Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Các giải pháp nâng cao chất lượng nhân lực tại công ty chứng khoán APEC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (991.96 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
--------------------------------------PHẠM TUẤN ANH

PHẠM TUẤN ANH

QUẢN TRỊ KINH DOANH

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC
TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT
QUẢN TRỊ KINH DOANH

KHÓA CH2010B

Hà Nội – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
--------------------------------------PHẠM TUẤN ANH

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC
TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT
QUẢN TRỊ KINH DOANH


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN TRUNG KIÊN

Hà Nội – 2013


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thị trường chứng khoán(TTCK) đang và sẽ tiếp tục có nhu cầu lớn về đội
ngũ nhân lực lành nghề. Tại các công ty chứng khoán hiện nay, nguồn nhân lực bị
thiếu hụt nhiều, nhất là các chuyên gia về quản trị rủi ro và tư vấn tài chính doanh
nghiệp. Đây là các chuyên gia có kiến thức về tài chính, thị trường, kinh doanh và
hiểu biết sâu về từng nghành nghề. Đội ngũ này trước mắt rất khó có được qua
tuyển dụng hay đào tạo mới, mà thường được bổ sung từ nguồn các công ty kiểm
toán, ngân hàng lâu năm. Nhân lực chất lượng cao cho ngành tài chính luôn là bài
toán khó. Với mục tiêu phát triển thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn chủ
lực và ổn định của doanh nghiệp, các công ty chứng khoán không thể không có
chiến lược đinh hướng lâu dài nâng cao chất lượng nhân lực nhằm đáp ứng cơ hội
đó. Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế
- xã hội của một quốc gia. Doanh nghiệp được đánh giá là hình thức tổ chức kinh
doanh thích hợp, có những ưu thế về tình năng động, linh hoạt, thích ứng nhanh với
yêu cầu của thị trường và là phương tiện hiệu quả giải quyết công ăn việc làm.
Do xu thế hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, sự hội nhập của Việt
Nam vào các tổ chức kinh tế quốc tế và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế với
các nước trên thế giới là xu thế tất yếu. Môi trường hoạt động này đòi hỏi các doanh
nghiệp (DN) Việt Nam muốn tồn tại và phát triển không chỉ tăng sức cạnh tranh của
doanh nghiệp mình trong nước mà còn phải thắng trong cuộc cạnh tranh với DN

nước ngoài. Để tăng vị thế cạnh tranh với các đối thủ thì việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực phải đặc biệt được coi trọng.
Đối với bất kỳ một Doanh nghiệp nào thì quá trình nhân sự là quá trình hàng
đầu và không thể thiếu được vì nó quyết định sự thành bại của Doanh nghiệp trong
quá trình sản xuất kinh doanh.

PHẠM TUẤN ANH

1

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

Vì vậy, việc đánh giá lại thực trạng và đề ra những giải pháp để phát triển và
nâng cao chất lượng nhân lực đối với công ty Chứng Khoán APEC là một điều thực
sự cần thiết và cấp bách.
Từ thực tế đó, đề tài “Các giải pháp nâng cao chất lượng nhân lực tại công ty
Chứng Khoán APEC ” được lựa chọn để nghiên cứu, mang tính cấp thiết và có ý
nghĩa thực tiễn quan trọng. Kết quả nghiên cứu góp phần nâng cao chất lượng đội
ngũ nhân lực cho công ty.
2. Mục đích nghiên cứu
 Lựa chọn và hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về chất lượng nhân lực trong
kinh tế thị trường.
 Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ nhân lực hiện tại của
công ty Chứng Khoán APEC.
 Đề xuất một số giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng nhân lực
tại Công ty trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu

-

Phương pháp phân tích tổng hợp

-

Phương pháp thống kê, so sánh

-

Phương pháp điều tra, dự báo.

4. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng đội ngũ cán nhân lực tại công ty Chứng Khoán APEC, trên cơ sở
đó đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng nhân lực tại công ty.
5. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung đi vào phân tích thực trạng nhân lực tại công ty Chứng Khoán APEC
từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nhân lực tại công ty.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

PHẠM TUẤN ANH

2

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện và phát triển nhân lực cho công ty Chứng

Khoán APEC góp phần đáp ứng được các yêu cầu của chủ doanh nghiệp về nâng
cao chất lượng nhân lực cũng như hạn chế những tồn tại cho phù hợp với yêu cầu
phát triển chung của xã hội.
7. Nội dung, kết cấu của luận văn
 Phần mở đầu
 Chương 1: Cơ sở lý thuyết về nguồn nhân lực – quản trị chất lượng nhân lực
 Chương 2: Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng nhân lực tại công ty
Chứng Khoán APEC
 Chương 3: Đề xuât một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nhân lực tại
công ty Chứng Khoán APEC
 Kết luận

PHẠM TUẤN ANH

3

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NGUỒN NHÂN LỰC
VÀ QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC
1.1. KHÁI NIỆM, TẦM QUAN TRỌNG VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC

1.1.1. Khái niệm chung về nguồn nhân lực
“ Nguồn nhân lực” (nguồn lực con người) phải chăng là sức mạnh của con
người trong chính sự tồn tại và phát triển của nó đối với thiên nhiên, đối với xã hội
và đối với cả chính bản thân của mỗi con người cụ thể. Khi nói về nguồn lực cơ bản

của sự phát triển, người ta thường nói tới hai nguồn lực là nguồn lực tự nhiên và
nguồn lực con người. Nguồn lực tự nhiên là khái niệm chỉ nguồn tài nguyên thiên
nhiên như: Đất đai, nước, khoáng sản và các điều kiện tự nhiên. Nguồn lực tự nhiên
được xem như món quà của thiên nhiên ban tặng và thường nó có hàm lượng tương
đối ổn định. Trong khi đó nguồn lực con người (nguồn nhân lực) lại mang tính vô
hạn. Nguồn lực con người không mất đi cũng không bị cạn kiệt trong quá trình khai
thác (sử dụng) trái lại, nguồn nhân lực ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của
nền kinh tế xã hội. Đây là ưu thế hơn hẳn của nguồn nhân lực so với nguồn lực tự
nhiên. Trước đây, người ta đánh giá rất cao vai trò của các nguồn lực tự nhiên rồi kỹ
thuật công nghệ, thì ngày nay, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, người ta quan
tâm đến vai trò của con người, của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực đã trở thành
nguồn lực cơ bản nhất, quan trọng nhất để phát triển.
Theo giáo trình “Quản trị nguồn nhân lực” của Học viện Hành chính Quốc
gia “Nguồn nhân lực” “là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định của một
quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một phạm vi một địa phương, một
ngành hay một vùng, một doanh nghiệp (một tổ chức)…” (Nguồn: TS. Vũ Bá Thể
[9] ). Nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất của mọi quốc gia để phát
triển kinh tế - xã hội trong thời đại hiện nay, cũng như các tổ chức kinh tế (doanh
nghiệp) trong quá trình họat động sản xuất - kinh doanh nhằm đạt được hiệu quả
kinh tế cao mang tính lâu dài - bền vững. Mặc dù còn có sự khác nhau trong quan

