là do các ngân hàng còn ”e dè” với
nợ xấu nên đặt ra các yêu cầu cho vay còn quá khắt khe với tình hình của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ hiện nay. Đối với những doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế tốt, đáp ứng
đủ điều kiện của ngân hàng cũng không tích cực trong việc vay vốn cũng một phần do sức
thị trường tiêu thụ.
2. Một số dự báo của các chuyên gia về nền kinh tế và chính sách lãi suất 2015

Theo đánh giá khả quan năm 2014 là năm nền kinh tế Việt Nam đang phục hồi chậm
nhưng nền kinh tế sẽ đón được những tin tức tốt lành: thỏa thuận tự do thương mại (FTA)
giữa Châu Âu và Việt Nam đang đi đến giai đoạn cuối vào cuối năm nay hoặc đầu năm
2005. Theo đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng vốn đầu từ trực tiếp vào Việt Nam và nhiều lĩnh
vực liên quan.
Trong báo cáo về tình hình kinh tế-xã hội trình bày tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 8
(Quốc hội khóa XIII) sáng 20/10. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu mục tiêu tổng quát
của Chính phủ của năm 2015 là tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh thực hiện
các đột phá chiến lược, tái cơ cấu kinh tế thật nhanh, chuyển đổi mô hình tăng trưởng,

nâng cao năng suất hiệu quả và năng lực cạnh tranh, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn
và vững chắc hơn năm 2014. Chính phủ đặt mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng GDP ở mức
6,2% cho năm 2015. Đối với các chỉ tiêu chính về kinh tế khác cho năm tới, Thủ tướng
cũng cho biết tốc độ tăng giá tiêu dùng sẽ ở mức khoảng 5%. Tổng nguồn vốn đầu tư toàn
xã hội bằng khoảng 27.7% GDP. Trong khi theo tính toán của Uỷ ban Kinh tế Quốc hội
phải đạt khoảng 32%.


23

KẾT LUẬN
Có thể nói, lãi suất luôn là một công cụ hữu hiệu nhất để điều tiết nền kinh tế vĩ
mô, đặc biệt là đối với Việt Nam. Và thực tế cho thấy, trong giai đoạn 2011- 2014, những
chính sách về lãi suất đã có ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế. Mặc dù sự biến động của
lãi suất đã có nhiều tác động không tốt cho các doanh nghiệp, nhưng một điều không thể
phủ nhận rằng nó đã góp phần làm giảm lạm phát, tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.


24

Và dưới sự kiểm soát chặt chẽ của NHTW, lạm phát được giữ ở mức một con số. Đó là
một thành công lớn !

Trong thời gian qua NHNN sử dụng công cụ lãi suất nhìn tổng quan mang lại dấu hiệu
tích cực cho nền kinh tế. Tuy nhiên công cụ lãi suất không phải là “cây đũa thần”, có thể
điều chỉnh tất cả các yếu tố vĩ mô như mong muốn. Do đó cần kết hợp chính sách lãi suất
với nhiều các công cụ khác trong chính sách tiền tệ. Và trong chiến lược phát triển kinh tế
lâu dài Việt Nam cần có bước tiến mới trong việc xây dựng và hoàn thiện nguyên tắc lãi
suất thực dương, đảm bảo tính linh hoạt nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển, ổn định lâu
dài.



25

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
TS. Nguyễn Thị Kim Thanh, Chính sách lãi suất cơ sở lý luận và thực tiễn.
Viện Ngân hàng- Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân, Chính sách lãi suất Việt Namhai mươi năm nhìn lại ,Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng số 143 tháng 4/2014.
Trang web tham khảo
Tổng cục thống kê www.gso.gov.vn
( 8/10/2014)
Ngân hàng phát triển />ID=DETAIL&INFOID=4710
Bách khoa toàn thư mở. />Quỹ tiền tệ quốc tế. />Ngân hàng nhà nước Việt Nam. />Tài chính />VnEconomy />

×