PHẠM TUẤN ANH

4

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC


niệm về nguồn nhân lực giữa các quốc gia, nhưng nhìn chung, nguồn nhân lực được
xem xét dưới hai góc độ là số lượng và chất lượng dân cư tham gia vào hoạt động
kinh tế xã hội (lao động tham gia vào tổ chức cơ cấu nhân lực của doanh nghiệp).
Số lượng của nguồn nhân lực được xác định bởi các chỉ tiêu về qui mô và tốc độ
tăng của nguồn nhân lực. Chất lượng của nguồn nhân lực được thể hiện bằng các
chỉ tiêu về tình trạng phát triển thể lực, trình độ kiến thức, tay nghề, tác phong nghề
nghiệp, cơ cấu nguồn nhân lực về tuổi tác, giới tính, thiên hướng ngành nghề, phân
bố theo khu vực lãnh thổ, khu vực thành thị - nông thôn… Trong nguồn nhân lực,
chất lượng đóng vai trò quyết định, nhất là trong giai đọan hiện nay, khi mà Khoa
học - công nghệ và kỹ thuật phát triển mạnh mẽ thì nguồn nhân lực có chất lượng
cao có vai trò quyết định cho sự phát triển nhanh và bền vững. Do vậy, phát triển
nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng và là động lực thúc đẩy nền kinh tế xã hội
phát triển.
1.1.2. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thị trường
chuyển sang nền kinh tế tri thức thì nguồn lực con người trở thành động lực chủ yếu
cho sự phát triển. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực, tại Đại hội
lần thứ VII, Đảng ta đã nhấn mạnh: Đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển chung của nhiều nước trên thế giới.
Đó cũng là con đường tất yếu của nước ta để đi tới mục tiêu “Dân giầu nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa đòi hỏi phải
có nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và trở thành động lực thực
sự của sự phát triển. Phát triển nguồn nhân lực cả số lượng và chất lượng là một
nhiệm vụ tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. “Phát triển nguồn
nhân lực” là khái niệm được hiểu ở góc độ hoàn thiện và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực và điều chỉnh hợp lý số lượng nguồn nhân lực. Để có thể phát triển được
nguồn nhân lực, xét từ góc độ nền kinh tế, phải có các cơ chế, chính sách tác động


PHẠM TUẤN ANH

5

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

vào nguồn nhân lực. Như vậy có thể hiểu khái niệm phát triển nguồn nhân lực xã
hội như sau: “Phát triển nguồn nhân lực xã hội là tổng thể các cơ chế chính sách và
biện pháp hoàn thiện, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xã hội (trí tuệ, thể chất,
phẩm chất tâm lý - xã hội) và điều chỉnh hợp lý về số lượng nguồn nhân lực nhằm
đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi về số lượng nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã
hội trong từng giai đọan phát triển”. (Nguồn: TS. Vũ Bá Thể [9]).
1.1.3. Tầm quan trọng và vai trò của nguồn nhân lực.
* Vai trò của nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế (kinh nghiệm các
nước phát triển, đi trước).
Như chúng ta biết, trong những năm 1950 và 1960 tăng trưởng kinh tế chủ
yếu là do công nghiệp hóa; thiếu vốn và nghèo nàn về cơ sở vật chất là khâu chủ
yếu ngăn cản tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu gần đây cho thấy chỉ có
một phần nhỏ của sự tăng trưởng kinh tế có thể được giải thích bởi khía cạnh đầu
vào là nguồn vốn. Phần rất quan trọng của sản phẩm thặng dư gắn liền với chất
lượng lực lượng lao động (trình độ giáo dục, sức khỏe và mức sống).
Đầu tư cho con người, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của từng cá
nhân tạo ra khả năng nâng cao chất lượng cuộc sống cho cả xã hội, từ đó nâng cao
năng suất lao động. Garry Becker, người Mỹ được giải thưởng Nobel kinh tế năm
1992, khẳng định “không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào
nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục”. Lịch sử các nền kinh tế trên thế
giới cho thấy không có một nước giàu có nào đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao

trước khi đạt được mức phổ cập giáo dục phổ thông. Cách thức để thúc đẩy sản
xuất, đến lượt nó thúc đẩy cạnh tranh, là phải tăng hiệu quả giáo dục. Các nước và
các lãnh thổ công nghiệp hóa mới thành công nhất như Hàn Quốc, Xingapo, Hồng
Kông và một số nước khác có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong những thập
kỷ 1970 và 1980 thường đạt mức độ phổ cập tiểu học trước khi các nền kinh tế đó
cất cánh. Mặc dù vậy, các nghiên cứu cũng cho thấy thành công của Nhật Bản và
Hàn Quốc trong kinh tế không chỉ do phần đông dân cư có học vấn cao mà còn do
các chính sách kinh tế , trình độ quản lý hiện đại của họ. Do đó, giáo dục phải được

PHẠM TUẤN ANH

6

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

đề cao hơn nữa (đặc biệt là giáo dục đại học) được xem như là một điều kiện cần
với phát triển kinh tế. Kết quả giáo dục cùng với sự cạnh tranh trong giáo dục đại
học sẽ thúc đẩy các ngành công nghiệp và kinh doanh của các nước đang pháp triển
thu hút những nhà khoa học sáng nhất của họ và của nước ngoài. Khi cân bằng về
sức mạnh khoa học kỹ thuật trên từng khu vực được thiết lập, những mơ ước và ý
đồ đổi mới kỹ thuật công nghệ của các nước đang phát triển sẽ được thực hiện ngay
trên đất nước của mình. Thực tế cho thấy, gần đây nhiều sản phẩm của các nước
châu Á sản xuất ra không cần phải theo giấy phép và mang nhãn của công ty nước
ngoài, hàng hóa do châu Á sản xuất đã tràn khắp các thị trường thế giới. Tiềm năng
kinh tế của một đất nước phụ thuộc vào trình độ khoa học và công nghệ lại phụ
thuộc vào điều kiện giáo dục. Đã có rất nhiều bài học thất bại khi một nước sử dụng
công nghệ ngoại nhập tiên tiến khi tiềm lực khoa học công nghệ và quản lý yếu,

thiếu đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề và do đó không thể ứng dụng
được các công nghệ mới. Không có sự lựa chọn nào khác, hoặc là đào tạo các
nguồn nhân lực quý giá cho đất nước để phát triển hoặc phải chịu tụt hậu so với các
nước khác.
Như vậy, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại không chỉ nhằm biến
đổi cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất như trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Cuộc
cách mạng đó mang nội dung mới trên cơ sở các quan hệ sản xuất, khoa học và
công nghệ. Những phát minh khoa học ở thời kỳ này ngay lập tức được ứng dụng
vào sản xuất và làm xuất hiện một hệ thống sản xuất linh hoạt đủ khả năng thay đổi
nhanh chóng quy trình sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ
tạo ra hàm lượng thông tin và tri thức trong tổng chi phí sản xuất cao. Yếu tố mới
xuất hiện và trở thành yếu tố cốt lõi của cả hệ thống sản xuất hiện đại chính là thông
tin và tri thức. Các số liệu thống kê năm 1990 phản ánh phần đóng góp của thông
tin, tri thức trong thu nhập quốc dân của Hoa Kỳ là 47,4%, Anh 45,8%, Pháp
45,1%, Đức 40,4%. Trí tuệ trở thành động lực cho toàn bộ tương lai của nhân loại,
thúc đẩy sự tiến bộ vừa sâu vừa rộng của xã hội trên nền tảng khoa học và công
nghệ để tạo ra bước tăng trưởng kinh tế mới, hiếm thấy so với trước đây. Kinh

PHẠM TUẤN ANH

7

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

nghiệm về quản lý và sử dụng nguồn nhân lực ở các nước trên thế giới là bài học
quý báu cho chúng ta trong việc khai thác tiềm năng của nguồn nhân lực nước ta.
* Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ở Việt Nam.
Từ thực tế phát triển xã hội của nước ta những năm qua cùng với kinh
nghiệm của các nước đi trước đã chỉ ra rằng việc đầu tư vốn và công nghệ sẽ không
hiệu quả nếu không có nguồn nhân lực tương xứng với các yêu cầu của phát triển.
Xuất phát từ thực tế cũng như xu hướng đầu tư và phát triển của các nước
trên thế giới, bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, mà đặc biệt
là từ Đại hội VII, Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn vai trò của
nguồn nhân lực trong sự phát triển kinh tế xã hội. Từ đó đến nay, Đảng ta luôn coi
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Đảng ta đã khẳng
định: Nâng cao dân chí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt
Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Chính vì thế, nguồn nhân lực được coi là nguồn lực quan trọng nhất, “quý báu nhất,
có vai trò quyết định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực
vật chất còn hạn hẹp”.Trước đây, Việt Nam là một nước có nguồn tài nguyên thiên
nhiên phong phú “rừng vàng, biển bạc, đất đai phì nhiêu”, nhưng trải qua gần 100
năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, tiếp đó là hai cuộc kháng chiến trường kỳ
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tài nguyên nước ta phần bị khai thác gấp rút,
phần bị chiến tranh tàn phá đã trở nên nghèo nàn. Mặt khác, do chính sách khai thác
các nguồn tài nguyên những năm trước đây chưa thật hợp lý, gây nhiều lãng phí nên
nguồn tài nguyên nước ta dần cạn kiệt. Là một nước nông nghiệp nghèo nàn vừa ra
khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội chưa lâu, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế của chúng ta
còn rất nhiều hạn chế, trong khi đó, để tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước đòi hỏi chúng ta phải có một nguồn lực tài chính không nhỏ để đầu tư vào việc
xây dựng các công trình, triển khai ngân sách Nhà nước thì sự nghiệp công nghiệp
hóa - hiện đại hóa ở nước ta không thể sớm hoàn thành. Trước tình hình đó, Đảng và
Nhà nước ta đã xác định đất nước ta chỉ có thể dựa vào một nguồn lực duy nhất và

PHẠM TUẤN ANH

8


CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

quan trọng nhất để tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước là con người và
nguồn lực con người. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là biện pháp giúp chúng ta
có thể khai thác các nguồn lực trong và ngoài nước một cách có hiệu quả.
Trước hết chúng ta cần phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng
yêu cầu của công tác chuyển giao công nghệ. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã
bước vào nền kinh tế hậu công nghiệp - kinh tế tri thức, trong khi đó Việt Nam mới
chỉ bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa, khoảng cách lạc hậu về trình độ
phát triển kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới có nguy
cơ sẽ ngày càng xa. Vì vậy, chúng ta phải tranh thủ lợi thế của người đi sau là có thể
học tập kinh nghiệm của các nước đi trước để có thể rút ngắn được khoảng cách tụt
hậu đó. Theo tinh thần chỉ đạo của Đảng, chúng ta cần nhanh chóng chuyển giao
công nghệ theo hướng đi thẳng vào công nghệ hiện đại để có thể đi trước đón đầu,
nhanh chóng bắt kịp các nước. Để có thể thực hiện chuyển giao công nghệ một cách
có hiệu quả, đòi hỏi chúng ta phải có một đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, đội
ngũ cán bộ khoa học có trình độ. Điều đó có nghĩa là kết quả chuyển giao công
nghệ phụ thuộc một cách trực tiếp vào chất lượng của nguồn nhân lực hay nguồn
nhân lực là nhân tố cơ bản quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa
- hiện đại hóa đất nước. Với trình độ khoa học công nghệ tiên tiến, chúng ta có thể
khai thác các nguồn tài nguyên trong nước vào phát triển sản xuất kinh doanh đem
lại hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh yếu tố khoa học công nghệ, nguồn nhân lực Việt
Nam sẽ có thể thu hút được các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài để khắc phục tình
trạng thiếu vốn ở trong nước, đồng thời tổ chức quản lý và sử dụng các nguồn vốn
đó một cách hiệu quả. Từ cách nhìn nhận trên có thể thấy nguồn nhân lực đóng một
vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta

trong thời kỳ mới. Nhiệm vụ của chúng ta là phải không ngừng nâng cao chất lượng
để có thể phát huy vai trò to lớn đó của nguồn nhân lực.

PHẠM TUẤN ANH

9

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

1.2. CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM NÓI CHUNG-CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN
LỰC NÓI RIÊNG, CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG

1.2.1.Chất lượng sản phẩm, các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm
1.2.1.1. Khái niệm chung về chất lượng.
Chất lượng là một khái niệm quen thuộc với loài người ngay từ thời cổ đại,
tuy nhiên chất lượng cũng đã là một khái niệm gây nhiều tranh cãi. Vì vậy sẽ có rất
nhiều những quan niệm khác nhau về chất lượng.
- E Manuel Cantơ nhà triết học người Đức cho rằng: “Chất lượng sản phẩm
là hình thức quan tòa của sự việc”.
- Jonh Locke nhà triết học người Anh lại cho rằng: Chất lượng sản phẩm có
tính chủ quan và chia làm hai bậc: Ban đầu và thứ cấp. Jonh Locke đã chú ý đến
những tính chất quyết định chất lượng tồn tại trong sản phẩm, nhưng những thuộc
tính ấy lại phụ thuộc vào nhận thức của thế giới vật chất. Chất lượng là khái niệm
tương đối phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tự nhiên, kỹ thuật, môi trường, và những thói
quen của từng người. Theo ngôn ngữ kinh doanh đó là những cường độ ý muốn đối
với một sản phẩm, từng hoàn cảnh khác nhau.
Nhờ những tiến bộ về triết học, về khoa học kỹ thuật thì khái niệm về chất

lượng ngày càng được nghiên cứu hoàn thiện hơn.
- Dựa vào những công trình nghiên cứu về tư bản và hàng hoá (1867). Karx
Marx (1818-1883) đã nêu rõ hơn khái niệm và chất lượng sản phẩm hàng hoá. Ông
viết: “Người tiêu dùng mua hàng không phải hàng có giá trị mà hàng có giá trị sử
dụng và thoả mãn những mục đích xác định.” Điều đó nói lên giá trị sử dụng được
đánh giá; chất lượng là thước đo mức độ hữu ích của giá trị sử dụng, biểu thị mức
độ giá trị sử dụng của hàng hoá.
Bên cạnh những quan điểm nêu trên lại có những quan niệm nhấn mạnh đến
đặc tính khác nhau của sự vật là do sự khác nhau về thành phần hoá học và cấu tạo
khác nhau trong sản vật.
Khái niệm về chất lượng sản phẩm có nhiều lập luận khác nhau. Giáo sư
người Mỹ Philip B. Crosby nhận mạnh: “Chỉ có thể tiến hành có hiệu quả công tác

PHẠM TUẤN ANH

10

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

quản lý chất lượng sản phẩm hàng hoá khi có quan niệm đúng đắn chính xác về chất
lượng”. Chất lượng của sản phẩm hàng hoá đã trở thành mối quan tâm của nhiều
người, nhiều ngành. Có thể tổng hợp ra mấy khuynh hướng sau:
- Khuynh hướng quản lý đề xuất: “Chất lượng của một sản phẩm nào đó là
mức độ mà sản phẩm ấy thể hiện được những yêu cầu, những chỉ tiêu thiết kế hay
những qui định riêng cho sản phẩm ấy”.
- Khuynh hướng thoả mãn nhu cầu theo quan điểm của tổ chức kiểm tra chất
lượng Châu Âu (European Organisation Quality Control): “Chất lượng của sản

phẩm là năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ thoả mãn những nhu cầu của
người sử dụng”. - Theo J. Juran (Mỹ): “Chất lượng sản phẩm là sự thoả mãn nhu
cầu thị trường với chi phí thấp nhất”.
- Theo ISO 8402- 86 “Chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc điểm,
những đặc trưng của sản phẩm thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong những điều
kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng, tên gọi của sản phẩm”.
- Theo tiêu chuẩn Việt Nam 5814- 94 “Chất lượng là tổng hợp các đặc tính
của một thực thể, tạo cho đối tượng đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra
hoặc tiềm ẩn”. Chất lượng của một sản phẩm là trình độ mà sản phẩm ấy thể hiện
được những nhu cầu về chế tạo qui định của nó. Đó là chất lượng trong phạm vi sản
xuất, chế tạo sản phẩm; tất nhiên đối với người sử dụng, đó là sự thoả mãn nhiều
hay ít nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng, mặt này quyết định kết quả của các cơ
quan nghiên cứu, thiết kế sản xuất ra sản phẩm.
Từ đó, chúng ta có thể định nghĩa về chất lượng sản phẩm hàng hoá: “Chất
lượng của sản phẩm là tổng hợp các tính chất, các đặc trưng của sản phẩm tạo
nên giá trị sử dụng, thể hiện khả năng, mức độ thoả mãn nhu cầu tiêu dùng với
hiệu quả cao trong những điều kiện sản xuất, kinh tế và xã hội nhất định”. (TS.
Võ Phước Tấn [6]).
* Những tính chất, những đặc trưng đó thường được xác định bằng những
chỉ tiêu, những thông số về kinh tế, kỹ thuật, thẩm mỹ… có thể cân, đo, đếm và
đánh giá được. Như vậy, chất lượng sản phẩm (CLSP) là thước đo giá giá trị sử

PHẠM TUẤN ANH

11

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC


dụng. Cùng một giá trị sử dụng sản phẩm có thể có mức độ hữu ích khác nhau, mức
chất lượng khác nhau.
* Một sản phẩm có chất lượng cao là một sản phẩm có độ bền chắc, độ tin
cậy cao, dễ gia công, tiện sử dụng, đẹp, có chi phí sản xuất thấp, bảo dưỡng hợp lý,
tiêu thụ nhanh trên thị trường, đạt hiệu quả cao.
Như vậy, CLSP không những chỉ là tập hợp các thuộc tính mà còn là mức độ
các thuộc tính ấy thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong những điều kiện cụ thể. Hay nói
một cách khác, chất lượng của sản phẩm, hàng hoá vừa có tính chủ quan, vừa có
tính khách quan. Quan niệm CLSP hàng hoá như vừa nêu trên thể hiện một lập luận
khoa học toàn diện về vấn đề khảo sát chất lượng, thể hiện chức năng của sản phẩm
trong mối quan hệ: “Sản phẩm - xã hội - con người”.
Khi nghe đến chữ “chất lượng” ta thường nghĩ đến sản phẩm và dịch vụ hảo
hạng đạt được bằng hay hơn điều mong đợi của người mua. Khi một sản phẩm vượt
quá sự mong đợi thì ta coi sản phẩm này là có chất lượng.
1.2.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
* Chất lượng của sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chỉ trên cơ sở xác
định đầy đủ các yếu tố mới đề xuất được những biện pháp để không ngừng nâng
cao CLSP và tổ chức quản lý chặt chẽ quá trình sản xuất kinh doanh.
* Mỗi ngành sản xuất kinh doanh có những đặc điểm riêng, tuy nhiên có thể
phân loại một số yếu tố cơ bản sau:
1) Một số yếu tố ở tầm vi mô.
- Nhóm yếu tố nguyên vật liệu: (Materials)
Đây là yếu tố cơ bản đầu vào có ảnh hưởng quyết định đến CLSP. Muốn có
sản phẩm đạt chất lượng cao thì điều trước tiên nguyên vật liệu để chế tạo sản phẩm
cũng phải đảm bảo về yêu cầu chất lượng. Phải đảm bảo cung cấp cho cơ sở sản
xuất những nguyên vật liệu đúng số lượng, đúng chất lượng, đúng kỳ hạn. Có như
vậy cơ sở sản xuất mới chủ động được quá trình sản xuất và kế hoạch chất lượng.
- Nhóm yếu tố kỹ thuật - công nghệ - thiết bị: (Machines)


PHẠM TUẤN ANH

12

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

• Nếu yếu tố nguyên vật liệu là yếu tố cơ bản quyết định tính chất và chất
lượng của sản phẩm thì yếu tố công nghệ kỹ thuật thiết bị lại có tầm quan trọng đặt
biệt, có tác dụng việc hình thành CLSP.
• Trong sản xuất hàng hoá điều cần thiết là phải nắm đặc tính của nguyên
phụ liệu. Song trong quá trình chế tạo việc theo dõi, khảo sát CLSP theo tỷ lệ phối
trộn là điều quan trọng để mở rộng mặt hàng, thay thế nguyên phụ liệu, xác định
đúng đắn các chế độ gia công để không ngừng nâng cao CLSP.
• Công nghệ: Quá trình công nghệ có ảnh hưởng đến CLSP. Đây là quá trình
phức tạp vừa làm thay đổi, cải thiện nhiều tính chất ban đầu của nguyên vật liệu
theo hướng sao cho phù hợp với công dụng của sản phẩm.
• Bằng nhiều dạng gia công khác nhau: Gia công cơ, nhiệt, hoá học, hoá lý
… vừa tạo hình dáng kích thước, khối lương hoặc có thể cải thiện tính chất nguyên
phụ liệu để đảm bảo chất lượng của sản phẩm theo mẫu thiết kế.
• Ngoài yếu tố công nghệ - kỹ thuật cần phải chú ý đến việc lựa chọn thiết bị.
Kinh nghiệm cho thấy rằng kinh tế và công nghệ được đổi mới thì những thiết bị cũ
kỹ, lạc hậu cũng có thể nâng cao được CLSP. Nói một cách khác, nhóm yếu tố kỹ
thuật - công nghệ - thiết bị có mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ
- Nhóm yếu tố phương pháp tổ chức quản lý: (Methods)
Có nguyên vật liệu tốt, có kỹ thuật - công nghệ - thiết bị hiện đại, nhưng
không biết tổ chức quản lý lao động, tổ chức sản xuất, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn,
tổ chức kiểm tra CLSP, tổ chức tiêu thụ sản phẩm… hay nói một cách khác không

biết tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh thì không thể nâng cao CLSP.
- Nhóm yếu tố con người: (Men)
• Nhóm yếu tố con người bao gồm: cán bộ lãnh đạo các cấp, CBCNV trong
một đơn vị và người tiêu dùng.
• Đối với cán bộ lãnh đạo cần có nhận thức mới về nâng cao CLSP, để có
những chủ trương, những chính sách đúng đắn về CLSP.
• Đối với CBCNV trong một đơn vị kinh tế phải có nhận thức rằng việc nâng
cao CLSP là trách nhiệm và là niềm vinh dự của mọi thành viên, là sự sống còn, là

PHẠM TUẤN ANH

13

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

quyền lợi cần thiết đối với sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp và cũng là chính
của bản thân mình. Trong phạm vi một Doanh nghiệp việc khảo sát một yếu tố ảnh
hưởng đến CLSP theo sơ đồ:
qui tắc 4M:

(MATERIALS)

Nguyên vật liệu,
năng lượng

(MEN)


(MACHINES)

Lãnh đạo, CBCNV,
người tiêu dùng

Kỹ thuật, công nghệ,
thiết bị

CHẤT LƯỢNG
SẢN PHẨM

(METHODS)
Phương pháp, tổ
chức quản lý

Hình 1.1: Sơ đồ qui tắc 4M (Nguồn: [6] )
2) Một số yếu tố ở tầm vĩ mô.
Chất lượng sản phẩm hàng hoá là kết quả của quá trình thực hiện một số biện
pháp tổng hợp: kinh tế - kỹ thuật - hành chính - xã hội…. Những yếu tố vừa nêu
trên (qui tắc 4M) mang tính chất của lực lượng sản xuất. Nếu xét về quan hệ sản
xuất thì CLSP hàng hoá dịch vụ lại còn phụ thuộc chặt chẽ vào các yếu tố sau:
- Nhu cầu của nền kinh tế:

PHẠM TUẤN ANH

14

CAO HỌC QTKD 2010B



CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

• Chất lượng của sản phẩm chịu sự chi phối của các điều kiện cụ thể của nền
kinh tế cụ thể ở các mặt: đòi hỏi của thị trường, trình độ, khả năng cung ứng của sản
xuất, chính sách kinh tế của Nhà nước.
• Nhu cầu của thị trương rất đa dạng phong phú về số lượng, chủng loại….
Nhưng khả năng của nền kinh tế thì có hạn: Tài nguyên, vốn đầu tư, trình độ kỹ
thuật công nghệ đổi mới trang thiết bị, kỹ năng, kỹ xảo của CBCNV… như vậy,
chất lượng của sản phẩm còn phụ thuộc vào khả năng thực hiện của toàn bộ nền
kinh tế.
- Sự phát triển của khoa học kỹ thuật:
Ngày nay chúng ta đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão của khoa học
kỹ thuật hiện đại trên quy mô toàn thế giới. Cuộc cách mạng này đã và đang thâm
nhập, chi phối hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người, Chất lượng bất
kỳ một sản phẩm nào cũng gắn liền với sự phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại, chu
kỳ công nghệ của sản phẩm được rút ngắn, công dụng của sản phẩm ngày càng
phong phú và đa dạng. Song cũng chính vì vậy mà con người không bao giờ thoả
mãn với chất lượng hiện tại, mà thường xuyên theo dõi biến động của thị trường về
đổi mới của khoa học kỹ thuật liên quan đến nguyên vật liệu, kỹ thuật - công nghệ thiết bị … để điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao CLSP, phát triển doanh nghiệp
- Hiệu lực của cơ chế quản lý:
• Trong nền kinh tế thị trường với sự điều tiết quản lý của Nhà nước, sự quản
lý ấy được thể hiện bằng nhiều biện pháp: kinh tế - kỹ thuật - hành chính - xã hội…
cụ thể hóa bằng nhiều chính sách nhằm ổn định sản xuất, nâng cao CLSP, hướng
dẫn tiêu dùng tiết kiệm ngọai tệ như: chính sách đẩu tư vốn, chính sách giá, chính
sách về thuế, tài chính, chính sách hỗ trợ, khuyến kích của Nhà nước đối với một số
doanh nghiệp.
• Hiệu lực của cơ chế quản lý là đòn bẩy trong việc quản lý CLSP, đảm bảo
cho sự phát triển ổn định của sản xuất, đảm bảo uy tín và quyền lợi của nhà sản xuất
và người tiêu dùng. Mặt khác, hiệu lực của cơ chế quản lý còn đảm bảo sự bình


PHẠM TUẤN ANH

15

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

đẳng trong sản xuất kinh doanh giữa các thành phần kinh tế và giữa các doanh
nghiệp trong và ngoài nước.
- Các yếu tố về phong tục, văn hóa, thói quen tiêu dùng:
• Ngoài các yếu tố mang tính khách quan như đã nê trên: nhu cầu của nền
kinh tế, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, hiệc lực của cơ chế quản lý, còn một
yếu tố không kém phần quan trọng đó là yếu tố về phong tục, văn hóa, thói quen
tiêu dùng của từng vùng lãnh thổ, từng thị trường khác nhau.
• Do đó các doanh nghiệp phải tiến hành điều tra nghiên cứu nhu cầu sở thích
của từng thị trường cụ thể, nhằm thoả mãn yêu cầu về số lượng và chất lượng.
1.2.2. Chất lượng nhân lực, các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng nhân lực của
doanh nghiệp
1.2.2.1. Khái niệm về chất lượng nhân lực của doanh nghiệp.
Nhân lực của doanh nghiệp là toàn bộ những tiềm năng lao động mà doanh
nghiệp cần và huy động được trong một thời kỳ xác định cho việc thực hiện, hoàn
thành những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của doanh nghiệp. Nhân lực của doanh
nghiệp còn gần nghĩa với sức mạnh của lực lượng lao động; sức mạnh của đội ngũ
lao động; sức mạnh của đội ngũ cán bộ, công nhân viên (CBCNV) của doanh
nghiệp tại một thời gian nhất định. Sức mạnh đó là sức mạnh hợp thành từ sức
mạnh của các loại người lao động, sức mạnh hợp thành từ khả năng lao động của
từng người lao động. Khả năng lao động của một con người là khả năng đảm nhiệm,
thực hiện, hoàn thành công việc bao gồm các nhóm yếu tố: Sức khỏe (nhân trắc, độ

lớn và mức độ dai sức…), trình độ (kiến thức và kỹ năng, kinh nghiệm), tâm lý,
mức độ cố gắng… Trong kinh tế thị trường không cần có biên chế, nhân lực của
doanh nghiệp là sức mạnh hợp thành các loại khả năng lao động của những người
giao kết, hợp đồng làm việc cho doanh nghiệp. Các loại khả năng lao động đó phù
hợp với nhu cầu đến đâu, đồng bộ từ khâu lo đảm bảo việc làm, lo đảm bảo tài
chính, lo đảm bảo công nghệ, lo đảm bảo vật tư, lo tổ chức sản xuất… đến đâu chất
lượng nhân lực của doanh nghiệp cao đến đó, mạnh đến đó.

PHẠM TUẤN ANH

16

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

Nếu coi con người (nhân lực) như là một loại sản phẩm đặc biệt vì thực chất
con người là một thực thể (sản phẩm) của tự nhiên - xã hội; thì từ định nghĩa về
CLSP và định nghĩa về nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực ở trên ta có thể
có khái niệm về Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp là là một phạm trù kinh
tế phức tạp. Có thể hiểu chất lượng nhân lực của doanh nghiệp là khả năng thỏa
mãn nhu cầu sử dụng nhân lực. Do đó ta có định nghĩa về CLNL như sau: “ Chất
lượng nhân lực là mức độ đáp ứng , phù hợp của các lọai nhân lực thực có so
với nhu cầu (yêu cầu) nhân lực cần phải có cho việc thực hiện, hoàn thành các
nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của doanh nghiệp “. Nguồn [4 Tr 8]
Đối với doanh nghiệp, chất lượng nhân lực là mức độ đáp ứng, phù hợp của
sức mạnh hợp thành từ chất lượng của các loại người lao động làm việc cho doanh
nghiệp so với yêu cầu. Yếu tố chất lượng nhân lực là ưu thế của một doanh nghiệp
trong cạnh tranh . Từ đó vai trò của chất lượng nhân lực ảnh hưởng lớn tới hiệu quả

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Mặc dù ở doanh nghiệp, trang thiết bị và tài sản chính, là những nguồn tài
nguyên mà các tổ chức đều cần có, thế nhưng con người - nguồn nhân lực - vẫn là
đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực đảm bảo nguồn sáng tạo cho mọi tổ chức. Con
người thiết kế và sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ, kiểm tra chất lượng, đưa sản
phẩm ra bán trên thị trường, phân bố nguồn tài chính, xác định những chiến lược
chung và các mục tiêu cho tổ chức đó. Không có những con người làm việc có hiệu
quả thì mọi tổ chức đều không thể đạt được các mục tiêu của mình.
Các sản phẩm và dịch vụ được tạo ra bằng cách kết hợp các nguồn tài nguyên
và cung cấp giá trị gia tăng cho khách hàng. Nếu ta nghĩ về tất cả những nguồn tài
nguyên của tổ chức đó: nguyên vật liệu, các dữ liệu, công nghệ, vốn và nguồn nhân
lực - như là đầu vào và các sản phẩm, dịch vụ được tạo ra như là đầu ra, thì các tổ
chức đều tìm cách tăng tối đa đầu ra đồng thời giảm đến mức tối thiểu đầu vào.
Những quyết định nhân sự sẽ giúp tổ chức quản lý hiệu suất của các công nhân viên
của mình. Và những công nhân viên này lại ra các quyết định về việc quản lý tất cả

PHẠM TUẤN ANH

17

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

những nguồn tài nguyên khác, nên hiệu suất của nhân lực là một nhân tố quan trọng
quyết định hiệu quả của tổ chức.
Ngày nay, khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng lao động trực tiếp. Áp
dụng kỹ thuật tiên tiến là điều kiện tiên quyết để tăng hiệu quả sản xuất của các
doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần thấy rằng:

Thứ nhất: máy móc dù tối tân đến đâu cũng do con người chế tạo ra. Nếu
không có lao động sáng tạo của con người sẽ không thể có các máy móc thiết bị đó.
Thứ hai: máy móc thiết bị dù có hiện đại đến đâu cũng phải phù hợp với trình
độ tổ chức, trình độ kỹ thuật của người lao động.
Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp nhập tràn lan thiết bị hiện đại của nước
ngoài nhưng do trình độ sử dụng yếu kém nên vừa không đem lại năng suất cao lại
vừa tốn kém tiền của cho sửa chữa, kết cục là hiệu quả kinh doanh thấp.
Trong sản xuất kinh doanh, lực lượng lao động của doanh nghiệp có thể sáng
tạo ra công nghệ, kỹ thuật mới và đưa chúng vào sử dụng tạo ra tiềm năng lớn cho
việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cũng chính lực lượng lao động sáng tạo ra sản
phẩm mới có kiểu dáng phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, làm cho sản
phẩm (dịch vụ) của doanh nghiệp có thể bán được tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả
kinh doanh. Lực lượng lao động tác động trực tiếp đến năng suất lao động, đến trình
độ sử dụng các nguồn lực khác (máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...) nên tác động
trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
tri thức. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức là hàm lượng khoa học kết tinh
trong sản phẩm (dịch vụ) rất cao. Đòi hỏi lực lượng phải là lực lượng rất tinh nhuệ,
có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Điều này càng khẳng định vai trò ngày càng quan
trọng của lực lượng lao động đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Nói cách khác, chất xám (năng lực lao động) luôn cần thiết để nâng cao
năng suất lao động và hiệu qủa kinh doanh của doanh nghiệp .
Như vậy, chất lượng nhân lực của doanh nghiệp quyết định chất lượng của
các yếu tố đầu vào, chất lượng của các sản phẩm trung gian, chất lượng của sản

PHẠM TUẤN ANH

18

CAO HỌC QTKD 2010B



CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

phẩm đầu ra, khả năng cạnh tranh của sản phẩm đầu ra và hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
1.2.2.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực của doanh nghiệp.
- Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chỉ
trên cơ sở xác định đầy đủ các yếu tố mới đề xuất được những giải pháp để
không ngừng nâng cao CLNL của doanh nghiệp và tổ chức quản lý chặt chẽ quá
trình sản xuất - kinh doanh. - Cũng như CLSP, CLNL của doanh nghiệp ở mỗi
ngành sản xuất kinh doanh có những đặc điểm riêng, tuy nhiên có thể phân loại
một số yếu tố cơ bản sau:
1) Một số yếu tố ở tầm vi mô.
- Nhóm yếu tố nhân lực đầu vào.
Đây là yếu tố cơ bản đầu vào có ảnh hưởng quyết định đến CLNL của doanh
nghiệp. Muốn có nguồn nhân lực đạt chất lượng cao thì điều trước tiên nguồn nhân
lực đầu vào của doanh nghiệp để thoả mãn nhu cầu về nguồn nhân lực của doanh
nghiệp cũng phải đảm bảo về yêu cầu chất lượng. Phải đảm bảo cung cấp cho doanh
nghiệp nguồn nhân lực đủ số lượng, đúng chất lượng, kịp thời hạn. Có như vậy,
doanh nghiệp mới chủ động được quá trình sản xuất - kinh doanh và cạnh tranh có
hiệu quả.
- Nhóm yếu tố kỹ thuật - công nghệ - thiết bị.
• Nếu yếu tố nhân lực đầu vào là yếu tố cơ bản quyết định đặc tính vốn có và
CLNL của doanh nghiệp thì yếu tố công nghệ kỹ thuật thiết bị lại có tầm quan trọng
đặt biệt, có tác dụng việc hình thành CLNL của doanh nghiệp.
• Trong quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp điều cần thiết là
phải nắm đặc tính vốn có của nguồn nhân lực đầu vào. Song trong quá trình tổ chức
thực hiện, khảo sát CLNL theo mức độ phối hợp trong công việc là điều quan trọng
để cải tiến sáng kiến kỹ thuật - công nghệ, hợp lý hoá sản xuất - kinh doanh, tăng

cường quản lý nhằm không ngừng nâng cao CLNL của doanh nghiệp.

PHẠM TUẤN ANH

19

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

• Nhìn chung CLNL của doanh nghiệp hiện đại phải có cơ cấu gọn nhe, linh
hoạt, khả năng thích ứng cao trong điều kiện thay đổi… đảm bảo thỏa mãn toàn
diện các yêu cầu sử dụng nguồn nhân lực của doanh nghiệp.
• Công nghệ: Quá trình công nghệ có ảnh hưởng đến CLNL của doanh
nghiệp. Đây là quá trình phức tạp vừa làm thay đổi, cải thiện nhiều đặc tính ban đầu
của nguồn nhân lực theo hướng sao cho phù hợp với nhu cầu về nguồn nhân lực đặc
trưng của doanh nghiệp.
• Bằng nhiều tác động khác nhau: kỹ thuật, quy trình công nghệ…đã tạo nên
sự thay đổi về phong cách, kỹ năng, đặc tính của nguồn nhân lực đầu vào để đảm
bảo CLNL của doanh nghiệp theo mẫu thiết kế (hoạch định nguồn nhân lực).
• Ngoài yếu tố công nghệ - kỹ thuật cần phải chú ý đến việc lựa chọn thiết bị.
Kinh nghiệm cho thấy rằng kỹ thuật và công nghệ được đổi mới thì những thiết bị
cũ kỹ, lạc hậu cũng có thể nâng cao được CLNL. Nói một cách khác, nhóm yếu tố
kỹ thuật - công nghệ - thiết bị có mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ với nhau.
- Nhóm yếu tố phương pháp tổ chức quản lý:
Có nguồn nhân lực đầu vào tốt, có kỹ thuật - công nghệ - thiết bị hiện đại,
nhưng không biết tổ chức quản lý lao động, tổ chức sản xuất, tổ chức thực hiện tiêu
chuẩn, tổ chức kiểm tra CLNL, tổ chức tiêu thụ sản phẩm… hay nói một cách khác
không biết tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh thì không thể nâng cao CLNL

của doanh nghiệp.
- Nhóm yếu tố con người:
• Nhóm yếu tố con người bao gồm: cán bộ lãnh đạo các cấp, CBCNV trong
doanh nghiệp.
• Đối với cán bộ lãnh đạo cần có nhận thức mới về nâng cao CLNL, để có
những chủ trương, những chính sách đúng đắn về CLNL, thể hiện trong mối quan
hệ giữa thu hút, đào tạo phát triển, và duy trì nguồn nhân lực.
Đối với CBCNV trong doanh nghiệp phải có nhận thức rằng việc nâng cao
CLNL là trách nhiệm và là niềm vinh dự của mọi thành viên, là sự sống còn, là

PHẠM TUẤN ANH

20

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

quyền lợi cần thiết đối với sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp và cũng là chính
của bản thân mình.
2)Một số yếu tố ở tầm vĩ mô.
Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp là kết quả của quá trình thực hiện một
số biện pháp tổng hợp: kinh tế - kỹ thuật - hành chính - xã hội…. Những yếu tố vừa
nêu trên mang tính chất của lực lượng sản xuất. Nếu xét về quan hệ sản xuất thì
CLNL của doanh nghiệp lại còn phụ thuộc chặt chẽ vào các yếu tố sau:
- Nhu cầu của nền kinh tế:
• Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp chịu sự chi phối của các điều
kiện cụ thể của nền kinh tế cụ thể ở các mặt: mặt bằng giá lao động của thị
trường, trình độ, khả năng duy trì nguồn nhân lực của doanh nghiệp, chính sách

kinh tế của Nhà nước.
• Nhu cầu của thị trường rất đa dạng phong phú về số lượng, chủng loại
nguồn nhân lực…. Nhưng khả năng cung ứng nguồn nhân lực của nền kinh tế thì có
hạn: về ý thức tác phong công nghiệp, về trình độ văn hoá, kỹ thuật, chuyên môn
nghiệp vụ, tay nghề… như vậy, CLNL của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào khả
năng thực hiện của toàn bộ nền kinh tế.
- Sự phát triển của khoa học kỹ thuật:
Chất lượng nhân lực của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng gắn liền với sự
phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại, cũng chính vì vậy mà mọi doanh nghiệp
không bao giờ thoả mãn với CLNL hiện tại, họ thường xuyên theo dõi biến động
của thị trường về đổi mới của khoa học kỹ thuật để điều chỉnh kịp thời nhu cầu
nguồn nhân lực qua đó thực hiện các chính sách mới nhằm nâng cao CLNL của
doanh nghiệp.
- Hiệu lực của cơ chế quản lý:
• Trong nền kinh tế thị trường với sự điều tiết quản lý của Nhà nước, sự quản
lý ấy được thể hiện bằng nhiều biện pháp: kinh tế - kỹ thuật - hành chính - xã hội…
cụ thể hóa bằng nhiều chính sách nhằm ổn định sản xuất, phát triển nguồn nhân lực,
nâng cao CLSP, hướng dẫn tiêu dùng tiết kiệm ngọai tệ như: chính sách đẩu tư vốn,

PHẠM TUẤN ANH

21

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

chính sách giá, chính sách về thuế, tài chính, chính sách hỗ trợ, khuyến kích của
Nhà nước đối với một số doanh nghiệp.

• Hiệu lực của cơ chế quản lý là đòn bẩy trong việc quản lý CLNL của doanh
nghiệp, đảm bảo cho sự phát triển ổn định của sản xuất, đảm bảo uy tín và quyền lợi
của nhà sản xuất và người tiêu dùng. Mặt khác, hiệu lực của cơ chế quản lý còn đảm
bảo sự bình đẳng trong sản xuất kinh doanh giữa các thành phần kinh tế và giữa các
doanh nghiệp trong và ngoài nước.
- Các yếu tố về phong tục, văn hóa, thói quen tiêu dùng:
• Ngoài các yếu tố mang tính khách quan như đã nêu trên: nhu cầu của nền
kinh tế, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, hiệc lực của cơ chế quản lý, còn một
yếu tố không kém phần quan trọng đó là yếu tố về phong tục, văn hóa, thói quen
tiêu dùng của từng vùng lãnh thổ, từng thị trường khác nhau.
• Do đó các doanh nghiệp phải tiến hành điều tra nghiên cứu nhu cầu sở thích
của từng thị trường cụ thể, nhằm thoả mãn yêu cầu về số lượng và chất lượng nguồn
nhân lực của mình.
Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp là mức độ của một tập hợp các đặc
tính vốn có đáp ứng các yêu cầu về nguồn nhân lực của doanh nghiệp; CLNL của
doanh nghiệp là kết quả (chịu ảnh hưởng) của cả một hệ thống các yếu tố thống
nhất có quan hệ hữu cơ với nhau; nâng cao CLNL của doanh nghiệp thực chất là tác
động tích cực vào các yếu tố ảnh hưởng đến CLNL của doanh nghiệp.
1.3. PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC HIỆN CÓ CỦA
DOANH NGHIỆP.

Trong kinh tế thị trường doanh nghiệp hoạt động là vận dụng các nguồn lực
giành giật với các đối thủ các yếu tố đầu vào, phần nhu cầu thị trường, lợi nhuận,
các lợi ích từ hoạt động kinh doanh nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển.
Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải tiến hành một loạt các hoạt
động một cách khoa học nhất. Công việc nào cũng do con người đảm nhiệm, hoạt
động nào của doanh nghiệp do con người tiến hành.

PHẠM TUẤN ANH


22

CAO HỌC QTKD 2010B


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APEC

Sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp do một đội ngũ người lao động lo liệu tạo
ra. Đa số người lao động ở doanh nghiệp chỉ thực hiện nhiệm vụ được giao một
cách say mê, sáng tạo khi họ có trình độ cao và được tạo động cơ, tức là khi có cơ
chế, chính sách sử dụng hấp dẫn, đảm bảo hài hòa lợi ích. Khi đông đảo người lao
động làm việc say mê, sáng tạo sản phẩm của doanh nghiệp mới có vị thế cạnh
tranh tốt về chất lượng, giá, thời hạn, thuận tiện so với các đối thủ cạnh tranh. Khi
sản phẩm đầu ra có vị thế cạnh tranh tốt doanh nghiệp có doanh thu bằng các đối
thủ nhưng có tổng chi phí của doanh thu đó thấp hơn hoặc với cùng chi phí doanh
nghiệp có doanh thu cao hơn, tức là hiệu quả kinh tế cao hơn. Trong kinh tế thị
trường tập thể doanh nghiệp cần có hiệu quả kinh tế cao bền vững, nghĩa là doanh
nghiệp phải đầu tư thỏa đáng cho việc đảm bảo môi trường và mặt chính trị - xã hội.
Chỉ khi có môi trường chính trị - xã hội, môi trường tự nhiên, môi trường lao động
ổn định tốt làm doanh nghiệp mới duy trì, phát triển được hoạt động kinh doanh, đạt
hiệu quả kinh tế cao bền vững. Để đạt hiệu quả kinh tế cao bền lâu doanh nghiệp lại
càng phải có đội ngũ CBCNV mạnh đồng bộ. Như vậy, chất lượng nhân lực của
doanh nghiệp quyết định chất lượng của các yếu tố đầu vào, chất lượng của các sản
phẩm trung gian, chất lượng của sản phẩm đầu ra, khả năng cạnh tranh của sản
phẩm đầu ra và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Càng chuyển sang kinh tế
thị trường, cạnh tranh giành giật người tài: chuyên gia quản lý; quản lý chiến lược
và quản lý điều hành, chuyên gia công nghệ, thợ lành nghề càng quyết liệt.
Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp phải được xem xét, đánh giá bằng
cách xem xét phối hợp kết quả đánh giá từ ba cách tiếp cận: mức độ đạt chuẩn, chất
lượng công việc và hiệu quả hoạt động của cả tập thể:

1.3.1. Đánh giá chất lượng nhân lực của doanh nghiệp bằng cách: đo lường
theo các tiêu chuẩn - so với mức chuẩn của từng tiêu chuẩn - đưa ra mức độ
đạt chuẩn;
Trong thực tế, việc thay đổi, nâng cao chất lượng nhân lực là điều tất yếu, vì
vậy muốn sự thay đổi đó có hiệu quả phải làm rõ được nâng từ bao nhiêu lên bao
nhiêu, và nâng bằng cách nào. Như vậy, cần thiết phải đánh giá được thực trạng đội

PHẠM TUẤN ANH

23

CAO HỌC QTKD 2010B


×